Khóa luận Các biện pháp phi thuế quan và lộ trình cắt giảm của Việt Nam trong quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tới năm 2010

MỤC LỤC

 

Lời nói đầu .1

Chương I: Các biện pháp phi thuế quan chủ yếu của WTO và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam .4

I. WTO và các biện pháp phi thuế quan .4

1. Vài nét về WTO .4

1.1 Sự thành lập .4

1.2 Mục tiêu của WTO .5

1.3 Chức năng của WTO .5

1.4 Các nguyên tắc của WTO .6

2. Các biện pháp phi thuế quan trong WTO .9

2.1 Khái niệm và đặc điểm của các biện pháp phi thuế quan .9

2.2 Các biện pháp phi thuế quan chủ yếu của WTO .13

2.2.1 Các biện pháp quản lý định lượng .13

2.2.2 Các biện pháp quản lý giá .18

2.2.3 Các biện pháp liên quan tới doanh nghiệp .21

2.2.4 Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại .22

2.2.5 Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời .24

2.2.6 Quy tắc xuất xứ .28

2.2.7 Các biện pháp liên quan tới đầu tư .30

2.2.8 Các biện pháp khác .30

II. Tác động của các biện pháp phi thuế quan đến Thương mại quốc tế và đến các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam .32

1. Những tác động đến thương mại quốc tế từ các biện pháp phi thuế quan của WTO.32

1.1 Biện pháp trợ cấp .33

A. Tác động tích cực .33

B. Tác động tiêu cực .35

1.2 Thuế đối kháng .41

2. Tác động của các biện pháp phi thuế đến các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam .44

2.1 Tác động tích cực .44

2.2 Tác động tiêu cực .45

Chương II: Thực trạng áp dụng các biện pháp phi thuế quan ở Việt Nam từ 1996-2000.49

I. Các biện pháp phi thuế được áp dụng tại Việt Nam .49

1. Các biện pháp quản lý định lượng .49

2. Các biện pháp quản lý giá .51

3. Các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp .53

4. Hàng rào kỹ thuật .54

5. Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời .55

6. Các biện pháp liên quan đến đầu tư .57

7. Các biện pháp quản lý hành chính .59

II. Thực trạng áp dụng các biện pháp phi thuế quan trong một số lĩnh vực cụ thể .61

1. Đối với một số sản phẩm nông nghiệp .61

2. Đối với một số sản phẩm công nghiệp .64

 

Chương III: Lộ trình cắt giảm các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam nhằm đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO giai đoạn từ 2001-2005 và đến 2010. .72

I. Định hướng các biện pháp phi thuế quan sẽ sử dụng ở Việt Nam đến năm 2010.72

1. Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch động vật .73

2. Các biện pháp chống bán phá giá .74

3. Tự vệ .74

4. Trợ cấp và các biện pháp đối kháng .74

5. Thuế thời vụ .76

6. Hạn ngạch thuế quan .77

7. Biện pháp tự vệ đặc biệt .77

8. Các biện pháp liên quan đến môi trường .77

II. Dự kiến lộ trình cắt giảm các biện pháp phi thuế quan trong quá trình đàm phán gia nhập WTO . 78

1. Các biện pháp chung .79

2. Các mặt hàng cấm nhập khẩu và nhập khẩu có điều kiện .81

3. Lộ trình cắt giảm các biện pháp phi thuế quan .81

Kết luận .87

Tài liệu tham khảo .88

 

doc89 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4111 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các biện pháp phi thuế quan và lộ trình cắt giảm của Việt Nam trong quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tới năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trong ngắn hạn, trợ cấp có thể tạo ra vị thế cạnh tranh cao hơn cho sản phẩm nội địa và duy trì ổn định lực lượng lao động trong ngành được trợ cấp. Tuy nhiên, trong dài hạn, trợ cấp ngăn cản hoặc làm suy giảm nỗ lực cải tiến năng suất, hợp lý hóa sản xuất, tự vươn lên để tồn tại của các doanh nghiệp. Trợ cấp thậm chí có thể là nguyên nhân phát sinh thói quen ỷ lại, dựa dẫm. Các nỗ lực thay vì cố gắng tập trung vào tự nâng cao sức cạnh tranh của bản thân trong sản xuất thì lại được hướng vào việc cố gắng dành được sự hỗ trợ, ưu đãi của chính phủ. Do đó, trợ cấp có thể cản trở sự phát triển của chính ngành được trợ cấp. *) Chi phí cơ hội của trợ cấp rất lớn . Nếu trợ cấp cho một ngành thì các ngành khác sẽ mất cơ hội được trợ cấp, hoặc suy giảm khả năng cạnh tranh do chi phí sản xuất bị làm tăng lên. Do ngân sách nhà nước và nguồn lực xã hội có giới hạn, một nước không thể bảo hộ cũng như trợ cấp cho tất cả các ngành nghề. Việc tập trung đầu tư vào một ngành hoặc một đối tượng hiển nhiên sẽ hạn chế khả năng được nhà nước hỗ trợ của các ngành, đối tượng khác. Trợ cấp cho sản xuất trong nước, chẳng hạn cho các ngành thuộc diện “thay thế nhập khẩu”, có thể khiến một số ngành khác trong nền kinh tế, như các ngành xuất khẩu, bị phân biệt đối xử, nguồn lực bị thu hút chuyển sang phục vụ ngành sản xuất tiêu thụ trong nước. Ngược lại, người tiêu dùng trong nước cũng sẽ phải chịu thiệt hại nếu trợ cấp xuất khẩu của chính phủ khiến các nhà đầu tư lao vào các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu thay vì phục vụ thị trường nội địa. Duy trì công ăn việc làm cho công nhân tại các doanh nghiệp thua lỗ là một giải pháp cầm chừng và gây tốn kém cho xã hội. Nếu những nhân công này có thể tìm được việc làm khác trong trường hợp doanh nghiệp bị đóng cửa thì việc họ tiếp tục ở lại và làm công việc cũ tại doanh nghiệp thua lỗ được trợ cấp sẽ chỉ tạo ra những sản phẩm giá thành cao hơn, khiến chi phí lao động trên tổng thể xã hội bị tăng lên. Đồng thời, nguồn vốn mới có thể được sử dụng hiệu quả hơn nhiều ở nơi khác sẽ lại bị đầu tư vào ngành công nghiệp đang sa sút. *) Trợ cấp thường dẫn đến hành động trả đũa. Trợ cấp có thể gây tổn hại đến quyền lợi của nước khác. Ví dụ: ngăn cản nhập khẩu sản phẩm tương tự từ các nước khác vào thị trường nước áp dụng trợ cấp, làm vô hiệu hóa hoặc làm giảm tác dụng các cam kết ràng buộc thuế quan của nước trợ cấp. Trợ cấp xuất khẩu gây thiệt hại cho ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa tương tự của nước nhập khẩu, hoặc có thể dành được lợi thế cạnh tranh giả tạo ở thị trường nước thứ ba và ngăn cản hàng xuất khẩu của các nước khác vào thị trường này. Các nước bị thiệt hại do hành động trợ cấp có thể khiếu nại lên cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO để đòi nước trợ cấp phải rút bỏ trợ cấp hoặc loại bỏ tác động tiêu cực của trợ cấp, hoặc có thể tiến hành điều tra để đánh thuế đối kháng hoặc khiến người xuất khẩu cam kết tăng giá hàng bán. Nếu nước áp dụng trợ cấp không thực hiện những biện pháp thích hợp để loại bỏ tác động tiêu cực hoặc rút bỏ trợ cấp trong thời hạn mà cơ quan giải quyết tranh chấp quy định, bên khiếu nại sẽ có cơ sở pháp lý để áp dụng hành động trả đũa dưới dạng tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc nghĩa vụ đã cam kết của mình trong khuôn khổ WTO Chẳng hạn như nâng thuế nhập khẩu lên trên mức ràng buộc hoặc áp dụng hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp. . Như vậy, lợi nhuận hoặc lợi ích thu được hoặc mong muốn thu được trong ngắn hạn nhờ trợ cấp có thể bị hành động đối kháng hoặc trả đũa làm triệt tiêu, hoặc còn có thể bị giảm hơn mức trước khi áp dụng trợ cấp do tốn kém chi phí tham gia giải quyết tranh chấp, đàm phán, thương lượng. Ngoài ra, trợ cấp được sử dụng như một công cụ thực thi chính sách “lợi mình hại người” Những chính sách thương mại chiến lược mà một nước đơn phương áp dụng nhằm bảo vệ lợi ích của mình, giành giật lợi nhuận siêu ngạch cho các công ty trong nước, làm tăng thu nhập nước mình bằng cách gây tổn hại đến các công ty của nước khác, làm giảm thu nhập nước khác, cải thiện những điều kiện kinh tế nước mình mà lại phương hại đến lợi ích của những nước khác trong quan hệ kinh tế và thương mại với nước mình. còn có thể bị nước khác trả đũa bằng cách cũng tiến hành trợ cấp, hoặc áp dụng các biện pháp bảo hộ sản xuất nội địa chống lại các sản phẩm nhập khẩu được trợ cấp. Chạy đua trợ cấp giữa các nước là một vòng xoáy ốc luẩn quẩn gây cản trở và hạn chế thương mại, rút cuộc dẫn đến các cuộc chiến tranh thương mại để lại hậu quả nghiêm trọng cho tất cả các nước tham gia và toàn bộ nền kinh tế thế giới nói chung. Xuất khẩu trì trệ, giá thành bị đội lên, và sản lượng giảm sút là kết quả dễ thấy nhất. Chính sách trợ cấp khi đó sẽ bị lên án vì không chỉ ngăn cản cạnh tranh lành mạnh mà còn làm tiêu hao, thất thoát một cách không cần thiết tài sản của các quốc gia liên quan. Thêm vào đó, quan hệ kinh tế - thương mại, thậm chí cả chính trị, ngoại giao giữa nước áp dụng trợ cấp và các nước khác có thể bị ảnh hưởng bất lợi khi mâu thuẫn về vấn đề trợ cấp ngày càng leo thang. *) Trợ cấp không hiệu quả về khía cạnh tài chính ngân sách. Trợ cấp trực tiếp là một khoản chi từ ngân sách eo hẹp của chính phủ, và thường khoản chi này được tài trợ bằng khoản tăng thuế hoặc tăng thâm hụt trong ngân sách. Ngoài ra, việc quản lý, điều hành và kiểm soát hoạt động, kết quả trợ cấp cũng gây tốn kém đáng kể cho ngân sách. Trong nhiều trường hợp trợ cấp là khoản chi kém hiệu quả của ngân sách khi lợi ích dự kiến thu được từ khoản trợ cấp lại thấp hơn chi phí mà chính phủ bỏ ra. Trợ cấp xuất khẩu còn đồng nghĩa với việc chuyển giao thu nhập từ người nộp thuế trong nước sang cho người tiêu dùng ở nước khác. Rốt cuộc, đối tượng hưởng lợi trợ cấp thực sự lại không phải là công ty hay người dân của nước tiến hành trợ cấp. Trợ cấp mang tính bảo hộ sản xuất trong nước có thể làm giảm sút nhập khẩu những hàng hóa vốn chịu thuế nhập khẩu cao, do đó, ngân sách của chính phủ bị thất thu một khoản đáng kể so với trước. Chính sách ưu đãi, trợ giúp ngành có thể khiến cho quá nhiều công ty mới tham gia ngành, dẫn đến kết cục là khoản chi hỗ trợ phát triển ngành đó của chính phủ dường như cứ tiếp tục bị phình ra không giới hạn nếu chính phủ vẫn muốn theo đuổi đến cùng mục tiêu xây dựng ngành công nghiệp nội địa hùng mạnh. *) Khả năng chọn sai đối tượng trợ cấp khá cao. Chính phủ nhiều khi không thể lựa chọn sáng suốt và quyết định ngành nào cần trợ cấp do thiếu thông tin, kiến thức cần thiết và/hoặc khả năng phân tích bị hạn chế. Ngay cả việc nhận diện liệu trợ cấp vào ngành nào sẽ thu về lợi nhuận siêu ngạch cũng là một nhiệm vụ khó khăn vì không dễ dàng gì để có thể phân biệt lợi nhuận siêu ngạch với thu nhập thông thường để bù đắp cho những khoản đầu tư đầy rủi ro trong quá khứ. Trong môi trường cạnh tranh không hoàn hảo, mỗi nước đều can thiệp vào cơ chế vận động của thị trường bằng cách này hay cách khác nhằm làm lợi cho mình trong khi (cố ý hoặc không) làm thiệt hại cho nước khác hoặc công ty của nước khác. Tuy nhiên, nếu tất cả các nước đồng thời theo đuổi một chính sách can thiệp với cùng mục đích giống nhau như vậy thì kết quả là tất cả cùng bị thiệt hại. Chính sách của một nước không chỉ phụ thuộc vào bản thân điều kiện của nước đó mà còn phụ thuộc vào việc các nước khác quyết định lựa chọn chính sách nào cũng như còn phụ thuộc cả vào việc những chính sách mà các nước khác theo đuổi lại phụ thuộc vào chính sách của nước ban đầu chọn lựa như thế nào. Ví dụ, để quyết định trợ cấp hay không trợ cấp cho ngành công nghiệp nội địa của mình, một nước phải cân nhắc và phán đoán được liệu chính phủ nước khác có định trợ cấp cho ngành công nghiệp nước họ hay không. Do rất khó dự đoán được phản ứng và đối sách của đối phương nên việc hoạch định một chính sách trợ cấp tối ưu là rất phức tạp và nhiều khi là không thể. Nếu chọn sai đối tượng trợ cấp, hậu quả là tốn kém thời gian, của cải và nhân lực của xã hội. Sự lan truyền của hiệu ứng tích cực như mong muốn không xảy ra hoặc không cân xứng với chi phí bỏ ra do việc chọn sai ngành cần khuyến khích. Sự phát triển của nhiều ngành khác trong nền kinh tế đáng lẽ ra nên được đầu tư hỗ trợ có thể bị kìm hãm hoặc bị làm chậm lại nhiều năm. Toàn bộ nền kinh tế sẽ phải trả giá khá đắt cho hành động trợ cấp không đúng chỗ. *) Trợ cấp thường thúc đẩy các hoạt động vận động hành lang phát triển . Trợ cấp cũng dẫn đến hậu quả là thúc đẩy các hoạt động vận động hành lang gia tăng mạnh nhằm nhận được sự hỗ trợ, ưu đãi từ phía nhà nước. Quyết định trợ cấp do đó cũng có thể bị bóp méo, bị lạm dụng, bị chi phối bởi các yếu tố chính trị hơn là tiêu chí hiệu quả kinh tế. Chẳng hạn, đối tượng được nhận trợ cấp thường sẽ là những ngành, công ty có thế và lực mạnh hơn, có khả năng vận động hành lang cao hơn chứ ít khi là các ngành hoặc công ty nhỏ. 1.2. Thuế đối kháng: Thuế đối kháng là một khoản thuế đặc biệt đánh vào sản phẩm nhập khẩu để bù lại việc các nhà sản xuất và xuất khẩu sản phẩm đó được chính phủ nước xuất khẩu trợ cấp. *) Đối phó với hành vi thương mại không lành mạnh của nước khác. Khi một nước trợ cấp cho ngành công nghiệp nội địa hoặc ngành sản xuất xuất khẩu, lợi thế cạnh tranh tự nhiên của các đối tượng tham gia thị trường sẽ bị bóp méo. Hàng xuất khẩu của các nước không trợ cấp khó xâm nhập vào thị trường nước trợ cấp cho dù có lợi thế cạnh tranh cao hơn trong thị trường cạnh tranh tự do. Hàng nhập khẩu được trợ cấp tràn vào gây thiệt hại cho sản xuất nội địa của các nước nhập khẩu. Để đối phó với hành vi cạnh tranh không lành mạnh đó, các nước bị ảnh hưởng có thể sử dụng thuế đối kháng đánh vào hàng nhập khẩu được trợ cấp nhằm triệt tiêu tác động tiêu cực của trợ cấp hoặc nhằm khắc phục, bù đắp những tổn thất bị mất do hành động trợ cấp của nước khác gây ra. Trong khuôn khổ WTO, thuế đối kháng là biện pháp đối kháng mang tính đơn phương chỉ được phép áp dụng sau khi đã khởi xướng và tiến hành điều tra theo đúng các quy định tại Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO. Kết quả điều tra nếu chứng minh được rằng hàng nhập khẩu thực sự đã được trợ cấp, ngành công nghiệp trong nước bị thiệt hại vật chất, và xác định có mối liên hệ nhân quả giữa trợ cấp và thiệt hại sẽ là cơ sở áp dụng thuế đối kháng. Theo quy định của WTO, thuế đối kháng chỉ được áp dụng tối đa 5 năm, trừ khi cơ quan chức trách thấy rằng thiệt hại do trợ cấp gây ra vẫn tiếp tục hoặc có tiềm năng tái diễn. WTO cũng quy định rằng trong quá trình điều tra để đánh thuế đối kháng, nếu kết quả bước đầu cho thấy có sự tồn tại của trợ cấp và tổn thất, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu và chính phủ nước xuất khẩu có thể thương lượng để nhất trí một giải pháp chung nhằm chấm dứt điều tra và không áp dụng thuế đối kháng. Giải pháp này có thể dưới dạng cam kết của chính phủ nước xuất khẩu đồng ý loại bỏ hoặc hạn chế trợ cấp, hoặc người xuất khẩu đồng ý tăng giá hàng bán của mình vào nước nhập khẩu (và chính phủ nước xuất khẩu cũng chấp nhận giải pháp này). Trong trường hợp ngoại lệ đặc biệt, điều VI.6 GATT 1994 còn cho phép nước nhập khẩu được phép đánh thuế đối kháng lên hàng nhập khẩu được trợ cấp của một nước xuất khẩu khi trợ cấp của nước xuất khẩu này gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại cho ngành sản xuất của nước khác cùng cạnh tranh xuất khẩu sang thị trường nước nhập khẩu. *) Thuế đối kháng đem lại nguồn thu cho ngân sách . Thay vì áp dụng các biện pháp có thể gây tốn kém nguồn lực xã hội để hạn chế nhập khẩu hàng hóa được trợ cấp Ví dụ như các biện pháp cấm, trị giá tính thuế tối thiểu, v.v... đòi hỏi phải duy trì bộ máy cán bộ quản lý, kiểm soát thực thi cơ chế hạn chế nhập khẩu. , nước bị ảnh hưởng có thể sử dụng thuế đối kháng. Thuế đối kháng là một khoản thuế có giá trị tương đương với giá trị trợ cấp. *) Tác dụng phụ của thuế đối kháng. Nhiều khi tác động về mặt tài chính của bản thân thuế đối kháng đối với nhà xuất khẩu của nước tiến hành trợ cấp là không đáng kể, nhưng sự không chắc chắn, bất ổn định, chi phí về pháp luật và các chậm trễ liên quan đến quá trình thủ tục điều tra về trợ cấp lại có tác động tiêu cực rất lớn gây cản trở đáng kể đến hoạt động xuất nhập khẩu và có thể được sử dụng một cách tinh vi làm một rào cản thương mại được ngụy trang khéo léo. *) Phải xác định nhanh khi quyết định đánh thuế đối kháng. Một số trường hợp đòi hỏi phải xác định nhanh sự tồn tại của trợ cấp, mức độ, tác hại để đánh thuế đối kháng nhằm hạn chế hoặc vô hiệu hóa kịp thời ảnh hưởng tiêu cực của trợ cấp, bảo vệ nền sản xuất trong nước. *)Thuế đối kháng không phải tối ưu trong mọi trường hợp. Một số hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp thực chất đem lại lợi ích cho người tiêu dùng ở nước nhập khẩu nên không phải lúc nào cũng cần sử dụng thuế đối kháng. Nhiều khi, đòi hỏi nước khác rút bỏ trợ cấp gây bóp méo thương mại quan trọng hơn và cần thiết hơn việc khắc phục tác động tiêu cực của trợ cấp. Thuế đối kháng chỉ có tác dụng triệt tiêu tác hại của trợ cấp liên quan tới sản phẩm cụ thể và không được vượt mức giá trị trợ cấp đối với sản phẩm nhập khẩu được trợ cấp, nhưng thường không đủ khả năng buộc nước khác không được tiếp tục áp dụng trợ cấp, đặc biệt nếu chương trình trợ cấp liên quan đến diện đối tượng rộng, nhiều ngành, nhiều mặt hàng. Ngoài ra, thường việc đánh thuế đối kháng tỏ ra không hiệu quả trong trường hợp trợ cấp được nước khác áp dụng nhằm chiếm lĩnh thị trường ở nước thứ ba. Đối với thiệt hại do suy giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường nước thứ ba dẫn đến mất thị phần thì thuế đối kháng không được áp dụng và do đó, tác hại của trợ cấp chỉ có thể được giải quyết thông qua sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương của WTO. Đối phó bằng thuế đối kháng có thể tự mình hại mình khi nước nhập khẩu quá nhỏ hoặc quá yếu trong tương quan kinh tế - thương mại với nước trợ cấp, hoặc nước trợ cấp là nguồn cung các sản phẩm thiết yếu cho nước nhập khẩu. 2. Tác động của các biện pháp phi thuế đến các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam: Tác động tích cực: Đối với các nước đang phát triển, việc sử dụng các biện pháp phi thuế quan để bảo hộ đóng một vai trò rất quan trọng. Việc vận dụng tốt các biện pháp phi thuế quan nhằm tạo điều kiện nâng đỡ các nhà sản xuất còn non kém trong nước và giúp nhà nước điều tiết được, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu theo hướng có lợi cho nền kinh tế - xã hội. Có thể kể ra một số mặt tích cực khi áp dụng các NTM như sau: Tạo điều kiện cho nhiều ngành sản xuất tuy có sức cạnh tranh kém hơn so với nước ngoài tiếp tục duy trì và phát triển. Hạn chế nhập khẩu để bảo hộ sản xuất trong nước còn nhằm mục đích cải thiện cán cân thanh toán quốc tế hay cán cân thương mại. Thúc đẩy nền công nghiệp non trẻ của các nước đang phát triển có thể phát triển một cách độc lập và đa dạng hóa sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp truyền thống tăng tốc quá độ lên kinh tế công nghiệp hiện đại. Một số ngành có thể nâng dần khả năng cạnh tranh nhờ nâng cao trình độ quản lý, đổi mới công nghệ. Tạo điều kiện cho sản phẩm sản xuất trong nước tuy có chất lượng kém hơn, giá cao hơn hàng nhập khẩu có thể cùng tồn tại với hàng nhập khẩu để giúp các nhà sản xuất của những ngành này có thời gian điều chỉnh, dần dần nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường và góp phần đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội. Hỗ trợ xây dựng một số ngành công nghiệp quan trọng cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Góp phần ổn định xã hội, tạo công ăn việc làm, tăng cơ hội sử dụng tài nguyên nếu không những tài nguyên này (như vốn, sức lao động) sẽ bị nhàn rỗi thông qua các biện pháp hỗ trợ cho một số ngành, một số địa bàn. Tác động tiêu cực: Tác động tiêu cực đối với bảo hộ sản xuất trong nước từ các NTM: Bên cạnh những mặt tích cực đối với bảo hộ mà các biện pháp phi thuế quan mang lại, còn có không ít những tác động tiêu cực đối với các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển thường áp dụng các biện pháp thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, trợ cấp, kiểm soát ngoại tệ, tăng hối suất để hạn chế nhập khẩu, tăng cường sức cạnh tranh của các ngành sản xuất trong nước để có thể thay thế nhập khẩu... Tuy nhiên, sự bảo hộ mạnh mẽ của nhà nước tuy có giúp ích cho ngành công nghiệp sản xuất trong nước tránh được hoặc giảm nhẹ được sức ép của đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài, nhưng những ngành được bảo hộ rơi vào tình trạng năng suất kém kéo dài, không chống đỡ được đối thủ cạnh tranh, một khi không được bảo hộ nữa thì có nguy cơ bị sụp đổ. Nhiều ngành công nghiệp hạ nguồn bị hạn chế khả năng tiếp cận với đầu vào nhập khẩu giá rẻ, buộc phải chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế trong nước đắt hơn (mà chất lượng có thể không bằng), làm chi phí sản xuất tăng lên dẫn tới lợi thế cạnh tranh của sản xuất trong nước bị sút giảm Nhiều nước khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu trong khi định hướng chiến lược phát triển kinh tế là sản xuất hướng về xuất khẩu. Do tác động cạnh tranh từ hạn chế nhập khẩu của các NTM đã thu hút nhiều chủ đầu tư rút nguồn lực khỏi lĩnh vực sản xuất phục vụ xuất khẩu để đầu tư vào lĩnh vực thay thế nhập khẩu, gây tổn thất đáng kể cho các ngành xuất khẩu. Thêm vào đó, việc sản xuất thay thế nhập khẩu tuy giảm được nhập khẩu hàng tiêu dùng, nhưng phải nhập máy móc, thiết bị, nguyên liệu và sản phẩm trung gian, hệ số nhập khẩu tạm thời giảm xuống nhưng rồi lại tăng lên lâu dài, việc chi trả hàng loạt ngoại tệ khiến dự trữ ngoại tệ giảm đi, cán cân thanh toán quốc tế xấu đi. Bảo hộ mậu dịch thiên về công nghiệp thay thế nhập khẩu (nhất là ngành chế tạo), không có lợi cho việc xây dựng và phát triển công nghiệp hạ tầng các công trình hạ tầng xã hội cần thiết để tăng trưởng kinh tế. Các nước đang phát triển có nền kỹ thuật còn rất lạc hậu, nếu đi theo con đường nhập khẩu kỹ thuật sau đó đóng cửa để nội hóa sản phẩm thì có khả năng hệ thống công nghiệp thay thế nhập khẩu vừa mọc lên đã lạc hậu. Vì kỹ thuật công nghệ hiện đại rất phức tạp, muốn nội hóa toàn bộ kỹ thuật nhập khẩu để phát triển sản phẩm trong nước thì phải trải qua một thời gian khá dài, trong thời gian ấy, khoa học kỹ thuật trên thế giới thì đổi mới từng ngày vì thế các ngành công nghiệp sản xuất trong nước thay thế nhập khẩu dễ bị tụt hậu. Hơn nữa biện pháp này cũng không phù hợp với nền kinh tế đi theo xu hướng tự do hóa. Bảo hộ thông qua các NTM là một trong những nguyên nhân làm phát sinh thói dựa dẫm, ỷ lại vào sự hỗ trợ, ưu đãi của nhà nước và ngăn cản những nỗ lực chủ động cải tiến, hợp lý hóa sản xuất, tự nâng cao khả năng cạnh tranh của nhiều ngành nội địa. Vì thế không tạo ra động lực khuyến khích cạnh tranh trong các ngành được bảo hộ cao. Để quản lý các NTM đòi hỏi phải đầu tư nhân lực, chi phí khá lớn cho việc duy trì bộ máy quản lý phức tạp, nhiều khi chồng chéo giữa các cơ quan cùng được giao chức năng quản lý nhập khẩu. Tuy nhiên, lợi ích mà bộ máy thực thi chính sách bảo hộ này mang lại phần nhiều không được như dự kiến. Nhiều ngành công nghiệp mục tiêu vẫn phát triển trì trệ, kém hiệu quả, thiếu sức cạnh tranh. Tác động tiêu cực từ các biện pháp phi thuế quan khi tham gia thương mại quốc tế: Xuất khẩu nông nghiệp là vấn đề sống còn của nhiều nước nghèo song bảo hộ nông nghiệp lại là ưu tiên của các nước phát triển. Vì thế các nước đang phát triển thường gặp những rào cản thương mại rất lớn khi tiếp cận thị trường của các nước phát triển. Hiệp định Nông nghiệp (AoA) của WTO là một trong những hiệp định rất bất lợi, có tác động tiêu cực đối với các nước đang phát triển có nguồn thu lớn từ việc xuất khẩu nông sản. AoA không chỉ quy định các chính sách thuế và phi thuế mà cả hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu đối với sản xuất nông sản. Các nước phát triển như Mỹ, EU có mức trợ cấp rất cao đối với sản phẩm nông nghiệp của họ, trong khi đó các nước đang phát triểnvới thực lực tài chính yếu, không đủ tiền để trợ cấp cho nông dân hoặc nếu có thì cũng chưa đạt đến tỷ lệ phần trăm của giá trị sản xuất mà AoA cho phép và không thể so sánh với những khoản tiền mà người nông dân của nước phát triển được trợ cấp. Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cũng là một trở ngại không nhỏ đối với các nước đang phát triển. Các nước này luôn gặp khó khăn lớn trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về vệ sinh và kiểm dịch động thực vật do thiếu cơ sở kỹ thuật, chuyên môn, và không đủ khả năng đầu tư. Nhiều nước phát triển đã dựa vào điểm yếu là hàng nông sản của các nước đang phát triển không đủ điều kiện về an toàn lương thực để hạn chế nhập hàng nông sản từ các nước này. Các rào cản thương mại mà các nước đang phát triển gặp phải ngày càng lớn, cụ thể một số rào cản hay gặp nhất là chống bán phá giá, trợ giá xuất khẩu hàng nông sản, hàng rào kỹ thuật, các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật, trợ cấp và thuế đối kháng,... Có thể đơn cử vụ Hiệp hội cá nheo Hoa Kỳ kiện Hiệp hội cá tra, cá basa của Việt Nam về việc bán phá giá cá tra, cá basa ở thị trường Mỹ. Đây là một vụ kiện phi lý, Việt Nam có lợi thế nuôi được cá có chất lượng cao cộng với chi phí sản xuất thấp nên cá của Việt Nam vừa ngon vừa rẻ, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường Mỹ, thực tế Việt Nam không hề bán phá giá. Mỹ đã sử dụng luật chống phá giá, khai thác độ vênh của pháp luật sử dụng quy phạm nền kinh tế phi thị trường áp đặt cho trường hợp Việt Nam, rồi áp dụng tính giá theo một nước thứ ba có nền kinh tế thị trường, hoặc giá thị trường. Mỹ đã tăng thuế nhập khẩu đối với cá tra và basa của Việt Nam từ 0% lên 38 - 60%, áp dụng hạn ngạch đối với cá tra và basa của Việt Nam. Làm cho giá cá tra và basa của Việt nam bán ở thị trường Mỹ tăng lên 20%. Các nước luôn kêu gọi các nước khác tự do hóa thương mại nhưng lại tìm ra những hàng rào phi thuế quan để bảo hộ thương mại trong nước. Tuy nhiên, điều này cũng là tất yếu để bảo vệ những ngành sản xuất khó cạnh tranh của nước mình, với điều kiện những rào cản mà họ áp dụng không được vi phạm luật pháp và quy định quốc tế. Và chúng ta phải chuẩn bị tinh thần để sống chung với điều đó, phải vượt qua những rào cản đó để tránh và giảm thiểu những rủi ro khi bước đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Chương II Thực trạng áp dụng các biện pháp phi thuế quan ở việt nam từ 1996 - 2000 Các biện pháp phi thuế quan được áp dụng tạI Việt Nam. 1. Các biện pháp quản lý định lượng. Trong giai đoạn 1996 -2000, Việt Nam đã và đang áp dụng các biện pháp quản lý định lượng sau: 1.1 Cấm nhập khẩu: Ngoài các mặt hàng cấm nhập khẩu vì mục đích an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội như ma túy, hóa chất độc, vũ khí, đạn dược, v.v..., Việt Nam còn cấm nhập khẩu một số mặt hàng nhằm bảo hộ sản xuất trong nước như thuốc lá điếu, ô tô từ 12 chỗ ngồi trở xuống, xe 2 bánh gắn máy nguyên chiếc và linh kiện lắp ráp dạng CKD, hàng tiêu dùng đã qua sử dụng. 1.2 Hạn ngạch nhập khẩu: Từ năm 1996 đến 1999, hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng ngày càng chặt chẽ đối với các mặt hàng: ô tô chở khách từ 12 chỗ ngồi trở xuống, xe tải và xe khách loại khác, xe 2 bánh gắn máy nguyên chiếc, cụ thể là: Mặt hàng Mức độ hạn chế số lượng áp dụng năm 1997 Mức độ hạn chế số lượng áp dụng từ năm 1999 đến nay Ô tô chở khách dưới 12 chỗ ngồi Hạn mức 3.000 chiếc Cấm nhập khẩu (áp dụng với ôtô dưới 16 chỗ ngồi từ năm 2000 ) Xe tải, xe khách loại khác Hạn mức 30.000 chiếc Giấy phép nhập khẩu Xe 2 bánh gắn máy nguyên chiếc Hạn mức 350.000 chiếc Cấm nhập khẩu và linh kiện lắp ráp xe 2 bánh gắn máy. Các doanh nghiệp trong nước có đầu tư sản xuất, lắp ráp xe 2 bánh gắn máy dạng IKD được nhập khẩu linh kiện IKD theo năng lực sản xuất phù hợp với giấy phép đăng ký kinh doanh đã cấp (ngoài phương thức đổi hàng với Lào) Một số mặt hàng khác nếu xét về hình thức thì có thể coi như được nới lỏng quản lý định lượng như: Mặt hàng Mức độ hạn chế số lượng áp dụng năm 1997 Mức độ hạn chế số lượng áp dụng năm 2000 Thép xây dựng Hạn mức 500.000 tấn Giấy phép nhập khẩu Phôi thép Hạn mức 900.000 tấn Giấy phép nhập khẩu Xi măng Hạn mức 500.000 - 700.000 tấn Chỉ áp dụng giấy phép nhập khẩu đối với xi măng đen Clinker Hạn mức 1.100.000 tấn Giấy phép nhập khẩu Giấy in báo, giấy viết, giấy in thường, giấy vệ sinh Cấm nhập khẩu Giấy phép nhập khẩu Giấy in chất lượng cao, giấy carton duplex Hạn mức 20.000 tấn Giấy phép nhập khẩu Đường Hạn mức 10.000 tấn đường RE, cấm nhập các loại đường khác Giấy phép nhập khẩu Tuy nhiên, như sẽ giới thiệu ở mục (1.3) dưới đây, các mặt hàng áp dụng biện pháp giấy phép nhập khẩu trên thực tế hầu như không được cấp phép nhập khẩu. Vì vậy, các biện pháp quản lý định lượng thực ra đã được áp dụng chặt chẽ hơn từ 1997 đến 2000. Các mặt hàng: xăng dầu, phân bón được phân bổ hạn ngạch hầu như không thay đổi. Riêng phân NPK không được cấp phép nhập khẩu trong năm 1999 vì sản xuất trong nước đáp ứng gần đủ nhu cầu. 1.3. Giấy phép nhập khẩu không tự động: Từ năm 1997 đến 2000, giấy phép nhập khẩu không tự động được áp dụng ngày càng giảm, có một số mặt hàng nhập khẩu quản lý bằng giấy phép không tự động nhưng thực tế là không cấp phép nhập khẩu. Tình hình cụ thể của năm 2000 như sau: TT Mặt hàng áp dụng giấy phép nhập khẩu Ghi chú 1 Xe 2 bánh, 3 bánh gắn máy nguyên chiếc và linh kiệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKLTN- HangPhuong - A1.CN9.doc
  • docTrang bia & Muc luc.doc
Tài liệu liên quan