Khóa luận Vai trò của người phụ nữ trong gia đình đô thị hiện nay (Qua khảo sát tại quận hai bà trưng, thành phố Hà Nội)

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 4

PHẦN 1 4

1. Lý do chọn đề tài 4

2. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn 6

2.1- Ý nghĩa lý luận 6

2.2- Ý nghĩa thực tiễn 7

3. Mục tiêu nghiên cứu 8

4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 9

4.1- Đối tượng nghiên cứu 9

4.2- Khách thể nghiên cứu 9

4.3- Phạm vi nghiên cứu 9

5. Giả thuyết nghiên cứu 9

6. Phương pháp nghiên cứu 10

6.1- Phương pháp luận 10

6.2- Phương pháp nghiên cứu cụ thể 11

7- Các khái niệm 13

7.1- Về vai trò 13

7.2- Về gia đình 14

7.3 Đô thị 16

8- Khung lý thuyết 17

PHẦN II - NỘI DUNG 18

I- Vài nét về địa bàn nghiên cứu 18

II- Nội dung và kết quả nghiên cứu 19

1- Người phụ nữ vẫn giữ vai trò chính trong việc nội trợ, chăm sóc con cái 21

2- Người phụ nữ đã có thể tham gia bàn bạc, quyết định các việc chi tiêu trong gia đình cùng người chồng. 31

3- Người phụ nữ ngày càng có xu hướng tích cực tham gia các hoạt động bên ngoài xã hội để nâng cao vai trò của mình 37

III- Kết luận và khuyến nghị 46

1- Kết luận 46

2- Khuyến nghị 48

TÀI LIỆU THAM KHẢO 50

 

 

 

doc48 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6510 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Vai trò của người phụ nữ trong gia đình đô thị hiện nay (Qua khảo sát tại quận hai bà trưng, thành phố Hà Nội), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh. Số dân thành thị chiếm gần 60% dân số toàn thành phó. Lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật lớn mạnh nhất nước, nơi đây tập trung các cơ quan khoa học đầu ngành với trên 200 viện khoa học, gần 600 trung tâm nghiên cứu và thực nghiệm quốc gia, có 26 trường đại học và 5 trường cao đẳng với trên 8000 cán bộ giảng dạy nghiên cứu, mỗi năm đào tạo cho đất nước khoảng gần một vạn cán bộ có trình độ đại học. *Kinh tế : Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường Hà Nội có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và đều đặn trong thời kỳ từ năm 1991 đến nay. Trong những năm gần đây, Hà Nội được ưu tiên và tập trung đầu tư trên tất cả mọi lĩnh vực cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Với chính sách đô thị hoá, mở rộng Hà Nội gắn với sự phát triển công nghiệp mở mang các ngành dịch vụ, xây dựng các cơ sở hạ tầng. Sự tăng trưởng kinh tế Hà Nội trong những năm gần đây đạt ở mức độ cao so với cả nước. Thời kỳ 1991 - 1996 GDP tăng bình quân 11,7%, GDP bình quân đầu người là 680 USD/năm. Giá trị sản lượng công nghiệp tăng 14,2% năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp tăng lên 32%, nông nghiệp còn 5,1% và dịch vụ thương mại du lịch tăng 6,9%. Quận Hai Bà Trưng là một trong những quận tập trung nhiều người di cư từ nông thôn ra thành phố. Diện tích của Quận là 12,8km2, dân số 306,2 nghìn người, mật độ 23921 người/km2.Hiện nay quận có nhiều công trình mới xây dựng đã và đang hình thành trên trục đường Giải phóng (quốc lộ 1). Một “làng” đại học phía Nam thành phố đã hình thành bên cạnh Bộ Giáo dục và đào tạo như các trường Đại học Bách Khoa, Đại học Xây dựng, Đại học Kinh tế quốc dân… II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU . Lịch sử dân tộc Việt Nam ghi nhận từ thời xa xưa, vai trò của giới phụ nữ Việt Nam trong trách nhiệm công dân và trách nhiệm người mẹ như một hình tượng ghi đậm dấu ấn được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, một hình tượng thiêng liêng, hình tượng được tôn thờ. Trong chiến tranh rất nhiều phụ nữ đã tham gia chiến đấu, hy sinh tuổi trẻ và sức lực vì sự độc lập của dân tộc. Khó có thể kể hết những vất vả, gian khổ mà họ phải chịu trong bom lửa đạn, thậm chí những vết thương còn hằn trên người họ khi trái gió trở trời. Sự hy sinh của người phụ nữ là vô cùng to lớn. Chẳng thế mà đã có rất nhiều bà mẹ Việt Nam được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” vì những đóng góp cho Tổ quốc. Ngày nay phụ nữ chiếm 58%(4) Tạp chí Tư tưởng văn hoá tháng 4/2002. dân số và trên 50%(4) lao động của đất nước. Trên diễn đàn chính trị như Quốc hội số đại biểu nữ chiếm 26,22%. Trong nhiều ngành như nông nghiệp, giáo dục, y tế, công nghiệp nhẹ, tài chính… phụ nữ cũng luôn chiếm ưu thế từ 50%(4) đến 75%(4). Đội ngũ trí thức và lao động kỹ thuật nữ ngày càng tăng lên, họ đang có mặt ở nhiều vị trí chính trị, kinh tế trọng yếu của đất nước. Đây là một bước tiến đáng kể về bình đẳng giới, về tạo quyền năng cho phụ nữ trong xã hội. Phụ nữ đã thực sự đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong gia đình vai trò của người phụ nữ lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Phần lớn nhận thức xã hội đều ý thức được vị trí quan trọng của người phụ nữ trong gia đình với thiên chức của người vợ, người mẹ, người quản lý nuôi dưỡng xã hội nhỏ bé nhưng quan trọng bậc nhất là gia đình, điều hoà sự hoà nhập của gia đình mình với cộng đồng xã hội. Cho dù hiện nay người phụ nữ có thể đảm đương nhiều trọng trách ngoài xã hội, có thể điều hành nàh máy, công ty lớn hay lãnh đạo những tổ chức xã hội chính trị, có trình độ học vấn cao như tiến sĩ, thạc sĩ, đảm đưởng cả trách nhiệm làm kinh tế cho gia đình thì họ vẫn cần biết tề gia nội trợ, biết nuôi dạy con cái chăm ngoan, biết lo cho chồng, lo cho sức khoẻ của mình, chăm chút nhan sắc để làm đẹp cho chồng con, cho xã hội. Có thể thấy vai trò của người phụ nữ trong mỗi gia đình là vô cùng quan trọng và cần thiết. Họ đang ngày càng khẳng định vị trí của mình trong xã hội và vai trò làm vợ, làm mẹ của mình trong gia đình. Qua khảo sát các hộ gia đình ngẫu nhiên ở tại quận Hai Bà Trưng, Hà Nội về “Vai trò của người phụ nữ trong gia đình đô thị hiện nay” chúng tôi thu được những kết quả như sau : 1. Người phụ nữ vẫn giữ vai trò chính trong việc nội trợ, chăm sóc con cái. Công việc gia đình được đề cập ở đây là một số công việc căn bản của mỗi gia đình nhằm hướng vào nuôi dưỡng và chăm sóc các thành viên trong gia đình. Công việc này thường được thực hiện chủ yếu trong phạm vi gia đình và thường do người phụ nữ hoặc những người không giữ vai trò quan trọng đóng góp kinh tế cho gia đình thực hiện. Từ xưa đến nay người ta vẫn thường gọi các việc nội trợ gia đình là những việc vặt. Mặc dù được đánh giá thấp nhưng qua khảo sát đời sống của các hộ gia đình ta thấy vai trò của công việc gia đình là vô cùng quan trọng và đó là một khối lượng lớn các công việc, tiêu tốn nhiều thời gian và sức lực của người thực hiện. Bảng 1 - Người giữ vai trò nội trợ chính trong gia đình. Người nội trợ chính Số người Tỷ lệ % Vợ 70 70,0 Chồng 2 2,0 Cả hai 15 15,0 Người khác 13 13,0 Tổng 100 100 Nhìn vào bảng số liệu này ta thấy rằng trong gia đình người làm nội trợ chính là người vợ với tỉ lệ 70,0%, trong khi đó người chồng chỉ có 2,0%, cả vợ và chồng là 15,0%, còn người khác là 13,0%. Điều này cho thấy cho dù là gia đình truyền thống hay gia đình hiện đại thì người phụ nữ vẫn luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc nội trợ và dường như việc nấu ăn, giặt giũ là chỉ dành cho người vợ mà thôi. Con số 70,0% cho ta thấy người phụ nữ luôn có bổn phận phải chăm lo cho gia đình, hầu hạ chồng con từ cái ăn, cái mặc. Việc nội trợ của người phụ nữ tưởng chừng như đơn giản nhưng thực ra là mất rất nhiều công sức. Nào là mua bán thực phẩm, nấu ăn, giặt giũ, dọn dẹp nhà cửa… đã chiếm một lượng thời gian đáng kể. Muốn cho chồng, con được ngon miệng thì người vợ phải biết được chồng hay con mình thích ăn món ăn nào nhất và quan trọng hơn cả là người vợ phải biết nấu ăn ngon thì mới làm cho bữa cơm hấp dẫn. Hay như muốn cho chồng, cho con luôn luôn được mạnh khoẻ thì nhà cửa lúc nào cũng phải ngăn nắp, gọn gàng, sạch sẽ. Các công việc này tưởng là không có gì quan trọng nhưng thực ra lại rất cần thiết cho mỗi người phụ nữ trong mỗi gia đình. Chính vì vậy mà hầu như gia đình nào người nội trợ chính luôn là người vợ. 2% là con số người chồng giữ vai trò nội trợ chính trong gia đình. Có thể thấy răng tỉ lệ này là quá khiêm tốn. Sở dĩ người chồng không quan tâm tới việc nội trợ đó là vì họ nghĩ rằng công việc này là của người vợ, còn vai trò chính của họ là gánh vác kinh tế. Từ xưa người đàn ông luôn được coi là trụ cột trong gia đình nên họ chỉ lo kiếm tiền nuôi vợ con và việc nội trợ thì đã có bàn tay người phụ nữ. Vì lẽ đó mà trong 100 người phụ nữ thì đã có tới 83 người trả lời rằng người chồng là trụ cột kinh tế trong gia đình. Qua đây ta có thể thấy quan niệm người chông lo kinh tế, người vợ lo chăm sóc gia đình và nội trợ là quan niệm có trong xã hội truyền thống nhưng vẫn còn hiển hiện trong cuộc sống ngày nay. Số người trả lời cả hai vợ chồng đều giữ vai trò nội trợ trong gia đình là 15%. Con số này không phải là lớn nhưng thực sự là một điều đáng quan tâm trong mỗi gia đình hiện nay. Sự nghiệp đất nước đang từng ngày tác động tới mỗi gia đình, người đàn ông trong mỗi gia đình cũng đã chia sẻ, gánh vác việc nội trợ cho người vợ để người vợ ngoài việc nội trợ có thêm thời gian hoạt động xã hội. Có thể thấy rằng đa số các cặp vợ chồng trẻ hiện nay luôn giúp đỡ lẫn nhau trong việc nội trợ. Qua phỏng vấn sâu, chị Quỳnh (25 tuổi, nhân viên văn phòng) cho biết : “Hai vợ chồng đều đi làm cơ quan nên khi nào chi về muộn thì đã có anh ấy làm giúp một số việc như đi chợ, dọn dẹp nhà cửa. Tuy là việc nhỏ nhưng chị cảm thấy rất vui, thoải mái khi anh ấy cũng biết gánh vác cùng vợ việc nhà. Chị cho rằng đây chính là sự bình đẳng trong gia đình”. Còn lại là 13% người khác giư vai trò giúp việc nội trợ trong gia đình. Người khác ở đây ta có thể hiểu là ông hay bà, hoặc là con cái, hoặc là người giúp việc. Nếu là trong gia đình ba thế hệ (gồm có ông bà, cha mẹ, con cái) thì chuyện người bà hay con cái làm nội trợ khi bố mẹ đi làm là phổ biến bởi người già ít khi chịu ngồi yên. Còn con cái ngoài giờ học cũng có thể giúp bà nấu nướng, quét dọn. Nều là gia đình khá giả thì thuê người làm để họ đỡ đần việc nhà khi mà cả hai vợ chồng đều không có thời gian cho chợ búa cơm nước. Hiện nay việc thuê người giúp việc là rất phổ biến trong các gia đình. Người giúp việc chủ yếu từ nông thôn nên quan hệ giữa chủ và người làm cũng có nhiều bất cập. Chính vì vậy mà công việc nội trợ dù thế nào đi chăng nữa vẫn rất cần bàn tay của người phụ nữ. Việc nội trợ trong mỗi gia đình là khác nhau nhưng nhìn chung công việc tưởng như đơn giản này lại chiếm khá nhiều thời gian, đặc biệt là đối với các gia đình khó khăn về kinh tế. Bảng số liệu dưới đây cho thấy. Biểu 2 - Thời gian làm nội trợ trong ngày của người phụ nữ. 35% 4% 6% 4-6h 0-2 h 25 75 50 100người ~100% Số người ~% Thời gian 2-4h Như vậy thời gian làm nội trợ từ 0 - 2 tiếng tỉ lệ là 53%, trên 2 - 4 tiếng là 41%, còn trên 4 - 6 tiếng là 6%. 53% phụ nữ cho rằng từ 0 - 2 tiếng vừa đủ để làm nội trợ, đủ để có một bữa cơm ngon. Nhưng qua điều tra nghiên cứu cho thấy trường hợp này chỉ xảy ra đối với các gia đình có điều kiện kinh tế. Họ có thể mua sắmđầy đủ các dụng cụ gia đình như máy giặt, nồi cơm điện, máy hút bụi,… Chính vì vậy những người phụ nữ trong những gia đình này cảm thấy đỡ vất vả trong công việc nội trợ. Còn với những gia đình khó khăn hơn thì công việc nội trợ chiếm thời gian khá nhiều, trên 4 - 6 tiếng, và có 6% người vợ phải làm việc vất vả từ chợ búa, cơm nước, giặt giũ, dọn dẹp nhà cửa… Đây là một tỉ lệ nhỏ nhưng không vì thế mà không đáng quan tâm bởi lẽ phải làm việc nhiều thì người phụ nữ càng ít có cơ hội tham gia lao động sản xuất, vui chơi giải trí… Và như thế họ chỉ suốt ngày quanh quẩn với bếp núc, dọn dẹp mà thiếu đi sự hoà nhập với cuộc sống bên ngoài xã hội. Chính vì vậy họ sẽ phải phụ thuộc rất nhiều vào người chồng, không có tiếng nói riêng của chính mình. Có 41% cho rằng thời gian làm nội trợ trong ngày là trên 2 - 4 tiếng. Đây là tỉ lệ không cao nhưng cũng không nhỏ nên có thể coi đó là thời gian phù hợp để làm các công việc nhà. Đó cũng là thời gian đủ cho mỗi người phụ nữ vừa đảm đương công việc xã hội, vừa lo toan đến việc nàh. Họ biết dung hoà giữa việc cơ quan với công việc gia đình để đảm bảo cho mỗi thành viên trong tổ ấm của mình luôn cảm thấy thoải mái. Tuy công việc nội trợ luôn gắn với vai trò người phụ nữ nhưng trong gia đình hiện nay, người chồng đã biết giúp đỡ người vợ những công việc vặt để cho người vợ cảm thấy được sẻ chia. Bảng 3 - Người chồng có giúp đỡ vợ trong việc nội trợ Mức độ Số người Tỷ lệ % Thường xuyên 23 23,0 Thỉnh thoảng 49 49,0 Không bao giờ 28 28,0 Tổng 100 100 Như vậy người chồng thường xuyên giúp đỡ người vợ trong việc nội trợ với tỉ lệ là 23%, thỉnh thoảng là 49%, còn không bao giờ là 28%. Qua con số này ta thấy số người chồng không bao giờ giúp đỡ người vợ trong việc nội trợ cao hơn số người chồng thường xuyên giúp đỡ vợ. Đây có thể coi là một nỗi buồn cho những người vợ không bao giờ nhận được sự chia sẻ của người chồng trong công việc nội trợ. Và như vậy vốn vất vả người phụ nữ sẽ càng vất vả hơn khi phải vừa lo công việc ngoài xã hội, vừa lo công việc gia đình mà không có sự trợ giúp của người chồng. Tuy nhiên với tỉ lệ 23% người chồng thường xuyên giúp đỡ vợ con trong việc nội trợ là con số đáng quan tâm. Đây thực sự là những người đàn ông biết chia sẻ với người vợ công việc gia đình. Việc người chồng thường xuyên giúp đỡ vợ làm nội trợ nằm trong đa số các gia đỉnh trẻ hiện nay. Các gia đình này nhận thức được đã là một gia đình thì hai vợ chồng nên chia sẻ với nhau mọi công việc, không phân biệt việc này của phụ nữ, việc kia của nam giới. Có như vậy trong gia đình mới có sự bình đẳng giữa vợ và chồng. Còn lại 49% số người chồng thỉnh thoảng giúp đỡ vợ việc nội trợ. Số người này cần được tiếp tục động viên, khuyến khích. Dẫu sao việc người chồng thỉnh thoảng giúp đỡ vợ việc nội trợ cũng sẽ là nguồn động viên người vợ. Trong điều kiện đất nước đang từng ngày đổi mới như hiện nay thì việc người chồng giúp đỡ vợ nội trợ trong gia đình là điều rất cần được khuyến khích và cần được phát huy, góp phần xây dựng sự bình đẳng trong đời sống gia đình. Bên cạnh việc giữ vai trò nội trợ chính trong gia đình thì người vợ còn phải lo chăm sóc con cái, dạy dỗ chúng. Bảng 4 - Việc chăm sóc, dạy dỗ con cái trong gia đình. Người tham gia Chăm sóc con cái (ăn uống, sinh hoạt, vui chơi giải trí) Dạy dỗ con cái (dạy học cho con, họp phụ huynh cho con) Số người Tỉ lệ % Số người Tỉ lệ % Vợ 61 61,0 42 42,0 Chồng 6 6,0 19 19,0 Cả 2 32 32,0 37 37,0 Người khác 1 1,0 2 2,0 Tổng 100 100,0 100 100,0 Nhìn vào bảng số liệu này ta thấy việc chăm sóc con cái (bao gồm ăn uống, sinh hoạt, vui chơi giải trí) do người vợ đảm nhiệm chiếm tỉ lệ là 61%, người chồng là 6%, cả hai vợ chồng cùng chăm sóc con là 32% và chỉ có 1% tỉ lệ dành cho người khác. Rõ ràng là người phụ nữ cũng có vai trò to lớn trong việc chăm sóc con cái (với 61%) và người chồng chỉ có 6%. Điều này cũng thật dễ hiểu bởi người mẹ bao giờ cũng luôn gần gũi, quan tâm, lo lắng cho đứa con, theo dõi từng bước trưởng thành của chúng. Thiên chức của người phụ nữ là làm vợ, làm mẹ nên họ hiểu được bổn phận của mình trong gia đình. Không những lo cho chồng họ còn phải quan tâm tới con, lo cho chồng con cái ăn, cái mặc. Người phụ nữ luôn có đức tính cẩn thận, chu đáo do đó việc chăm sóc con cái rất cần tới bàn tay của họ. Ta có thể thấy được sư lo lắng của họ khi con ốm hay niềm vui khi thấy con mình khoẻ mạnh. Họ lo cho con từ cái ăn uống, sinh hoạt cho đến những hoạt động vui chơi giải trí nào được con ưa thích… Việc chăm sóc con cái của người phụ nữ trong gia đình vì thế có vai trò rất lớn. Và cho dù ở xã hội truyền thống hay xã hội hiện đại thì thiên chức này luôn được phát huy. Tuy vậy qua khảo sát tại quận Hai Bà Treưng chúng tôi thấy rằng việc chăm sóc con cái giờ đây không phải do người vợ đảm nhiệm mà ngày nay người chồng đã cùng tham gia vào việc chăm sóc cho con. Tỉ lệ 32% cả vợ lẫn chồng quan tâm chăm sóc con cái cho thấy người chồng đã có sự chuyển biến tích cực khi cùng người vợ lo lắng cho đứa con về mọi mặ ăn uống, sinh hoạt, vui chơi giải trí. Điều này cũng cho thấy người chồng đã nhận thức được đây là công việc chung nên họ cũng đã xác định bổn phận chăm sóc con cái. Ngoài việc chăm sóc con thì người vợ cũng chiếm một tỉ lệ không nhỏ trong việc dạy dỗ con cái với 42%, người chồng là 19%, cả hai vợ chồng là 37% và người khác chiếm tỉ lệ rất nhỏ là 2%. Người phụ nữ không những chu đáo mà còn tỉ mỉ, kiên nhẫn khi dạy dỗ con. Nghị quyết 04/NQ-TW của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định : “Phụ nữ vừa là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người (5). Người mẹ bao giờ cũng dạy cho con ngay từ bước đi đầu tiên. Vai trò của họ trong việc dạy dỗ con cũng không thể thiếu. Ở đây vai trò người chồng chiếm tỉ lệ 19% trong việc dạy dỗ con. Tỉ lệ này nhỏ hơn so với tỉ lệ của người vợ, bởi trong gia đình thì người cha l;uôn nghiêm khắc với con, còn người mẹ thì lại luôn luôn gần gũi, dịu dàng. Tuy nhiên việc dạy dỗ con là một công việc rất quan trọng, nên rất cần có sự phối hợp của cả bố lẫn mẹ. Con số 37% cả hai vợ chồng cùng tham gia dạy dỗ con học là tỉ lệ chưa cao nên rất cần được quan tâm. Việc giáo dục con cái trong gia đình hiện nay rất được coi trọng và có vị trí đặc biệt cả ở nông thôn và thành thị. Nhân cách của mỗi người được hình thành như thế nào chủ yếu là do giáo dục gia đình. Chính vì vậy cả người chồng lẫn người vợ nên thường xuyên dạy bảo cho con những điều tốt đẹp, là tấm gương sáng cho con noi theo bởi lẽ trẻ em là tương lai của đất nước. Qua phỏng vấn sâu, chị Thúy (41 tuổi, bán hàng) cho biết “Gia đình chị có hai cháu. Cháu lớn học lớp 11, cháu nhỏ đang học lớp 4. Cả hai vợ chồng đều đi làm nhưng vẫn phải quan tâm tới việc học của các cháu. Vợ chồng phân công mỗi người kèm một đứa học, họp phụ huynh cũng thế. Nếu một trong hai người bận thì người còn lại sẽ vất vả hơn”. Như vậy có thể thấy rằng việc dạy dỗ con cái là rất quan trọng trong xã hội hiện nay và đó là công việc chung của cả vợ lẫn chồng. Qua những nội dung phân tích trên đây ta thấy rằng cho dù ở xã hội truyền thống hay xã hội hiện đại thì người phụ nữ vẫn luôn đóng góp vai trò chính trong việc nội trợ, chăm sóc, dạy dỗ con cái. Những công việc này tưởng như là đơn giản nhưng thực ra chiếm khá nhiều thời gian và công sức. Tuy nhiên với sự chuyển đổi của đất nước hiện nay thì người chồng cũng đã tích cực tham gia vào các công việc trong gia đình, giúp đỡ cho người vợ một số việc. Người chồng thực hiện các việc như nội trợ, chăm sóc, giáo dục con không còn là điều đáng ngạc nhiên nữa, mà cả người vợ lẫn người chồng đều nhận thức được rằng đó là các công việc chung và quan trọng, nhất là việc dạy dỗ giáo dục con. 2- Người phụ nữ đã có thể tham gia bàn bạc, quyết định các việc chi tiêu trong gia đình cùng người chồng. Trong gia đình có rất nhiều khoản chi tiêu khác nhau. Những chi tiêu thường nhật cho sinh hoạt, ăn uống thường do người phụ nữ chủ động thực hiện bởi vì họ là những người hàng ngày làm công việc đó. Tuy nhiên có những khoản chi tiêu lớn có ảnh hưởng đáng kể tới đời sống kinh tế của các gia đình. Những khoản chi tiêu này rất cần tới sự bàn bạc, thống nhất và quyết định của người chủ gia đình. Bảng 5 - Người quyết định các khoản chi tiêu trong gia đình. Người quyết định Mua sắm tài sản đắt tiền (%) Xây sửa nhà (%) Tiền học cho con (%) Hiếu hỉ (%) Các khoản chi khác (%) Vợ 4.0 3,0 31,0 75,0 66,0 Chồng 33,0 28,0 28,0 4,0 11,0 Cả 2 61,0 66,0 41,0 20,0 23,0 Người khác 2,0 3,0 1,0 Tổng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nhìn vào bảng số liệu trên đây có thể thấy rằng việc mua sắm tài sản đắt tiền do người vợ quyết định chỉ co 4%, trong khi đó người chồng là 33%, cả hai vợ chồng là 61% và người khác chiếm một tỉ lệ rất nhỏ chỉ có 2%. Với tỉ lệ 4% cho thấy người phụ nữ ít có vai trò quyết định trong việc mua sắm tài sản đắt tiền. Người phụ nữ vốn chỉ được coi là người nội trợ chính nên không tham gia quyết định việc mua sắm tài sản, còn người chồng vốn được coi là trụ cột kinh tế trong gia đinh (có tỉ lệ tới 33%) và nắm quyền quyết định việc mua sắm tài sản đắt tiền. Đây thực sự là dấu hiệu của sự bất bình đẳng. Tuy nhiên kết quả điều tra cũng cho thấy việc cả hai vợ chồng cùng quyết định mua sắm những tài sản này lại là tỉ lệ cao với 61%. Như vậy giữa vợ và chồng đã có tiếng nói chung và người vợ đã có quyền quyết định cùng người chồng mua sắm những thứ cần thiết cho gia đình. Nếu trước kia người vợ chỉ biết lắng nghe thì hiện nay người vợ đã cùng chồng bàn bạc quyết định nên hoặc không nên mua cái gì. Điều này cũng phần nào cho thấy trong gia đình có sự bình đẳng giữa vợ và chồng và cả hai vợ chồng cùng quyết định mua sắm tài sản đắt tiền là rất phổ biến hiện nay. Qua việc phỏng vấn sâu chị Hoà (43 tuổi, bán hàng) cho biết “Năm nay đứa lớn vừa đỗ đại học nên hai vợ chồng đã cùng bàn bạc quyết định và thống nhất mua cho cháu chiếc xe máy làm phần thưởng”. Đặc biệt trong việc xây, sửa nhà cửa tỉ lệ cần phải quan tâm là cả hai vợ chồng đều tham gia quyết định với 66%. Người phụ nữ ngày nay đã có thể tham gia vào mọi việc trong gia đình chứ không chỉ còn quanh quẩn với bếp múc chợ búa như trước nữa. Mặc dù việc xây, sửa nhà cửa phần lớn là do người đàn ông đảm nhiệm nhưng vấn đề này hiện nay đã có người phụ nữ cùng chung sức xây dựng. Đã là một gia đình thì cả hai vợ chồng đều phải quyết định công việc chung của chính gia đình mình. Như thế 66% hai vợ chồng cùng tham gia quyết định trong việc xây, sửa nhà cửa cho thấy người phụ nữ đã không chịu bó hẹp mình trong phạm vi nội trợ nữa rồi mà trái lại họ đã tham gia cùng chồng vào các công việc chung của gia đình. Về vấn đề người quyết định tiền học cho con thì tỉ lệ 31% của người vợ cao hơn chút it so với người chồng là 28%, còn lại cả hai vợ chồng thì tỉ lệ là 41%. Đây có thể là những tỉ lệ trung bình, nhưng nhìn chung cả vợ lẫn chồng đều rất quan tâm tới việc học hành của con cái mình. Học phí cho con bây giờ không phải là ít, bao gồm tiền học ở trường, tiền học thêm, tiền xây dựng trường, tiền bảo hiểm thân thể… Càng lên lớp cao thì số tiền càng nhiều, bởi cha mẹ nào cũng mong con vào được Đại học. Và như vậy việc lo tiền học không chỉ của riêng người vợ hay người chồng nữa mà đó là công việc chung của cả hai người. Họ phải có trách nhiệm với con cái mình, không chỉ lo cái ăn cái mặc cho con mà còn phải quan tâm tới việc học hành của chúng. Cho dù có bề bộn công việc nhưng cha mẹ vẫn phải dành một khoảng thời gian nhất định cho việc học tập của con cái bởi con cái luôn luôn là niềm tự hào của cha mẹ. Con học giỏi thì cha mẹ nở mày nở mặt, còn ngược lại conchỉ lo chơi mà không lo học sẽ làm cho cha mẹ phiền lòng. Chính vì vậy mà học vấn là rất quan trọng nên gia đình nào cũng phải cố gắng nuôi con ăn học tới nơi tới chốn cho bằng bạn bằng bè. Và như vậy việc quyết định tiền học cho con không chỉ một mình người vợ hay người chồng gánh vác nữa mà đã trở thành việc chung của cả hai người. Người quyết định việc hiếu hỉ trong gia đình là người vợ chiếm tỉ lệ 75% trong khi đó tỉ lệ người chồng chỉ là 4%, cả hai vợ chồng là 20%. Việc người phụ nữ quyết định chính trong các khoản hiếu hỉ cũng là điều dễ hiểu bởi những công việc này đa số đến tay người phụ nữ. Họ luôn được coi là hậu phương vững chắc của người chồng nên những việc nhỏ này đến tay họ là lẽ đương nhiên. Việc người chồng cùng quyết định với vợ các khoản chi tiêu trong hiếu hỉ với tỉ lệ 20% cho thấy người chồng đã quan tâm tới mọi việc dù lớn hay bé trong gia đình. Tỉ lệ này chưa phải là cao nhưng qua đây ta thấy rằng người chồng đã biết chia sẻ cùng với người vợ các công việc liên quan tới đời sống tình cảm trong gia đình của chính mình. Cũng giống như quyết định việc hiếu hỉ do người phụ nữ đảm nhiệm là chính thì việc quyết định các khoản chi tiểu khác trong gia đình đa số là do người vợ với tỉ lệ rất cao 66%, còn người chồng chỉ có 11%, cả vợ lẫn chồng là 23%. Các khoản chi tiêu khác ở đây là những khoản như tiền điện, tiền nước, tiền vệ sinh, tiền an ninh… Phụ nữ vốn là người chu toàn nên những việc tưởng như nhỏ nhặt này do họ đảm đương. Tuy nhiên chỉ có 11% người chồng quyết định các khoản chi khác trong gia đình là một điều không công bằng cho người vợ bởi các khoản chi này là của chung gia đình. Nhưng với xu hướng đổi mới hiện nay, việc cả vợ lẫn chồng cùng quyết định các khoản chi khác trong gia đình là rất phổ biến vì họ hiểu đây là công việc chung của cả gia đình chứ không phải của riêng người vợ hay người chồng. Tỉ lệ 23% các cặp vợ chồng quyết định các khoản chi tiêu khác trong gia đình cho thấy người chồng đã biết quan tâm, chíảe, gánh vác với người vợ mọi việc dù là nhỏ nhặt nhất trong gia đình. Bên cạnh những công việc trên do phần lớn người phụ nữ đảm nhiệm thì việc quản lý tiền trong gia đình cũng là điều đáng quan tâm. Tìm hiểu ai là người quản lý tiền trong gia đình sẽ có nhiều điều thú vị bởi lẽ người cầm tiền chắc chắn là người biết được, kiểm soát được ở mức độ nhất định số tiền của gia đình cũng như biết được số tiền của gia đình đã được sử dụng vào những việc gì. Bảng 6 - Người quản lý tiền trong gia đình Người quản lý tiền trong gia đình Số người Tỷ lệ % Vợ 64 64,6 Chổng 8 8,1 Cả hai 27 27,3 Bảng số liệu này cho thấy người vợ chiếm một tỉ lệ rất cao là 64,6% trong việc quản lý tiền của gia đình so với người chồng chỉ có 8,1%, còn cả hai vợ chồng cùng quản lý tiền là 27,3%. Việc quản lý tiền trong gia đình truyền thống thường do người phụ nữ đảm nhiệm. Người phụ nữ luôn được ví là “tay hòm chìa khoá” nên có tới 64,6% người vợ là người quản lý tiền trong gia đình cũng thật dễ hiểu. Không những cẩn thận, chu đáo, họ còn biết chi tiêu đúng lúc đúng chỗ, biết cái gì cần mua và cái gì không nên mua… Còn người chồng không phải là không biết cách chi tiêu đúng mức mà là vì họ không được cẩn thận như người vợ nên chỉ có 8,1% quản lý tiền trong gia đình. Tuy nhiên trên thực tế người quản lý tiền, người cầm giữ tiền chính trong gia đình không đồng nghĩa với người có quyền cáo nhất trong quyết định chi tiêu các khoản tiền. Người có quyền quyết định chi tiêu các khoản tiền nhất là các khoản tiền lớn thường do người chủ gia đình là người chồng quyết định. Nhưng xã hội ngày càng bình đẳng thì việc quản lý tiền trong gia đình cũng nên bình đẳng. Chỉ có 27,3% các cặp vợ chồng cùng quản lý tiền là tỉ lệ nhỏ cho thấy người phụ nữ vẫn có vai trò lớn trong việc quản lý tiền vì tính của họ luôn cẩn thận, chu đáo với mọi công việc trong gia đình. Qua việc phân tích những số liệu trên ta thấy rằng người phụ nữ đã có thể cùng chồng tham gia, bàn bạc, quyết định các công việc của gia đình. Ngoài ra họ còn là “tay hòm chìa khoá” quả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTLH (11).doc