Luận văn Một vài tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc Mường ở Phú Thọ hiện nay

MỤC LỤC

 

Mở đầu

Chương I : Nguồn gốc lịch sử của người Mường ở Phú Thọ

I. Nguồn gốc lịch sử của người Mường ở Phú Thọ

Chương II : Tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ

2.1. Khái niệm tín ngưỡng

2.2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay

Chương III : Hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay - Thực trạng và giải pháp

3.1. Thực trạng của xu hướng hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay

3.2. Phương hướng, giải pháp nhằm định hướng đúng đắn hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay

Kết luận

Danh mục tài liệu tham khảo

 

 

doc52 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5151 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một vài tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc Mường ở Phú Thọ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong quá trình hình thành và tồn tại, đều có chức nông nghiệp đền bù hư ảo và xoa Dịu nỗi đau hiện thực và hướng tới sự giải thoát về tinh thần. Ph.Ănghen cho rằng : “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người - của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ ; chỉ là sự phản ánh trong đó có lực lượng trần thế đã mang hình thức siêu thần thế” (16) và “bên cạnh những lực lượng siêu nhiên, lại còn có các lực lượng xã hội tác động - những lực lượng này đối lập với con người một cách cũng xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy” (17). Như vậy tín ngưỡng, tôn giáo là một tiểu hệ thống các kiến trúc thượng tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng đã sinh ra chúng và phản ánh sự bất lực của con người trước các lực lượng tự nhiên và xã hội. Nhìn tổng quát tuy có mặt tích cực nhưng mặt tiêu cực là phần nhiều. Thực tế lịch sử đã chứng minh, tín ngưỡng, tôn giáo là vật cản rất lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại. 2- Tín ngưỡng, tôn giáo đều là sự thể hiện niềm tin, sự ngưỡng mộ của con người đối với một thực thể siêu việt nào đấy như thượng đế, thần, phật, tổ tiên. .. Niềm tin trong tín ngưỡng, tôn giáo là một niềm tin đặc biệt của chủ thể nhận thức, chủ thể có thể là cá nhân, có thể là nhóm người, cộng đồng người… Niềm tin nó được hình thành trên cơ sở những nhận định thiếu hụt về khách thể và do giai đoạn lịch sử, nên nó hình thành nên các ý niệm, biểu tượng tôn giáo. Niềm tin tôn giáo còn được hình thành trong hoàn cảnh tù túng, bất lực của con người trước cuộc sống họ không làm chủ được mình “hoặc đánh mất mình” và có nhu cầu được đền bù xoa Dịu bằng niềm tin vào lực lượng siêu nhiên. Nó được hình thành và tồn tại trên cơ sở tình cảm tâm lý tôn giáo. Bản chất niềm tin tôn giáo là khẳng định sự tồn tại và khả năng cứu giúp con người của thần thánh. Như vậy, niềm tin vào cái siêu thực, đấng thiêng liêng là hạt nhân của tín ngưỡng, tôn giáo. Tín ngưỡng, tôn giáo đều có chức năng đền bù hư ảo nỗi khổ đau hiện thực của con người. 3- Tín ngưỡng, tôn giáo đều có hệ thống nghi lễ, bao gồm những biểu tượng mang tính thần thánh, những điều răn dạy, kiêng kỵ, hệ thống nghi lễ, hình thức, phương tiện để chuyển tải ý thức. Niềm tin tôn giáo, nó giữ vai trò quan trọng cho sự hoà nhập cộng đồng, nâng sức mạnh của con người lên trên bản thân mình và giúp họ cảm nhận về thế giới của thần linh. Bên cạnh những cái giống nhau thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng có những điểm khác nhau cơ bản sau : 1- Tín ngưỡng xét về mặt lôgic hình thức thì là khái niệm có nội hàm hẹp hơn tôn giáo. Bởi vậy tôn giáo thì lúc nào cũng là tín ngưỡng, con mọi hình thức tín ngưỡng chưa chắc đã phải là tôn giáo. 2- Tín ngưỡng được hình thành ngay từ trong cuộc sống rất phong phú và đa dạng, chủ yếu là do xúc cảm và kinh nghiệm mang lại. Nó phản ánh thiếu sự tính chất sàng lọc, khái quát, thiếu cơ sở lý luận chặt chẽ. Thường mang tính dân gian đời thường. Còn tôn giáo được hình thành trên cơ sở lý luận chặt chẽ, có cơ sở thế giới quan là chủ nghĩa duy tâm. Mặt khác tôn giáo đi giải thích thế giới từ những thực tế tinh thần khách quan có trước, sáng tạo và chi phối thế giới hiện thực và hàng loạt các kinh, sách ra đời để chứng minh cho sự đúng đắn của đức tin tôn giáo. Nó được diễn ra như : linh hồn, thượng đế, thiên đàng, địa ngục, niết bàn… 3- Tín ngưỡng có kết cấu rất đơn giản, nó được hình thành và tồn tại dựa vào cơ sở của các phép lạ, đấng siêu nhiên, vào thế giới vô hình như : thần linh, tổ tiên, thần sông, núi, âm ty, địa ngục, ma, quỉ… niềm tin ấy nó mang tính huyền bí hoặc mờ ảo, không rõ ràng, chưa đạt đến chính xác và khái quát cao, mang tính giản đơn và dựa vào cảm tính là chính. Còn tôn giáo thì có cấu trúc khá phức tạp có mối quan hệ qua lại với thế giới quan, nhân sinh quan, ý thức, tâm lý, tình cảm, niềm tin, đức tin… Ở Tôn giáo, thì đức tin được đề cao, song cũng đòi hỏi sự lý giải mang tính hệ thống, lôgic xây dựng và củng cố trên cơ sở của thế giới quan tôn giáo các chức sắc trong tổ chức tôn giáo thường tuyên truyền, củng cố và khẳng định, niềm tin tôn giáo thông qua các hoạt động tôn giáo được tiến hành định kỳ. Trong tín ngưỡng, tôn giáo thì nghi lễ và các giáo chủ, kinh sách đóng vai trò hết sức quan trọng vì thế mà tín ngưỡng, tôn giáo có tác động to lớn đối với đời sống xã hội. Khi đã đề cập đến sự giống và khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo thì cũng cần phải nhắc đến hiện tượng “mê tín dị đoan”. Bản thân tín ngưỡng, tôn giáo cũng chứa đựng những yếu tố mê tín dị đoan, là mảnh đất để mê tín phát triển. Tín ngưỡng là sự mộ, tin vào chủ thể siêu nhiên, thần thánh nào đó, còn mê tín dị đoan chỉ là niềm tin mù quáng, mê muội vào những cái thần bí như thần, thánh, ma, quỉ, số mệnh… không dựa trên cơ sở thế giới quan hay phương pháp tu hành của các tổ chức tôn giáo nào. Mê tín dị đoan đến mức độ cuồng tín, mê muội, mất lí trí, suy đoán tuỳ tiện, tin vào những điều quái dị, không có trong thực tế thì trở thành mê tín dị đoan. Mê tín dị đoan là những hiện tượng phản khoa học, phản văn hoá. Trong lịch sử các giai cấp, dân tộc thường vì lợi ích giai cấp cho dân tộc mình thì thương gán cho tín ngưỡng dân tộc cái mũ “dị giáo”. Và lấy cớ đó để thôn tính đàn áp. Trong xã hội hiện đại thì mê tín dị đoan được chỉ rõ rằng, chủ nghĩa tín ngưỡng hiện đại không phủ nhận hoàn toàn khoa học, nó chỉ phủ nhận sự “kỳ vọng quá đáng” của khoa học, chính xác là “sự kỳ vọng về chân lý khách quan” (18. Trong thự tế thì mê tín dị đoan, tín ngưỡng, tôn giáo thường nó tồn tại và đan xen lẫn nhau, chúng đều có bản chất là tin vào lực lượng siêu nhiên, là sự phản ánh hư ảo hiện thực, sự phân biệt ranh giới giữa chúng chỉ là tương đối và khó phân biệt. Từ những đặc trưng trên,có thể quan niệm rằng : tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh vực tinh thần, là hệ quả của các quan hệ xã hội, được hình thành trong quá trình lịch sử văn hoá, là sự biểu hiện niềm tin dưới sạng tâm lý xã hội vào cái thiêng liêng thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng của con người và cộng đồng người trong xã hội. Trên những cơ sở đó thì, tác giả đi sâu vào nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ. 2.2. TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI MƯỜNG Ở PHÚ THỌ. 2.2.1. Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ. Trước hết nên hiểu như thế nào là tổ tiên. Khái niệm tổ tiên là khái niệm dùng để chỉ những người cùng huyết thống đã mất như kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ… là những người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng và có ảnh hưởng đến đời sống vật chất tinh thần của con cháu thế hệ sau. Tổ tiên trong xã hội nguyên thuỷ có nguồn gốc từ Tô tem giáo thị tộc. Từ tổ tiên tô - tem chuyển sang tổ tiên người thực là quá trình chuyển từ chế độ thị tộc mẫu hệ, sang chế độ thị tộc phụ hệ. Tổ tiên tô-tem giáo trong thời kỳ thị tộc mẫu hệ là những vật trong tự nhiên được thần thánh hoá, được coi là vật tổ của tại tộc và nó che chở cho các gia đình trong thị tộc để cầu mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, bội thu. Thời kỳ thị phụ hệ thì thường tổ tiên được tôn thờ là những người đứng đầu thị tộc và nắm quyền uy trong tay. Khi họ mất, thì mọi người trong bộ tộc đó sẽ lập miếu thờ và cầu mong người đó che chở cho gia đình - Thị tộc. Đó chính là những yếu tố tạo nên biểu tượng về thờ cúng tổ tiên của người Mường nói riêng và các dân tộc khác trong cả nước ta nói chung. Tổ tiên trong xã hội có giai cấp được thể hiện đầy đủ hơn, họ thường là những người đàn ông giữ vị trí chủ chốt trong gia đình, gia tộc, đã mất có quyền thừa kế và di chúc tài sản theo quan niệm của chế độ phụ quyền. C.Mác khi nghiên cứu “quyền thừa kế” trong gia đình cổ đại la mã và cho rằng : “Người chủ gia đình có quyền lực tuyệt đối với toàn bộ những cái thuộc phạm vi kinh tế gia đình”… (19). Trong quá trình phát triển của lịch sử khái niệm tổ tiên cũng có sự biến đổi, phát triển. Tổ tiên không chỉ được bó hẹp với phạm vi huyết thống nữa mà nó mở rộng ra trong cả một cộng đồng xã hội. Trong cuộc sống hiện nay thì họ thường tôn kính, tưởng nhớ những người có công lớn trong các phong trào quần chúng, xây dựng và bảo vệ cuộc sống cộng đồng, được xã hội thừa nhận cấp sắc phong hầu, được nhân dân ghi công ơn và được tôn thờ trong các đình, miếu, … Khi nhắc đến tổ tiên của người Mường là thờ quốc mẫu vua bà, đây là một vị thần được đặt ở vị trí tôn kính nhất trong Đình miếu ở nhiều vùng Mường thuộc huyện Yên Lập - Phú Thọ. Những người am hiểu sự tích này thì thường còn gọi là Đức quốc Mẫu, nhưng ở trong dân tộc Mường gọi bà là chúa thượng ngàn - Bà mẹ của núi rừng. Theo ngọc phả ghi bằng chữ Hán còn lưu ở đền thì vua Bà là mẹ của thần núi Tản Viên. Truyền rằng bà đã chia tay chồng và mang một số con thứ đi mở mang đất nước ở vùng thượng sông Đà. Chồng bà ở lại với con trưởng là Tản Viên cai quản vùng núi Ba Vì và theo nước sông Đà mở mang cõi ngược ra phía Biển. Thời đó, khi khai phá đất đai đến đâu bà cũng dậy dân bắt trâu rừng về thuần dưỡng thành trâu nhà, dạy dân biết làm nỏ bắn chim, chuột, sóc… và dậy dân làm vợt bắt cá dưới sông… Truyền thuyết này rất gần gũi với thần thoại Lạc long quân và Âu Cơ đẻ trăm trứng và chia con ra và đi khai khẩn. Phải chăng Đức Quốc Mẫu là Âu Cơ, theo “Đại Nam nhất thống chí” do sử quan nhà Nguyễn biên sạn có ghi : “Có thuyết nói : Thgần (Tản Viên) là Hương Lang con lạc long quân. đời đường nghiêu nước lớn ngập lụt núi gò, Hương lang có phép tiên, trừ được nạn lụt, sau lại đánh tan quân nhà Tần, bèn đi khắp nơi xem xét danh thắng, đến núi Tản Viên dựng cung điện để ở. Sau người ta lập thành đền thờ” (tr.221). Ngươic Mường thực hiện nghi lễ với Đức Quốc Mẫu thường vào mùng Một, hôm rằm, do cá nhân hoặc từng hộ gia đình hoặc tôn họ tiến hành. Các hình thức sinh hoạt thường là cả cộng đồng và huy động cả làng Mường tham gia như tổ chức lễ hội : Đức Quốc Mẫu được hiện thân là Phật Bà và người Mường cầu xin bà nhiều thứ. Cũng như người kinh thì tĩn ngưỡng thờ cúng tổ tiên nó in rất sâu đậm trong tâm thức của người Mường. Họ quan niệm rằng người chết thể xác hoá thân vào vũ trụ nhưng linh hồn vẫn tồn tại nhớ về nơi ở cũ. Bổn phận của người sống là phải phụng sự linh hồn no đủ để linh hồn phù trợ cho người sống yên ổn, khoẻ mạnh và làm ăn phát đạt. Trong ngôi nhà sàn của người Mường thì bàn thờ tổ tiên được đặt ở cửa vóng gian giữa nhà, người con trưởng phải thờ cúng tổ tiên 5 đời (ngũ đại). Mỗi đời được thể hiện bằng một bát hương xếp theo hàng ngang. Người con thứ thì chỉ lập một bát hương thờ trực tiếp người sinh ra mình. Khác với người kinh (con gái về nhà chống không được lập bàn thờ cha mẹ đẻ), người phụ nữ về nhà chồng nếu cha mẹ qua đời mà không có con trai thờ cúng thì được nhà chồng cho phép lập một bát nhang thờ cha mẹ để ở gian của vóng khách, nhưng bàn thờ nhỏ hơn bàn thờ của bố mẹ chống. Nếu người kinh lấy ngày chết của tổ tiên làm ngày giỗ tổ thì người Mường lại rất khác. Họ lấy ngày người chết rời khỏi nhà đưa đi chôn cất làm ngày giỗ. Họ cho rằng khi người chết còn ở nhà thì sợi dây tình cảm giữa người sống và người chế chưa lìa nhau. Mà chỉ khi người chết đã được chôn chặt dưới mộ thì sợi dây tình cảm đó mới cắt đứt. (Người Mường không có tục cải táng mộ). Vì có lẽ trước năm 1945 gia chủ của gia đình có người mất do điều kiện kinh tế còn hạn hẹp, nên người chết thường được để vào quan tài và đợi đến ngày khi chuẩn bị đầy đủ về điều kiện vật chất thì mời cả dân làng đến làm lễ đưa người chết ra đồng, lúc đó người chết mới thật sự chết trong mắt của người sống. Trong xã hội có giai cấp, thì tổ tiên tô tem vẫn còn dấu ấn khá đậm nét. Đó là tổ tiên siêu nhiên, vì nhân vật huyền thoại phản ánh tư tưởng, nguyện vọng và tình cảm của nhân dân lao động trong cuộc sống đấu tranh với thiên tai, dịch hoạ bảo vệ cuộc sống cộng đồng. Họ vẫn được tôn thờ, kính trọng như các tổ tiên nhân thần trong các không gian tôn giáo, các thành hoàng làng của người Mường thường có nguồn gốc siêu nhiên và cũng được coi như là ông tổ của cộng đồng làng. Để hiểu sâu hơn nữa về tín ngưỡng và tôn giáo cỷa dân tộc Mường ở đây thì chúng ta cần đi phân tích các hoạt động của một lễ hội và lý luận của nó. Thờ cúng là hoạt động có ý thức của con người, là tổng thể phức hợp các yếu tố : ý thức về tôn giáo, biểu tượng về tổ tiên và lễ nghi thờ cúng trong không gian thờ cúng. Thờ là yếu tố thuộc ý thức về tổ tiên, là tâm linh tình cảm hướng về cội nguồn của con cháu. Thờ tổ tiên là thể hiện lòng thành kính, biết ơn và tưởng nhớ tổ tiên. Đồng thời cũng là sự thể hiện niềm tin vào sự che chở và bảo vệ, trợ giúp của tổ tiên đối với cuộc sống ở hiện tại. Cơ sở để hình thành nên ý thức về tổ tiên là niềm tin và linh hồn bất tử, tổ tiên tuy đã chết, song linh hồn vẫn sống thường lui tới và ngự trên bàn thờ của mỗi gia đình. Người Việt Nam ta có câu : “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”, đó chính là ý thức về tổ tiên được thông qua đạo hiếu. Còn đối với người Mường nói chung và người Mường ở Phú Thọ nói riêng thì họ thể hiện đầu tiên là trong Mo “đẻ đất đẻ nước” và họ mong muốn tổ tiên “phù hộ độ trì” cho con cháu ăn nên, làm ra và không bị làm hại. Họ còn cho rằng biểu tượng tổ tiên là những hình ảnh đẹp về cuộc sống. Tổ tiên luôn là những hình ảnh đẹp, những người tài giỏi có công, có đức. Nơi thờ tổ tiên thường có bài vị, tượng ảnh… được bày trí rất cầu kỳ. Đi song song với thờ thì hoạt động cúng cũng là yếu tố mang tính lễ nghi, là sự thực hành một loạt các động tác của người được quyền thờ cúng. Đó là hoạt động dưới dạng hành lễ, được quy định do quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng dân tộc. Nghi lễ thờ cúng được thực hiện bởi người trưởng gia đình, dòng họ với các động tác dâng lễ vật, khấn, lễ trong không gian thờ cúng : bàn thờ tại gia, đền, miếu, đình… Thờ, cúng là hai yếu tố tác động qua lại với nhau, thống nhất với nhau trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Sự “thờ”, “tôn thờ” chính là nội dung, còn hoạt động “cúng” là hình thức biểu đạt của nội dung thờ cúng, ý thức tôn thờ, thành kính, biết ơn tưởng nhớ, hy vọng sự trợ giúp, tránh sự trừng phạt của tổ tiên là nội dung cốt lõi của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nếu không có “thờ” mà chỉ có cúng thì tự bản thân thờ cúng tổ tiên không có “hồn thiêng” không có sức hấp dẫn nội tại và dễ thành nhạt nhẽo, vô vị. Sự “cúng” tuy chỉ là hình thức biểu đạt, song nó tôn vinh sự thiêng liêng, huyền bí, mờ ảo, tạo nên sức hấp dẫn, nó chính là hương vị mầu ắc, keo dính thoẫmn niềm tin, đáp ứng nhu cầu chủ thể thờ cúng. Hình thức thờ cúng lúc đầu thể hiện ý thức tổ tiên, về sau trở thành tạp tục, truyền thống mang bản sắc văn hoá, được truyền lối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Yếu tố ý thức, tư tưởng, tình cảm tổ tiên được kết lắng trong nghi lễ thờ cùng nhiều khi không thể tách bạch rõ ràng. Yếu tố lễ nghi thờ cúng là phương tiện chuyển tải ý thức, tư tưởng, tình cảm đối với tổ tiên. Vì thế, nói đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thì cần phải đề cập tới hai yếu tố ý thức và lễ nghi, phải đi sâu tìm hiểu nguồn gốc, bản chất của nó. Do thời gian có hạn, vì vậy mà nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng sẽ không được trình bày ở đây mà chỉ lấy một câu tổng kết của các nhà khoa học từ bản chất và nguồn gốc của tín ngưỡng. “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một bộ phận ý thức xã hội, là một loại hình tín ngưỡng dân gian, được hình thành từ thời nguyên thuỷ, với niềm tin thiêng liêng rằng, tổ tiên đá chết sẽ che chở, phù giúp cho con cháu, được thể hiện qua các lễ nghi thờ cúng. Nó phản ánh một cách chưa đúng đắn quyền hành của người đứng đầy thị tộc phụ hệ, gia đình phụ hệ được duy trì và phát triển trong xã hội có giai cấp sau này”. 2.2.2. Cơ sở để hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ. Sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử văn hoá đối với quá trình hình thành và tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ. Điểm khác biệt cơ bản giữa con người và động vật là ở chỗ, nó không chỉ thích nghi, vượt qua thiên nhiên xung quanh mình mà còn thông qua các hoạt động thực tiễn để cải tạo thực tiễn và duy trì cuộc sống của mình. Hoạt động thực tiễn góp phần làm hạn chế tính bản năng trong con người. Chính quá trình sống và hoạt động xã hội, con người đã tạo ra văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo… Hai phần trong cùng của một nền văn hoá là cách thức con người tác động vào giới tự nhiên để sản xuất của cải vật chất. - Điều kiện tự nhiên : Đó chính là môi trường sinh thái, trong đó con người sinh sống và tồn tại, là nơi cung cấp tư liệu sống và tư liệu lao động cần thiết cho con người. Con người tồn tại trong môi trường thực tế (tự nhiên) thì luôn có các mối quan hệ xã hội giữa con người với con người đó là một yếu tố rất quan trọng của tồn tại xã hội. Mặt khác, trong xã hội nếu muốn thích nghi một cách nhanh chóng thì phương pháp thích nghi tối ưu nhất là biện pháp khoa học kỹ thuật để từng bước khai thác tự nhiên. Môi trường tự nhiên khó khăn hay thuận lợi thì lại ảnh hưởng mạnh đến lối sống, thê ứng xử, phong tục tập quán - tín ngưỡng, tôn giáo. Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, có địa hình rừng, núi, đồng bằng, ven biển, hải đảo. Việt Nam có khí hậu nhiệt đới, nóng, ẩm, cường độ ánh sáng lớn, lượng mưa nhiều, độ ẩm lớn… Trong đó Trung du miền núi phía Bắc hay cụ thể là Phú Thọ nằm ở phía Bắc của đất nước là một tỉnh Trung du, được kiến tạo nên bằng hệ thống sông Hồng, Đà, Thao, và gồm các huyện như : Thanh Sơn, Hạ Hoà, Yên Lập, Sông Thao, Thanh Thuỷ, Thanh Ba, Thị xã Phú Thọ, Thành phố Việt Trì. Theo tài liệu nghiên cứu của các nhà khảo cổ học thì khẳng định rằng cách đây trên dưới một vạn năm thì ở đây đã đánh dấu thời kỳ sơ khai một nên nông nghiệp trồng lúa nước. Cội nguồn của các nền văn minh cổ đại cho khu vực và cả nước. Trong giai đoạn văn hoá phùng nguyên vào năm 3800 trhì ở đây đã xuất hiện các hoạt động, phong tục và trong các lễ hội đã xuất hiện trống đồng và các hình thức chàm thau. Ngoài ra cùng với việc chế tác đồ đá đạt tới đỉnh cao lúc đó người Việt đã phát hiện ra đồ đồng mở ra một thời kỳ phát triển mới cho tất cả các dân tộc. Mặt khác còn có các cuộc cải cách khoa học kỹ thuật, và trong nền văn hoá Đông Sơn… từ những bản làng còn lẻ tẻ đã có mối liên kết với nhau để chống thú rằng, chống ngoại xâm… Mặt khác, địa hình Việt Nam còn có sự chênh lệch khá lớn về địa hình mà điển hình ở Phú Thọ là một huyện miền núi mà huyện Thanh Ba, thị xã Phú Thọ lại là đồng bằng nhưng rất đẹp. - Điều kiện về kinh tế - xã hội, văn hoá : Người Mường ở đây là cư dân sống bản địa và họ thường sống trong các thung lũng ở chân núi. Họ chủ yêú làm ruộng nước và săn bắn, hái lượn ác sản phẩm của núi rừng sông suối. Hàng nghìn năm lao động thì họ đã hình thành các giá rị văn hoá phản ánh bản sắc của dân tộc Mường, thói quen trong sinh hoạt cũng được đúc kết, phản ánh những đặc trưng tiêu biểu của văn hoá Mường : cơm đồ, nhà gác, lợn thui, nước vác, ngày lui, tháng tới. Nhà sàn của người Mường bám theo dòng chảy của các con suối. Nước thì họ thướng lấy ở rừng có những mỏ nước ở trong rừng chảy ra và họ hứng và dẫn bằng các ống nứa đưa về nhà. Trong năm thì các hoạt động kinh tế được diễn ra liên tục, thường thi người Mường dệt vải và đem ra chợ bán và các rau, củ, quả, … họ kiếm được ở trên rừng họ đem ra trao đổi để đảm bảo cho cuộc sống. Một điều khác giữa người Mường ở đây (Phú Thọ) với người Mường (Hoà Bình, thanh Hoá) là khi dựng vợ, gà chồng cho con, xin cưới, ma chay giỗ chạp… thì họ thường lấy ngày Hội (theo lịch dương). “Ngày thì lùi 1 ngày, tháng thì tiến hơn ba tháng (Mường B), còn tiến hơn một tháng so với lịch âm của người kinh” (20). Họ còn có quan niệm rất rõ ràng rằng, tuy là con ông Bác, tuy là ngành trên nhưng không vì thế nhất thiết con ông chú phải gọi là anh, mà ở đây hễ con ông Bác hay ông chú hễ ai ra đời trước - nhìn thấy mặt trời trước thi được gọi là anh. Người con gái Mường khi về làm dâu thì được gia đình đằng chồng rất quí mến và không có tình trạng mâu thuẫn mẹ chồng con dâu như người Kinh. Trước khi về nhà chồng các cô gái Mường phải thức đêm hôm vài tháng để kéo bông, dệt vải, thêu thùa thành chăn đệm và vài chục chiếc gối để biếu, từ đường khâu mũi chỉ thì cũng phần nào đánh giá được nàng dâu. Chọn dâu, rể là một điều quan trọng và người Mường có câu : “Đừng tham nón rẻ mà đội trời mưa, đừng tham người đẹp mà thưa việc làm” (21). Đặc biệt rằng trong xã hội người Mường trước (1986) thì vẫn còn tình trạng chế độ đa thê (nhiều vợ), nhưng không chấp nhận cuộc lạn luân, ngoại tình và họ nghiêm cấm người trong cùng 1 gia phả 5 đời được lấy nhau, người Mường có quy định rất nghiêm ngặt trong sinh hoạt gia đình. Chàng rể không được ngồi ăn cơm cùng cô, gì, chú, bác, chị em bên vợ và người dâu cũng vậy, coi đó là cách để bảo hiểm để không nảy sinh các thói xấu trong quan hệ khác giới. Quan hệ huyết thống họ hàng chi phối sâu nặng trong các hộ gia đình Mường. Mọi công việc to lớn của một gia đình Mường đều có sự giúp dỡ của họ hàng nhất cưới xin, tang ma, làm nhà. Khi gia chủ thông báo với trưởng họ con trai của gia đình đã tìm được bạn gái ưng ý xin gia đình cho tiến hành các bước đi tới hôn nhân, thì trưởng họ đứng ra tập hợp những người trong họ đến để bàn bạ về việc cưới xin cho cháu. Ngày xưa khi kinh tế của mỗi gia đình còn hạn chế vì vậy mà trưởng họ phải phân công việc là nhà này đóng góp gà, vịt, nhà kia đóng góp rượu… và tục đó gọi đó là góp họ. Sinh hoạt văn hoá của người Mường cho phép trai gái giao lưu tình cảm với nhau và bày tỏ lời thương tiếng nhớ, sau đó hai bên thưa lại với gia đình. Chợ và ruộng, nương là những nơi mà trai gái Mường ra sức giao lưu tình cảm bằng mọi hình thức ; ở chợ thì trò chuyện, ở ruộng thì ví để tỏ tình với nhau. Những câu ví của người Mường rất lánh lót và vần và đi sâu vào lòng người, thể hiện tình yêu quyết liệt của trai gái Mường. “Chim kia ai đuổi mà bay Người kia ai đuổi mà ngày một xa”. Sự phản kháng của trai, gái Mường về tục ép duyên : “Chắp tay bái ngược ông trời Những nơi tôi định mà người chẳng se. *** Những nơi chết dập bờ tre Ông tơ bà Nguỵet lại xe tôi vào” Sự phản kháng ấy được phản ánh trong nhiều truyện thơ Mường : Vườn hoa, núi đồi, măng thơm… và kết cục là một trong hai người yêu nhau phải rời xa nhau, mà thường là người phụ nữ và tìm đến cái chết để tôn trọng tình yêu của mình và đấu tranh chống lại tục ép duyên. Tang lễ là việc lớn của cả xóm Mường, ai cũng phải có trách nhiệm đóng góp. Khi có một ai tắt thở thì các (Mế) mẹ và các (ún) em xóm giềng thường cử ra 5 - 6 người gồm 1 đầu nhóm và những người còn lại gánh thúng đi đến từng nhà trong xóm Mường, trong nhà có gì thì góp cái đó (tuỳ tâm). Sau đó, láng giềng kéo đến mỗi người một việc giúp cho nhà đám. Đặc biệt, khi gia chủ phát tang thì bất cứ ai dù là anh em hay không anh em thì họ đều đội khăn tang. Họ quan niệm rằng (một con ngựa đau thì cả tàu bỏ cỏ). Nguyên tắc ứng xử của người Mường được thể hiện rõ nhất mỗi khi có khách đến nhà. Bất luận là khách quen hoặc khách lạ đều tiếp khách một cách chu đáo. Khác với người Kinh đến nhà phải chào chủ nhà trước, còn người Mường hễ thấy khách dù thân hay sơ thì khi đến cầu thang thì cả nhà đon đả ra đón chào. Trước là ruống nước, sau là ở lại dùng bữa cùng gia đình (đây là một phong tục bắt buộc của người Mường). Họ có câu tục ngữ Mường nói về vấn đề này : “trâu ra đồng ăn cỏ, người đến nhà ăn cơm”. Tôn trọng thầy mo và người gia là truyền thống ăn sâu vào nếp sống của người Mường, với những kinh nghiệm từng trải, thì ông bà, cha mẹ thường truyền cho con cháu mình các bí truyền nên người Mường đã có câu rằng “sống phải đi tết, chết phải theo giỗ”. Để hiểu được thực chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cần xuất phát từ luận điểm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin về tín ngưỡng. Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Bản chất của nó là niềm tin của con người vào sự tồn tại và cứu giúp của một thự thể siêu nhiên nào đó qua hệ thống nghi lễ. Tổ tiên, thoạt đầu là tổ tiên Tô tem giáo của thị tộc, sau là tổ tiên theo huyết thống trong chế độ phụ quyền cũng là lực lượng siêu nhiên được con người thờ phụng, trên cơ sở niềm tin rằng, tổ tiên tuy đã mất, song linh hồn vẫn tồn tại có thể cứu giúp con cháu trong cuộc sống hiện tại. Chương III HOẠT ĐỘNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI MƯỜNG PHÚ THỌ HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIÀI PHÁP Để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thì cần có nhận định chính xác về thực trạng tín ngưỡng hiện nay. Thực trạng thờ cúng tổ tiên của người Mường Phú Thọ, nó phản ánh cuộc sống đang biến đổi hết sức sâu sắc, đặc biệt từ khi Đảng có chủ trương đổi mới. Quá trình đổi mới trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hộ, văn hoá… Từ đó thấy sự biến đổi trong nếp sống, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo. Trên cơ sở đó đưa ra kiến nghị một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực. 3.1. THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG HOẠT ĐỘNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI MƯỜNG Ở PHÚ THỌ HIỆN NAY. 3.1.1. Thực trạng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay. Từ sau t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docvh10.doc