Luận văn Thực trạng đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy sản tỉnh Bình Thuận

1 TMỤC LỤC1 T .3

1 TDANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT1 T .5

1 TMỞ ĐẦU1 T.6

1 T1. Lí do chọn đề tài1 T.6

1 T2. Mục tiêu và nhiệm vụ1 T.7

1 T3. Phạm vi nghiên cứu1 T.7

1 T4. Lịch sử nghiên cứu1 T.8

1 T5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu1 T.8

1 TCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ NGÀNH THỦY SẢN1 T. 12

1 T1.1. Tổng quan về ngành thủy sản1 T.12

1 T1.1.1.Một số khái niệm cơ bản về ngành thủy sản1 T.12

1 T1.1.2.Vai trò và vị trí của thủy sản trong nền kinh tế quốc dân1 T.15

1 T1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thủy sản Việt Nam1 T.19

1 T1.2.1. Các điều kiện tự nhiên1 T .19

1 T1.2.2. Các điều kiện KT – XH1 T.22

1 T1.3. Tình hình phát triển ngành thủy sản1 T .25

1 T1.3.1. Tình hình phát triển ngành thủy sản trên thế giới. 1 T .25

1 T1.3.2.Tình hình phát triển ngành thủy sản Việt Nam1 T .29

1 TCHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÁNH BẮT, NUÔI TRỒNG VÀ CHẾ BIẾN

THỦY SẢN TỈNH BÌNH THUẬN.1 T. 38

1 T2.1. Khái quát chung về Bình Thuận1 T .38

1 T2.1.1. Vị trí địa lý và giới hạn lãnh thổ1 T.38

1 T2.1.2. Các điều kiện tự nhiên1 T .39

1 T2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội1 T.42

pdf116 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 2040 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy sản tỉnh Bình Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, đặc biệt là vào các tháng như tháng 3, tháng 4, tháng 5, nửa đầu tháng 6. Vào những tháng này, tình hình thời tiết thuận lợi hơn cho việc ra khơi khai thác thủy sản vì gió mùa đông bắc thời điểm này đã giảm dần nên tác động không đáng kể, thời gian bám biển của các loại nghề dài ngày hơn. Ngư dân bắt đầu bước vào vụ chính cá nam với các loại cá nổi như cá nục, cá ngừ, cá ngân Mặc khác, do các dòng hải lưu lạnh từ phía bắc hoạt động yếu dần và các dòng chảy hải lưu nóng từ hướng nam được tăng cường nên nguồn lợi hải sản ở ngư trường của tỉnh xuất hiện dày hơn. Các đàn cá nổi và cá đáy tập trung thành đàn lớn nên thuận lợi cho hoạt động đánh bắt nghề vây rút chì, nghề mành và nghề lưới rê. Vào tháng 8, tháng 9, điều kiện thời tiết ít thay đổi, tác động của gió mùa tây nam, mưa có phần nhiều hơn cộng với điều kiện địa lý của tỉnh nên nguồn lợi thủy sản ở ngư trường của tỉnh áp lộng khá lớn. Các đàn cá nổi lớn đã bắt đầu xuất hiện với mật độ cao thuận lợi cho hoạt động đánh bắt hải sản. Vào tháng 10, tháng 11, tháng 12, có sự tác động mạnh của gió mùa đông bắc, cấp gió giật mạnh, biển động và hướng gió có sự thay đổi do ảnh hưởng của các khối không khí lạnh từ phía bắc tràn xuống. Mặt khác do ảnh hưởng dòng chảy phức tạp và điều kiện địa lý nên nguồn lợi thủy sản ở các ngư trường của tỉnh đang có chiều hướng di cư trú đông. Các đàn cá nổi lớn đã bắt đầu di chuyển đến vùng nước sâu, thuận lợi cho hoạt động đánh bắt hải sản xa bờ. 2.2.2. Khó khăn về tự nhiên Bên cạnh những thuận lợi, điều kiện tự nhiên mà đặc biệt là khí hậu cũng gây không ít khó khăn cho ngành thủy sản. Vào tháng 1, tháng 2, tháng 3 không khí lạnh kết hợp gió mùa đông bắc có xu hướng tràn xuống phía nam, gây biển động nhẹ đến động mạnh, cấp gió giật mạnh có thể lên cấp 8, cấp 9, hướng gió có sự thay đổi do ảnh hưởng của các khối không khí lạnh di chuyển từ phía bắc tràn xuống. Trong khoảng thời gian này, các đàn cá nổi lớn đã bắt đầu di chuyển đến vùng nước sâu cộng với những khó khăn về thời tiết, khí hậu nên không thuận lợi cho hoạt động đánh bắt thủy sản. Thêm vào đó, từ giữa tháng 6 về cuối, tháng 7 những cơn mưa dông đầu mùa xuất hiện thường xuyên hơn và ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới nên có gió giật và biển động mạnh hơn không thuận lợi cho việc ra khơi đánh bắt. Ngoài gây ra những khó khăn cho việc đánh bắt, điều kiện tự nhiên còn ảnh hưởng đến lĩnh vực nuôi trồng của người dân như gây ra các dịch bệnh, lại có những thiên tai gây thiệt hại nặng nề cho người nuôi trồng thủy sản. 2.2.3. Thuận lợi về kinh tế - xã hội 2.2.3.1. Dân cư và lao động Hiện nay Bình Thuận có các cụm cư dân tạo nên 4 vùng kinh tế - xã hội miền biển, được coi là các vùng kinh tế động lực của tỉnh. Đó là Tuy Phong, Phan Thiết, Hàm Tân và Phú Quý. Chủ yếu sẽ phát triển theo hướng tổng hợp cả đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản cùng đóng sửa tàu thuyền, buôn bán và dịch vụ nghề cá. Phan Thiết, thủ phủ của tỉnh Bình Thuận là trung tâm kinh tế - văn hóa - xã hội đồng thời cũng là trung tâm nghề cá của tỉnh. Với 3 khu vực chính là Mũi Né, Phú Hải và Cồn Chà. Khai thác, chế biến và đóng tàu thuyền là những lĩnh vực chủ yếu của ngành Thuỷ sản nơi đây. Trong năm 2002, lượng tàu thuyền cập, xuất cảng 10.852 lượt, bằng 117% so với năm trước. Lượng hải sản thông qua cảng là 40.940 tấn. Cảng Phan Thiết khánh thành và đưa toàn bộ công trình vào sử dụng đã góp phần rất lớn đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản không chỉ của riêng thành phố mà của cả ngành Thuỷ sản toàn tỉnh. Bên cạnh việc duy trì và phát triển khâu đánh bắt, nuôi trồng thì chế biến là một khâu được chú trọng đầu tư nhất. Dự kiến năng lực chế biến từ nay đến năm 2010: năng lực cấp đông 100 tấn/ ngày, hệ thống kho lạnh 2000 tấn, sản phẩm đông lạnh xuất khẩu 9000 tấn/ năm, hàng khô 3000 tấn. Chủ yếu tập trung chế biến hải đặc sản xuất khẩu. Nâng cấp đồng bộ và hiện đại hóa các cơ sở chế biến, khuyến khích đầu tư những dây chuyền hiện đại nhằm nâng cao năng lực chế biến tạo đà xuất khẩu những sản phẩm chất lượng ngày một cao là mục tiêu trong những năm tới. Bên cạnh Phan Thiết, trung tâm phát triển thì đảo Phú Quý cũng được chú trọng. Bởi vị trí thuận lợi và ý nghĩa an ninh quốc phòng. Toàn bộ huyện đảo có diện tích tự nhiên 17000 ha. Thế mạnh của đảo là phát triển ra biển, trước hết là dọc bờ biển quanh đảo, chủ yếu được sử dụng để nuôi cá lồng. Trong những năm tiếp theo sẽ khoanh nuôi một số vùng biển, rạng đá để nuôi tôm hùm, cá mú... tạo nên sản phẩm hải đặc sản phục vụ xuất khẩu. Ngành Thủy sản dự kiến đến năm 2010 sản lượng đánh bắt chiếm 7,0% sản lượng khai thác của toàn tỉnh với năng lực đánh bắt là 320 chiếc/17.400 CV. Tập trung đầu tư phát triển cơ sở chế biến xuất khẩu tại đảo với hệ thống kho lạnh, nhà máy nước đá. Vùng kinh tế xã hội miền biển chủ đạo thứ ba là Tuy Phong. Thế mạnh nơi đây là nuôi tôm tập trung tại các vùng Vĩnh Hảo, Bình Thạnh, Chí công, Liên Hương...Dự kiến đến năm 2005 diện tích nuôi tôm thâm canh và công nghiệp tại các vùng này là 1.300 ha, đến năm 2010 sẽ là 2.745 ha. Ngoài ra còn phát triển hệ thống trạm trại sản xuất tôm giống dọc bờ biển Vĩnh Hảo, Bình Thạnh, hải đặc sản ở Cù lao câu, nuôi cá nước ngọt ở hồ Đá Bạc trong những năm tới. Cảng Phan Rí tiếp tục được hoàn chỉnh và tiến tới xây dựng bến cá Liên Hương sẽ tạo điều kiện cho việc vận chuyển, giao lưu với các vùng. Hàm Tân, một trong bốn vùng trọng điểm, có xu hướng là trung tâm du lịch, có quan hệ trực tiếp với vùng kinh tế trọng điểm phía nam nên việc chế biến hải sản thường gắn với thực phẩm ăn liền. Dự kiến triển khai xây dựng nhà máy đồ hộp 1000 tấn/năm. Xu hướng từ nay đến năm 2010 Hàm Tân sẽ phát triển tổng hợp cả đánh bắt, nuôi trồng, và chế biến. Một thuận lợi của ngành Thuỷ sản nơi đây là nhân tố lao động. Lao động trong ngành Thủy sản khoảng 71.000 người, chiếm 13,1% tổng số lao động cả tỉnh. Ngư dân có truyền thống lao động, có kinh nghiệm và chịu khó học hỏi. Họ hầu như đảm nhận toàn bộ dịch vụ hậu cần nghề cá. Hiện nay trong lao động chế biến và nuôi trồng thủy sản, ngư dân được sự hỗ trợ của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trong việc áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ mới đã tạo được những hiệu quả nhất định. Dù còn nhiều hạn chế về điều kiện sống, trình độ dân trí thấp, phương thức dịch vụ hậu cần còn phân tán, quy mô nhỏ... nhưng họ vẫn luôn là lực lượng lao động chủ đạo của ngành Thuỷ sản của tỉnh. Người lao động còn phát triển thành hộ thuỷ sản: cùng với sự phát triển nhanh về sản xuất thuỷ sản trong những năm qua, số hộ thuỷ sản cũng tăng khá ở tất cả các vùng. Đến năm 2006 toàn tỉnh có 30.000 hộ thuỷ sản (khu vực thành thị là 17.279 hộ), tăng 1.150 hộ (tăng 20,45%) so với năm 2001, bình quân mỗi năm tăng 0,98%. 2.2.3.2. Kết cấu hạ tầng cho nghề cá Ngành đã tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ các công trình hạ tầng nghề cá thiết yếu phục vụ cho khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản. Thi công kè bảo vệ bờ và nạo vét luồng khi tàu neo đậu tránh bão Phú Hải. Thi công đê ngăn cát giảm sóng, khu tránh bão cửa Liên Hương, nạo vét vũng và luồng, thi công kè bảo bệ bờ khu tránh bão cửa Phan Rí đồng thời khẩn trương triển khai nạo vét cảng cá La Gi. Các cảng cá, khu neo đậu đã đầu tư như cảng cá Phan Thiết, La Gi, Phan Rí Cửa phát huy tác dụng tốt, làm đầu mối dịch vụ hậu cần, tập kết tiêu thụ sản phẩm, tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến tại các vùng trọng điểm. Bình Thuận đã đầu tư các hạng mục của khu nuôi tôm công nghiệp Núi Tàu để đưa vào khai thác. Xây dựng Trạm thực nghiệm và sản xuất giống thủy sản nước ngọt Hàm Thuận Bắc và mở rộng Trạm thực nghiệm và sản xuất giống hải đặc sản Tiến Thành. Đầu tư khu quy hoạch sản xuất tôm giống tập trung ở Gành Rái (Tuy Phong). Tập trung đầu tư hạ tầng khu chế biến phía nam cảng cá Phan thiết, khu quy hoạch chế biến nước mắm Phú Hải để bố trí các cơ sở, doanh nghiệp di dời đến khu quy hoạch. Trong năm 2006, ngư dân các địa phương trong tỉnh đã đầu tư gần 150 tỷ đồng đóng mới và phát triển được 115 chiếc/ 21.952 CV, công suất bình quân tàu đóng mới đạt 190,4 CV/ thuyền. Nâng tổng số tàu cá công suất từ 90 CV trở lên đến cuối năm 2006 là 1.071 chiếc, tăng 168 chiếc so với năm 2005. Năng lực tàu cá trong tỉnh liên tục tăng, tổng số tàu cá (gồm tàu khai thác cá, tàu dịch vụ) năm 2007 là 7.617 chiếc/440.126 CV Năm 2007, ngư dân trong tỉnh đã đầu tư đóng mới phát triển 84 tàu cá/ 12.932 CV, bình quân công suất 154CV/chiếc, trong đó thuyền đóng mới có công suất từ 90CV trở lên là 1.203 chiếc, tăng 12,3% so với năm 2006. Đến cuối năm 2008 có 8.882 chiếc/543.892 CV, tăng 1265 chiếc/ 103.766 CV so với năm 2007. Nguyên nhân tăng là do tàu cá đóng mới phát triển, tàu cá đầu tư cải hoán công suất và phần lớn là do một số tàu cá trước đây không đăng ký đã thực hiện đăng ký trong năm 2008 để được hưởng chính sách hỗ trợ theo Quyết định 289 của Thủ tướng Chính phủ. Công tác đảm bảo an toàn cho người và tàu thuyền hoạt động trên biển được tập trung chỉ đạo, phối hợp tổ chức kiểm tra buộc các chủ tàu phải trang bị đầy đủ máy thông tin liên lạc, các trang thiết bị an toàn trước khi ra biển. Ðể cho tàu cá, tàu dịch vụ hoạt động an toàn, hiệu quả trên biển, nhiều năm qua, ngành thủy sản tỉnh Bình Thuận đã tập trung hướng dẫn, phổ biến cho bà con ngư dân trang bị các thiết bị điện tử hàng hải khá hiện đại. Hiện nay, hầu hết tàu thuyền có công suất từ 20 sức ngựa trở lên đều trang bị máy thông tin vô tuyến với tầm hoạt động từ 30 đến 40 hải lý và có 1.228 tàu cá trang bị máy thông tin liên lạc tầm xa. Các loại máy tầm ngư, định vị được các tàu cá sử dụng khá phổ biến. Nhờ năng lực đánh bắt phát triển cộng với việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học, kỹ thuật vào khai thác, bảo quản sản phẩm ngày càng được quan tâm, nên sản lượng khai thác hải sản ở Bình Thuận tăng đều theo từng năm, chất lượng sản phẩm cũng được nâng lên rõ rệt. 2.2.3.3. Chính sách khuyến ngư Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ V - khoá VII đã xác định xây dựng ngành Thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn. Chủ trương khuyến khích đầu tư thuyền công suất lớn khai thác xa bờ gắn với dịch vụ hậu cần trên tuyến khơi được đẩy mạnh và có tác động tích cực. Triển khai chính sách hỗ trợ ngư dân theo Quyết định 289/TTg và Quyết định 965/TTg của Thủ tướng chính phủ đã tạo điều kiện cho tàu thuyền tham gia hoạt động đều hơn, năng suất khai thác đạt khá. Tỉnh đã tập trung chỉ đạo triển khai phương án thực hiện chỉ thị16/CT – UBND của UBND Tỉnh về tăng cường quản lí tàu cá công suất dưới 30 CV, nhờ vậy mà số lượng tàu cá có công suất nhỏ đã giảm hẳn. Ngành tập trung chỉ đạo mô hình sản suất tổ, đội, phối hợp trong khâu dịch vụ nhằm tăng thời gian bám biển, tiết giảm chi phí nhiên liệu nhất là khai thác tuyến khơi, xa bờ. Phối hợp với lực lượng Biên phòng và chính quyền các địa phương vận động ngư dân thành lập tổ đoàn kết trên biển nhằm hỗ trợ nhau trong khai thác, vận chuyển, cứu hộ, cứu nạn trên biển ... đồng thời, vận động các chủ thuyền có công suất lớn kết hợp vừa đánh bắt hải sản vừa làm tốt công tác nắm tình hình phục vụ cho nhiệm vụ bảo vệ an ninh chủ quyền trên biển đảo. Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản luôn được quan tâm, theo dõi chặt chẽ. Tỉnh thường xuyên thực hiện các cuộc khảo sát để chỉ đạo kịp thời trong công tác quản lí nguồn lợi hải sản trên vùng biển của tỉnh. Tiến hành xử lí vi phạm trong lĩnh vực quản lí tàu cá, đặc biệt các vi phạm có tính chất nghiêm trọng như giã cào hay hoạt động sai tuyến, khai thác hải đặc sản trong thời gian cấm. 2.2.3.4. Khoa học kỹ thuật Việc ứng dụng công nghệ mới trong khai thác, bảo quản sản phẩm trên tàu cá, đặc biệt là nghề chụp mực 4 tăng gông, mành mực cải tiến, bảo quản sản phẩm khai thác bằng hầm cách nhiệt Polyurethan đạt kết quả, đang được nhân rộng tại các địa phương trong tỉnh. Ứng dụng phương pháp đánh bắt mới Tời trích thủy lực trong khâu thu lưới vây rút chì, trang bị công nghệ sơ chế bảo quản sản phẩm hải sản ngay trên biển... Các cơ sở chế biến thủy sản đã từng bước đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cấp dây chuyền sản xuất nhằm cải tiến chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu cho người tiêu dung. Hiện tại, năng lực cấp đông đạt 120 tấn/ngày khoảng 30.000 tấn/năm, chế biến hàng khô đạt 7000 tấn/ngày, sức chứa kho lạnh bảo quản sản phầm đạt 8000 tấn. 2.2.4. Khó khăn về kinh tế - xã hội Tuy có nhiều cố gắng tập trung đôn đốc, chỉ đạo nhưng nhìn chung tiến độ thực hiện các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nghề cá còn chậm, nhiều công trình quan trọng còn thi công kéo dài, công tác chuẩn bị đầu tư chưa kịp thời. Mặc dù đã tiến hành theo dõi cũng như xử lí mạnh các trường hợp vi phạm đến công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản nhưng từng lúc từng nơi vẫn còn diễn biến phức tạp, đặc biệt là tình trạng chống người thi hành công vụ. Cũng do thiếu vốn, nên các khu tránh bão cho tàu cá ở Bình Thuận chỉ mới đầu tư xây dựng các hạng mục chính, như đê, kè, nạo vét luồng lạch. Các công trình trên bến phục vụ cho công tác quản lý, thông tin liên lạc, ứng phó cứu nạn, dịch vụ hậu cần... đúng theo tiêu chí của một khu tránh bão, hầu như chưa có, làm hạn chế hiệu quả các công trình này. Riêng khu neo đậu ở thị xã La Gi, dù đã hoàn thành cả hai giai đoạn từ năm 2006, nhưng hiện nay vẫn còn thiếu các trụ neo đậu cho các tàu cá công suất lớn Mặc dù, sản lượng đánh bắt và nuôi trồng khá lớn nhưng các doanh nghiệp mới chỉ đưa vào sử dụng khoảng 53% nguồn nguyên liệu, còn lại do các đơn vị ngoài tỉnh đến thu mua. Các doanh nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ chế biến. Gần đây, sản lượng khai thác ven bờ có xu thế tăng và một số nghề đánh bắt mang tính chất hủy diệt nguồn lợi thủy sản vẫn tồn tại. Số lượng tàu thuyền, sản lượng khai thác vượt quá khả năng của nguồn lợi thủy sản. Phạm vi hoạt động của dịch vụ khai thác dầu khí được mở rộng và ngành du lịch ven biển phát triển mạnh làm thu hẹp ngư trường đánh bắt, diện tích nuôi trồng thủy sản của ngư dân. Nguồn lợi thủy sản ven bờ vẫn chịu áp lực lớn do số lượng tàu thuyền khai thác ven bờ không giảm, tình hình giã cào sai tuyến vẫn còn diễn ra. việc thực hiện sắp xếp, chuyển đổi hợp lý cơ cấu thuyền nghề ven bờ trong thực tế đang gặp nhiều khó khăn do liên quan trực tiếp đến việc giải quyết các vấn đề bức xúc về đời sống của ngư dân; giá vật tư, nguyên, nhiên liệu tăng cao đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất của ngư dân. 2.3. Tình hình nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2005 – 2008. 2.3.1. Những thành tựu và hạn chế của ngành thủy sản Bình Thuận. 2.3.1.1. Thành tựu Mặc dù gặp nhiều khó khăn tác động, song do nắm vững và tổ chức thực hiện khá tốt quan điểm chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND Tỉnh và Sở Thủy sản nên kinh tế thủy sản tiếp tục phát triển ổn định. Các chỉ tiêu cơ bản về sản lượng khai thác hải sản, giá trị kim ngạch xuất khẩu, sản xuất nước mắm, sản xuất tôm giống thực hiện đạt và vượt kế hoạch đề ra. Các công trình hạ tầng nghề cá thiết yếu tiếp tục được quan tâm đầu tư. Nuôi trồng thủy sản tuy đạt thấp hơn so với kế hoạch nhưng cũng bắt đầu xuất hiện các loại hình nuôi mới. Bảng 2.1. Sản lượng thuỷ sản tỉnh Bình Thuận từ năm 2005 - 2009 Đơn vị: Tấn Năm Tổng số Chia ra Khai thác Nuôi trồng 2005 153.154 148.941 4.213 2006 157.334 152.079 5.255 2007 170.739 164.270 6.469 2008 174.841 167.451 7.390 2009 182.367 169.421 12.946 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bình Thuận năm 2009 Từ năm 2005 – 2009, sản lượng thủy sản Bình Thuận tăng liên tục từ 153.154 tấn năm 2005 lên đến 182.367 tấn năm 2009. Trong 6 tháng 2011, sản lượng khai thác là 69.205 tấn hải sản các loại, đạt 40,7% kế hoạch năm. Biểu đồ 2.1. Sản lượng thủy sản Bình Thuận giai đoạn 2005 - 2009 Hình 2.2. Bản đồ sản lượng thủy sản Bình thuận phân theo địa phương năm 2008 153154 157334 170739 174841 182367 148941 152079 164270 167451 169421 4213 5255 6469 7390 12946 0 20000 40000 60000 80000 100000 120000 140000 160000 180000 200000 2005 2006 2007 2008 2009 Tổng số Khai thác Nuôi trồng Triệu tấn Năm 50533 54655 40486 658 400 1593 755 1334 1625 467 582 1082 1800 18.19 TUY PHONG BẮC BÌNH HÀM THUẬN BẮC HÀM THUẬN NAM HÀM TÂN TP. PHAN THIẾT TX LA GI ĐỨC LINH TÁNH LINH PHÚ QUÝ SẢN LƯỢNG THỦY SẢN (TẤN) CHÚ GIẢI 148941 152079 164270 167451 169421 4213 5255 6469 7390 12946 0 20000 40000 60000 80000 100000 120000 140000 160000 180000 2005 2006 2007 2008 2009 Tấn Năm 153154 157334 170739 SẢN LƯỢNG THỦY SẢN BÌNH THUẬN 174841182367 Nhìn chung, các địa phương có sản lượng thủy sản không đồng đều, cả về sản lượng khai thác và nuôi trồng. Thành phố Phan Thiết, thị xã La Gi, huyện Tuy Phong và huyện đảo Phú Quý là những địa phương có sản lượng cao trong cả tỉnh. Cả hai lĩnh vực khai thác và nuôi trồng đều tăng sản lượng, nhưng sản lượng thủy sản nuôi trồng có mức tăng nhanh hơn, điều này cũng phù hợp với xu thế phát triển thủy sản theo hướng bền vững hiện nay. Trong những năm qua, tốc độ phát triển của ngành khai thác thủy sản Bình Thuận tăng trưởng hàng năm là 11,3% trên các mặt chủ yếu: Khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản. Bảng 2.2. Giá trị sản xuất thuỷ sản theo giá thực tế phân theo ngành hoạt động tỉnh Bình Thuận Đơn vị: Triệu đồng Năm Tổng số Trong đó Khai thác Nuôi trồng 2005 1.427.345 1.111.976 246.694 2006 1.668.923 1.362.166 202.182 2007 2.336.753 1.861.010 335.059 2008 2.632.801 2.067.808 349.267 2009 3.564.183 2.727.367 550.213 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bình Thuận năm 2009 Giai đoạn 2005 – 2009 giá trị sản xuất của cả ngành khai thác và nuôi trồng đều tăng liên tục nhưng ngành khai thác luôn chiếm giá trị cao hơn so với nuôi trồng. Vể giá trị thực tế năm 2005, khai thác đạt 1.111.976 triệu đồng, ngành nuôi trồng đạt giá trị khiêm tốn hơn chỉ 246.694 triệu đồng. Năm 2009, khai thác đạt 2.727.367 triệu đồng thì ngành nuôi trồng đạt 550.213 triệu đồng. Hiện nay, ngành Thủy sản Bình Thuận đã có sự phát triển đúng đắn, vừa phát huy lợi thế về nguồn lợi thủy sản giàu có từ vùng biển vừa phát triển mạnh lĩnh vực nuôi trồng nhằm bảo vệ nguồn lợi tự nhiên. Biểu đồ 2.2. Cơ cấu giá trị sản xuất thủy sản tỉnh Bình Thuận % Điều này thể hiện rõ ở xu hướng chuyển dịch trong cơ cấu giá trị sản xuất của ngành Thủy sản Bình Thuận. Từ năm 2005 – 2009, khai thác chiếm tỉ trọng giá trị sản xuất lớn nhất nhưng đang có xu hướng giảm dần. Nếu như năm 2006, tỉ trọng giá trị sản xuất của ngành khai thác là 81.62% còn ngành nuôi trồng là 12.11% thì đến năm 2009 tỉ trọng của khai thác chỉ còn 76.52%, trong khi đó tỉ trọng của ngành nuôi trồng tăng lên 15.44%. Sự tập trung chỉ đạo có trọng điểm phát triển chế biến và tiêu thụ sản phẩm có lợi thế đạt kết quả tích cực. Phần lớn doanh nghiệp chế biến bước đầu đã có chuyển biến trong nhận thức kinh doanh xuất khẩu, giữ vững thị trường truyền thống, tích cực tìm kiếm và mở rộng thị trường. Đồng thời đa dạng hóa nâng cao chất lượng sản phẩm nên sản lượng chế biến và kim ngạch xuất khẩu đều tăng cao góp phần cùng toàn ngành thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản được triển khai thực hiện tốt, đã tập trung làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong nhân dân, kết hợp với việc tổ chức kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ trên biển. Bên cạnh đó, công tác quản lý thuốc thú y thủy sản, vệ sinh an toàn thực phẩm, giống và thức ăn cho 77,91 81,62 79,64 78,54 76,52 17,28 12,11 14,34 13,27 15,44 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% 2005 2006 2007 2008 2009 Nuôi trồng Khai thác nuôi trồng thủy sản đã được tổ chức triển khai, tuyên truyền một cách sâu rộng, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và người sản xuất kinh doanh thủy sản. Công tác khuyến ngư có nhiều cố gắng trong việc ứng dụng, chuyển giao khoa học - kĩ thuật phục vụ sản xuất, có tác động tích cực chuyển đổi nghề khai thác các loại hải sản có giá trị, nâng cao trình độ kĩ năng bảo quản sản phẩm sau khai thác, đưa thêm đối tượng nuôi nước ngọt mới tại các địa phương có điều kiện. Để cho tàu cá, tàu dịch vụ hoạt động an toàn, hiệu quả trên biển, nhiều năm qua, ngành thuỷ sản tỉnh Bình Thuận đã tập trung hướng dẫn, phổ biến cho bà con ngư dân trang bị các thiết bị điện tử hàng hải khá hiện đại. Hiện nay, hầu hết tàu thuyền có công suất từ 20 CV trở lên đều trang bị máy thông tin vô tuyến với tầm hoạt động từ 30 đến 40 hải lý và có 1.228 tàu cá trang bị máy thông tin liên lạc tầm xa. Các loại máy tầm ngư, định vị được các tàu cá sử dụng khá phổ biến. Số lượng tàu đánh cá và năng lực đánh bắt phát triển, hiện nay đã trên 8.700 tàu thuyền các loại cộng với việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học, kỹ thuật vào khai thác, bảo quản 5Tsản phẩm5T ngày càng được 5Tquan tâm5T, nên sản lượng khai thác hải sản ở Bình Thuận tăng đều theo từng năm, chất lượng sản phẩm cũng được nâng lên rõ rệt. Có đội tàu dịch vụ trên biển cũng phát triển mạnh vì khi có nhiều tàu cá công suất lớn vươn ra khơi xa, bám biển đánh bắt dài ngày và yêu cầu về chất lượng nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu ngày càng khắt khe. Hoạt động này ở Bình Thuận được manh nha từ đầu những năm 90 đến nay, đã có khoảng 74 chiếc như là những "chợ nổi" hoạt động lưu động trên vùng biển Bình Thuận và các tỉnh lân cận. Trong số này, có đến 51 chiếc có công suất từ 400 sức ngựa trở lên, được trang bị hệ thống cấp đông khá hiện đại. Các tàu dịch vụ cung ứng lương thực, nhu yếu phẩm, nhiên liệu cho các tàu cá và thu mua lại sản phẩm ngay ngoài khơi, giúp bà con ngư dân giảm đáng kể chi phí di chuyển vào bờ, tăng thêm thời gian bám biển, đồng thời bảo đảm tốt chất lượng đầu vào cho ngành công nghiệp chế biến. Các cảng cá, khu neo đậu đã đầu tư như cảng cá Phan Thiết, La Gi, Phan Rí Cửa phát huy tác dụng tốt, làm đầu mối dịch vụ hậu cần, tập kết tiêu thụ sản phẩm, tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến tại các vùng trọng điểm. Năm 2010 đã tổ chức lễ khởi công Cụm công nghiệp chế biến hải sản có mùi Tân Bình có tổng kinh phí gần 70 tỷ đồng với quy mô ban đầu 50 ha. Lực lượng lao động trong ngành thủy sản ngày càng tăng lên và chất lượng người lao động được nâng cao, đã biết áp dụng những tiến bộ của khoa học và công nghệ trong hoạt động của ngành, tạo ra những hiệu quả nhất định. Quan tâm chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ có tính chiến lược dài hạn làm cơ sở định hướng phát triển Ngành theo hướng bền vững. Chương trình hợp tác phát triển lĩnh vực thủy sản với thành phố Hồ Chí Minh thông đạt kết quả bước đầu. Hiện nay, Bình Thuận đã có các cụm cư dân tạo nên 4 vùng kinh tế - xã hội miền biển, được coi là các vùng kinh tế động lực của tỉnh. Đó là Tuy Phong, Phan Thiết, Hàm Tân và Phú Quý. Chủ yếu sẽ phát triển theo hướng tổng hợp cả đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản cùng đóng sửa tàu thuyền, buôn bán và dịch vụ nghề cá. Đã hình thành được nhiều "Tổ đoàn kết" khai thác thuỷ sản trên biển ở Bình Thuận nhằm hỗ trợ nhau trong khai thác, vận chuyển, cứu hộ, cứu nạn. Hiện tại, toàn tỉnh đã hình thành 512 "Tổ đoàn kết" với 3.429 tàu, thuyền và 21.781 lao động tham gia. Không chỉ giúp đỡ nhau khi gặp hoạn nạn trên biển, chia sẻ thông tin những nơi nhiều cá, mực, các " Tổ đoàn kết" còn góp phần bảo đảm trật tự, trị an trên biển và bảo vệ chủ quyền lãnh hải của quốc gia. Việc Việt Nam gia nhập WTO đã mang lại cơ hội cho sản phẩm thủy sản Bình Thuận trong việc 1Tthâm nhập thị trường thế giới1T, do các nước biết đến Việt Nam nhiều hơn, doanh nhân các nước sẽ quan tâm hơn đến xuất nhập khẩu thủy sản của Việt Nam, trong đó có Bình Thuận. Với sự ưu đãi hơn về thuế quan, xuất xứ hàng hoá, hàng rào phi thuế quan và những lợi ích về đối xử công bằng, bình đẳng sẽ tạo điều kiện để hàng thủy sản Bình Thuận có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đã thiết lập được quan hệ thương mại với hơn 30 nước như Nhật Bản, Bắc Mỹ, Tây Âu, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Australia... Những thị trường xuất khẩu thuỷ sản chính của Bình Thuận đang trên đà phục hồi. Thuỷ sản Bình Thuận vừa qua đã được một số nước công nhận, đánh giá cao về chất lượng đáp ứng các quy định về an toàn thực phẩm của EU. Những mặt hàng thực phẩm làm từ thủy sản ngon, có giá trị dinh dưỡng cao, rất dễ tăng được lượng tiêu thụ khi thu nhập dân cư ở các thị trường này tăng lên. 2.3.1.2. Hạn chế Trước hết mục tiêu phát triển bền vững kinh tế thủy sản đang trong xu hướng diễn ra không theo kịp yêu cầu. Nhìn diễn biến gia tăng năng lực khai thác trong năm vừa qua cho thấy năng suất đánh bắt tiếp tục giảm. Tổng công suất tàu cá tăng thêm 8,5%, nhưng sản lượng chỉ tăng thêm 2,5%. Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản còn nhiều bất cập: tình hình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5898.pdf
Tài liệu liên quan