Luận văn Truyện ngắn nhất linh, khái hưng trong văn xuôi nghệ thuật tự lực văn đoàn

Các nhân vật nữ tân thời trong truyện ngắn Nhất Linh Khái Hưng không phải chỉ là

những người biết làm đẹp, tự ý thức được cái đẹp của mình, giới mình mà còn biết cảm

nhận, thưởng thức vẻ đẹp hình thể và khí chất, tâm hồn của người khác giới. Đọc tiểu thuyết

Trống máicủa Khái Hưng, người đọc hẳn không quên được cô thiếu nữ tân thời tên Hiền say

mê vẻ đẹp vạm vỡ trai tráng của anh dân chài tên Vọi. Thì cũng thế, người đọc cũng khó mà

quên được vẻ đẹp hình thể, khí chất của các nhân vật chính trong các truyện ngắn Linh hồn

thi sĩ, Số đào hoa, của nhà văn này; khó mà quên được vẻ đẹp nam tính, ngang tàng của nhân

vật Thái trong Những ngày diễm ảocủa Nhất Linh.

Như vậy, qua miêu tả vẻ đẹp thể chất của các nhân vật, những người cầm bút như

Nhất Linh, Khái Hưng đã thể hiện ý thức mới về giá trị con người, một trình độ mới về cảm

nhận con người. Đó cũng chính là điểm làm nên sức hấp dẫn, trẻ trung và quyến rũ cho

những tác phẩm của họ. Tuy nhiên, vẻ đẹp thể chất của các nhân vật trong tác phẩm của

Nhất Linh, Khái Hưng phần nhiều được tả theo tưởng tượng hơn là quan sát thực tế nên

thường có sự lặp lại và vì thế mà sự cá tính hóa trong việc miêu tả chân dung, ngoại hình ở

tác phẩm hai nhà văn chưa đạt đến tầm của văn học hiện thực chủ nghĩa.

pdf125 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3875 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Truyện ngắn nhất linh, khái hưng trong văn xuôi nghệ thuật tự lực văn đoàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nhiều niềm vui sống ở đời. 2.2.3. Hình ảnh quê hương đất nước, cảnh quan thiên nhiên, sinh hoạt và những vẻ đẹp khuất lấp Cũng như trong Thơ Mới và phần lớn các tác phẩm thuộc bộ phận văn học công khai thời bấy giờ, ý thức dân tộc, tình cảm quê hương đất nước trong truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng thường bộc lộ một cách gián tiếp, thầm kín. Những tình cảm ấy ít nhiều tìm thấy trong các tác phẩm của TLVĐ nói chung, trong truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng. Đặc biệt tập trung là trong các tác phẩm viết về các nhân vật lịch sử như Linh hồn thi sĩ, Hoàng Oanh của Khái Hưng, hoặc ít nhiều mang màu sắc lịch sử như Vết thương, Hai buổi chiều vàng của Nhất Linh. Cùng với đề tài người bình dân, một số truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng như Người quay tơ (Nhất Linh), Biển (Khái Hưng), Trăng thu (Khái Hưng), Tương tri (Khái Hưng), Dọc đường gió bụi (Khái Hưng)… còn đề cao giá trị văn hóa của dân tộc. Truyện Trăng thu dẫn người đọc đến một đêm hát trống quân trên thuyền ở trên dòng sông Tô. Điệu hát trống quân mượt mà, êm ái không chỉ khiến con người xích lại gần nhau, trao gửi cho nhau những tình cảm đẹp đẽ, mà còn làm cho con người “cảm thấy mình sống trong một thế giới lạ lùng, một thế giới khác hẳn với cái thế giới bùn lầy nước đọng, làm ăn vất vả mọi ngày thường” (Khái Hưng, Trăng thu) [59, tr.432]. Tiếng hát trống quân ấy đã khiến anh Nhiêu biết mở lòng ra, trở thành một người chồng độ lượng, biết tôn trọng niềm say mê của vợ, cũng như những làn điệu chèo duyên dáng thiết tha đã níu giữ cô đào Mơ tài sắc lẫy lừng (Khái Hưng, Dọc đường gió bụi). Ở truyện ngắn Tương tri (Khái Hưng), sự trân trọng những giá trị văn hóa tốt đẹp lại được thể hiện ở tấm lòng ngưỡng mộ tài năng, nhân cách của một ông lão đánh cờ. Với Chùa Hương, tình yêu đất nước quê hương gắn liền với sự gìn giữ cảnh vật thiên nhiên, với những truyền thuyết đầy màu sắc huyền thoại Liêu Trai. Hơn thế nữa, hình ảnh quê hương đất nước, cảnh quan thiên nhiên, sinh hoạt và những vẻ đẹp khuất lấp còn có thể xem như một nội dung tự sự trong truyện ngắn của hai ông. Đây là một nội dung đặc sắc và khá phong phú trong truyện ngắn của hai tác giả, đã đưa lại cho người đọc nhiều hình ảnh về thiên nhiên diễm ảo, sinh hoạt giàu chất thơ. Tác phẩm của họ đã khéo phô diễn những vẻ đẹp của thiên nhiên miền trung du Bắc Việt, góp phần làm nên linh hồn câu chuyện, chứ không phải theo công thức phong vân tuyết nguyệt đầy ước lệ của phần lớn thơ văn cũ. Lê Đình Kỵ đánh giá cao văn xuôi lãng mạn vì “chính bắt đầu với văn xuôi lãng mạn thì tình cảm thiên nhiên mới trở thành cảm hứng sáng tác, chân thực và đậm sắc thái cảm xúc” [88, tr.88]. Viết về Chùa Hương (Chùa Hương), một thắng cảnh của đất nước, Khái Hưng đã bắt đầu bằng những dòng đầy xúc cảm xen lẫn hoài niệm như sau: “đối với tôi, chùa Hương sẽ mãi mãi là một cảnh bồng lai huyền ảo, mịt mùng trong tưởng tượng dễ dàng của tuổi thơ, và âm thầm trong đêm trăng, trên sông Đáy, lẫn với kỷ niệm tươi đẹp của thời xấp xỉ hai mươi.” (Khái Hưng, Chùa Hương) [59, tr.218]. Và rồi nhà văn dẫn dắt người đọc đến những cảnh sắc đầy thơ mộng, nhuốm màu huyền thoại như trong truyện Liêu trai của cảnh chùa Hương, sông Đáy, bến Đục như sau: “Trăng, nước và âm nhạc, nhan nhản tả trong thơ Tàu, không bao giờ tôi cảm thấy có liên lạc nhịp nhàng với nhau bằng cái đêm trăng trên sông Đáy. Anh Đạt, một tài tử, thổi chiếc ống tiêu mà anh đã mang theo. Đêm khuya, trăng ngả về tây, lượn chung quanh thuyền trên con sông khúc khuỷu, khi ở đằng mũi, khi ở đằng lái, khi sang bên tả, khi sang bên hữu, như múa khúc nghê thường theo điệu tiếng trúc véo von, giải lụa vàng thướt tha bay trong sương, dịu dàng lướt trên mặt nước. Tiếng bổng cất cao tận đỉnh trời xanh. Tiếng trầm rơi trên làn sóng tan trong nhịp chèo. Âm nhạc ngừng, tiếng ngân như còn kéo dài trong yên lặng của ban đêm, lưu luyến với luồng ngấn trắng chuyển động chạy sau thuyền. (…) Bến Đục! Từ đó vào tới chùa ngoài, cái suối nước phẳng lặng đưa chiếc tam bản mỏng mảnh của chúng tôi, cùng với hàng chục chiếc tam bản đầy chật khách lễ chùa, lượn quanh những quả núi nhỏ và xinh như những hòn non bộ bày trong bể cạn.” (Khái Hưng, Chùa Hương) [59, tr.220-221]. Viết về Bến Hòn Gai, Khái Hưng đã có những câu văn đầy những so sánh độc đáo: “Bến Hòn Gai chìm dần trong đêm tối. Phía trước mặt, những cù lao đủ hình quái dị cắt lên nền trời đông sắc xám. Những con vật khổng lồ ấy, những con gấu, sư tử, phượng hoàng, cá sấu ấy như vừa từ dưới nước nhô lên và nhe nanh, quắp mỏ, hùng hổ bơi sấn vào bến mà nuốt chửng đàn thuyền gỗ nhỏ nối nhau nằm chúc đầu vào bờ, xòe ta như cái đuôi công xòe múa.” (Khái Hưng, Bến Hòn Gai) [59, tr.199]. Hay là cảnh thung lũng Ý Lìn Hồ kỳ vĩ như “một bức tranh Tàu nét vẽ già dặn, hình sắc nhịp nhàng” của Khái Hưng: “Thung lũng Ý Lìn Hồ, chiều chiều ngồi chơi trên hòn Núi Đen hay dạo mát trên những con đường cao, tôi thường đứng lại ngắm. Nó ở sâu hoắm, sát ven sườn Phan – xi – păng. Hai bên dòng nước trắng long lanh khuất hiện trong những khóm mai, rải rác những túp nhà tranh nhỏ xíu, trông như những đồ chơi bằng sành mà người ta gắn vào cái non bộ nhẵn nhụi, xinh xẻo. Có khi trong một vùng u ám dưới sương, mây mù che phủ, thung lũng Ý Lìn Hồ tựa như một cảnh thần tiên hiện ra, rực rỡ ánh nắng vàng, hiện ra mấy phút rồi lại lẩn vào trong sương mờ, mây trắng từ ngọn núi chìm dần xuống. (…) Cảnh Ý Lìn Hồ hùng vĩ và đẹp lạ. Cái lạch nước êm lặng mà tôi thấy khi ngồi ngắm từ đỉnh đồi cao, kỳ thực là một con sông, nước réo ầm ầm, dữ dội như tiếng thủy triều đương dâng. Đứng trên cầu mây, tôi chóng mặt, rợn người nhìn bọt sóng sùng sục sôi lên quanh những tảng đá đen lớn.” (Khái Hưng, Tiếng khèn) [59, tr.266-267] Đây là cảnh đêm trăng thu đẹp một cách kỳ ảo, lạ lùng, khi “… ánh trăng thu như có phép huyền bí, màu nhiệm làm cho vụt trở nên một cảnh khác hẳn, một cảnh dịu dàng, đầy thơ và đầy mộng. (…) Hình như ai nấy cùng cảm động để trí bình tĩnh mơ màng theo con thuyền êm lặng lướt trên mặt nước sông bằng phẳng, lờ mờ phản chiếu bóng cây đa xù xì, cây gạo cao vút, cây xoan mảnh khảnh, những khóm tre rậm rạp hay xơ xác, ngả nghiêng và những lò gạch vắt ngang một làn khói trắng đặc, hoặc đổ nát, bỏ hoang bên những túp lều tre tường xiêu, mái sụp. (…) Và tôi thoáng cảm thấy trong giây phút, rằng nếu mặt trời là của sự hùng tráng, của sự rực rỡ, của các màu xán lạn, huy hoàng, của trăm tiếng chim đua hót, của trăm thức hoa đua nở khoe tươi, của trăm sự hành động, cạnh tranh, chiến đấu rộn ràng, thì trái lại, mặt trăng chỉ riêng của một sự yên lặng.” (Khái Hưng, Trăng thu) [59, tr.423-424] Và đây là cảnh Từ Lâm: “xa xa toàn là núi, ngọn nọ ngọn kia không dứt, sắc núi màu lam, buổi sáng buổi chiều mây bay sương phủ. Từ Lâm là một cái làng nhỏ ở chân đồi, vẻ đặc sắc nhất là tĩnh, có con sông con , sắc nước trong xanh chảy từ từ trong lòng cát trắng (…) , Tuy không phải là nơi danh thắng, non không cao, nước không sâu, nhưng có vẻ điều độ, ân ái, dễ xiêu người.” (Nhất Linh, Giấc mộng Từ Lâm) [39, tr.30-31]. Rõ ràng, Khái Hưng là một nhà văn của Cái Đẹp, chắt chiu cái đẹp của thiên nhiên, của con người; văn chương của ông thực sự đã bảo tồn cái đẹp có giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc. Nhất Linh, nhà văn nặng tình với dân tộc, cũng thật dồi dào với những trang văn tả cảnh thiên nhiên miền Bắc Bộ đẹp như những bài thơ. “Trời đông mưa phùn lấm tấm. Bên kia dãy nhà lá núp dưới chân đê Yên Phụ, nóc không cao quá mặt đường, nước Hồ Tây mù mịt, bát ngát, mênh mông, như một cửa biển chìm đắm trong cảnh sương mù buổi sáng. Đứng nhìn xuống, con đường lát gạch lờ mờ quanh co tựa con rắn nâu dài quặn mình lượn khúc ở giữa hai làn nước xám.” (Nhất Linh, Dưới bóng hoa đào) [39, tr.105]. 2.2.4. Những băn khoăn về cảnh ngộ, nhân cách của giới bình dân và âm hưởng phân tích xã hội, phê phán hiện thực Đề tài người bình dân là một mảng đề tài lớn trong truyện ngắn Khái Hưng. Các truyện ngắn viết về đề tài này, phần lớn ra đời trong khoảng thời gian từ 1939 – 1940, là thời kỳ cao trào đấu tranh Mặt trận dân chủ diễn ra sôi nổi. Giai đoạn này, vấn đề người bình dân, người lao động được nhiều nhà văn chú ý. Nếu như văn học hiện thực phê phán đã xây dựng được chân dung “người lao động, người nhà quê” điển hình như anh Pha (Bước đường cùng – Nguyễn Công Hoan), chị Dậu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố)… thì trên báo Ngày Nay của các nhà văn Tự Lực văn đoàn cũng mở mục “Bùn lầy nước đọng”. Chuyên mục này đăng một số phóng sự điều tra về nông thôn, sau đó đăng một số truyện ngắn về nông thôn và người nông dân: Con trâu, Sau lũy tre, Những ngày thơ ấu. Các cây bút chủ lực của Tự Lực văn đoàn chuyển từ lãng mạn sang hiện thực. Khái Hưng viết một loạt truyện: Anh phải sống, Người vợ mù, Cái ve, Dọc đường gió bụi, Đào mơ, Cô hàng nước, Dưới ánh trăng, Biến đổi... đề cập đến số phận của những người dân nghèo “chân lấm tay bùn”, quanh năm đầu tắt mặt tối. Đó là số phận gia đình nhà anh phó nề Thức (Khái Hưng, Anh phải sống), sống trong “gian nhà lụp xụp, ẩm thấp, tối tăm” (Khái Hưng, Anh phải sống) [59, tr.105] trên đê Yên Phụ và trên chiếc “phản gỗ không chiếu” (Khái Hưng, Anh phải sống) [59, tr.105] là ba đứa con nhỏ đang khóc lóc gọi mẹ vì đói. Thằng Bò khát sữa kêu gào đòi bú. Nguồn sống chính của gia đình là ngày ngày ra giữa dòng sông vớt củi đem bán nên hai vợ chồng anh Thức và chị Lạc trông mong ngày có nước to, củi tràn về nhiều. Tình thế khó khăn, cái nghèo cái đói của gia đình, đã khiến họ quên mình, phó mặc số phận cho dòng nước. Giữa lúc “gió vẫn to, vù vù, gầm hét dữ dội và nước vẫn mạnh, réo ầm ầm chảy nhanh như thác. (…) Da trời một màu đen sẫm” (Khái Hưng, Anh phải sống) [59, tr.107], hai vợ chồng vẫn phải lao ra giữa dòng nước chảy xiết để vớt củi. Con thuyền nhỏ như “chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt chết đuối trong nghiên son” (Khái Hưng, Anh phải sống) [59, tr.108]. Rồi chiếc thuyền nan lật sấp. Chị Lạc buông tay, chịu chết chìm trong dòng nước để anh Thức được sống vì còn ba đứa con côi cút trông vào sức lao động của anh. Kết thúc của câu chuyện là hình ảnh “Đèn điện sáng rực suốt bờ sông. Gió đã im, sóng đã lặng. Một người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc. Hai đứa con gái nhỡ đứng bên cạnh. Đó là gia đình bác phó Thức ra bờ sông từ biệt lần cuối cùng linh hồn kẻ đã hy sinh vì lòng thương con. Trong cảnh bao la, nước sông vẫn lãnh đạm chảy xuôi dòng.” (Khái Hưng, Anh phải sống) [59, tr.110]. Tác phẩm khép lại nhưng để lại trong lòng người đọc niềm cảm thương vô hạn những kiếp đời khốn khổ. Một kết thúc đầy ám ảnh, day dứt người đọc khác gì kết thúc truyện với hình ảnh những đứa con thơ bơ vơ vì mất mẹ trong Nhà mẹ Lê của Thạch Lam. Với tác phẩm Anh phải sống, Khái Hưng đã cho chúng ta có một cái nhìn khác về nhà văn, ông không chỉ là một nhà văn lãng mạn, mà hơn thế, nhà văn đã vượt khỏi thiên kiến giai cấp của mình để chia sẻ, đồng cảm với sự cùng quẫn của những người dân nghèo. Và vì thế, Anh phải sống xứng đáng là một tác phẩm hiện thực xuất sắc. Trong hàng loạt các tác phẩm khác của Khái Hưng, Nhất Linh như: Cái Ve, Xanh cà bung, Người vợ mù, Lòng tốt, Hai vẻ đẹp, Cúng rượu ..., ta còn bắt gặp hình ảnh những người dân nghèo gầy gò, “nét mặt tiều tụy, quần áo rách rưới”. Trẻ con thì “trần truồng, (…) bụng to và hai chân lẳng khẳng trông tựa một con nhái dựng đứng” (Nhất Linh, Hai vẻ đẹp) [39, tr.230]. Những người nhà quê nghèo khổ ấy “như bị chìm đắm vào trong đêm tối; họ đã quen đi rồi, mà từ xưa tới nay không có một người nào bảo cho họ biết tình cảnh của họ” (Nhất Linh, Hai vẻ đẹp) [39, tr.244]. Cuộc sống của họ là ở trong những túp lều “xiêu vẹo bẩn thỉu (…) dựng tạm bợ để che mưa che nắng” (Khái Hưng, Xanh cà bung) [59 , tr.386] của môi trường ô nhiễm đầy “mùi hôi thối và những vật dơ dáy” (Khái Hưng, Xanh cà bung) [59, tr.382]. Trong truyện ngắn Nghèo, Nhất Linh miêu tả cảnh khốn cùng của đôi vợ chồng bị sa cơ lỡ vận, phải sống một cảnh đời nghèo khổ, tăm tối, nặng trĩu âu lo, không lối thoát: “Không có một làn gió nhẹ, vải màn rủ nặng nề xuống chiếu. Trọng tưởng như nằm trong một cái ngục tối, và tưởng thấy thấm vào người cái hơi nóng của một cái vạc dầu để gần đó. Chàng gục đầu vào cánh tay, nhắm chặt mắt lại và muốn đắm mình trong giấc ngủ như một người đắm mình trong cõi chết” (Nhất Linh, Nghèo) [39, tr.212]. Viết về những người nghèo, hai tác giả đặc biệt quan tâm và dành nhiều tình cảm cho những người phụ nữ. Những người phụ nữ trong các truyện của họ phần lớn đều là những người phụ nữ nghèo và cuộc đời họ luôn gặp phải những bất hạnh, những trắc trở, luôn phải đối mặt với cuộc sống thiếu thốn về vật chất và cả về tinh thần. Đó là Liệt, một cô gái “nức tiếng là xinh nhất làng Nghi Hồng. Đôi khi quán sớm chợ chiều, cái sắc đẹp tươi tắn, cái vẻ duyên mặn mà của nàng đã làm xiêu lòng bao khách đi đường” (Nhất Linh, Giết chồng báo thù chồng) [39, tr.135], làm vợ của ông chánh tổng không bao lâu thì ông chết một cách đột ngột. Trước cái chết đầy bí ẩn của chồng, bằng trí thông minh, sự kiên cường hiếm có, không ngại gian khổ, và một niềm tiết liệt son sắt, Liệt đã truy tìm được kẻ sát nhân, báo thù cho chồng mình. Đó là một cô Tẹo trong sáng, ngây thơ bị phụ tình, rồi mang thai phải tự tử chết (Khái Hưng, Dưới ánh trăng). Một cô Ve (Khái Hưng, Cái Ve) nghèo, xấu xí, bị sự xa lánh, hắt hủi của người đời. Một cô đào Mơ (Khái Hưng, Đào Mơ, Dọc đường gió bụi) tài sắc nổi tiếng, hay một chị Đông (Khái Hưng, Bến Hòn Gai) xinh đẹp nhưng lận đận trong cuộc đời. Đó còn là cuộc đời một người đàn bà bán hàng nước sống cuộc đời sa sút “trong túp lều tranh xơ xác với bà mẹ già đầu tóc đã bạc phơ” (Nhất Linh, Tiếng kêu thương (Lời người đàn bà bán hàng nước)), [39, tr.276] mà mỗi chiều về, nghe tiếng sáo lại “tưởng như là tiếng than khóc của tâm hồn (…), tâm hồn người đàn bà đương độ thanh xuân, đáng được sống một cuộc đời tốt đẹp mà số phận đã bắt phải mãi mãi sống những ngày tuyệt vọng của cái đời trụy lạc này” [39, tr.282]. Đoạn cuối tác phẩm là những dòng văn thật cảm động mà nhân vật người đàn bà tự bộc lộ: “Tôi yên lặng ngồi ngắm cái cảnh nhìn đã quen mắt trước cửa hàng, cái cảnh tồi tàn, đìu hiu, hình ảnh cuộc đời tôi; một bụi chuối xơ xác, mấy chiếc xe sắt mui đã tả tơi đổ bên cái cầu gỗ sơn đen, bắc ngang một con sông nước không bao giờ chảy.” [39, tr.282]. Rõ ràng, khi miêu tả người phụ nữ nghèo, dù là nông dân hay dân nghèo thành thị, Nhất Linh, Khái Hưng đều bộc lộ cảm tình đối với họ, cảm thông với sự nghèo khổ, lạc hậu, thiệt thòi của họ. Và vì thế mỗi tác phẩm của hai nhà văn đều là một “ô cửa” để nhìn thấy những cảnh đời, những duyên phận của con người. Với một cái nhìn nhân văn, nhà văn không chỉ cảm thông mà còn trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của họ. Chị Lạc (Khái Hưng, Anh phải sống) hy sinh thân mình, đã chịu dòng nước xiết cuốn trôi để chồng con được sống. Cô Ve (Khái Hưng, Cái Ve) dẫu xấu xí về hình thức bề ngoài song có tâm hồn nhân hậu và tràn đầy khát vọng về tình yêu con người. Đào Mơ (Khái Hưng, Dọc đường gió bụi) xinh đẹp, hát hay, tiền bạc cũng không khuất phục được lòng đam mê nghề nghiệp. Không chỉ trân trọng phẩm chất tốt đẹp của những con người nghèo khổ, bất hạnh, mà trong những trang viết của mình, nhà văn còn bênh vực họ. Chị Hiên, sống cuộc đời nghèo khổ, đầu đường xó chợ, vì hết lòng với chồng mà phải đi ăn trộm. Kết thúc tác phẩm, nhà văn viết: “Cái đời đầu đường xó chợ ấy ngay từ thuở còn nhỏ đã dạy cho tôi hiểu rằng: muốn cho người ta dễ có lòng thiện thì phải làm thế nào cho người ta khỏi nghèo khổ, mà một xã hội nghèo khổ thì bao giờ cũng dễ thành một xã hội xấu xa” (Nhất Linh, Đầu đường xó chợ) [39, tr.154]. Ở truyện Dưới ánh trăng, tác giả lên án kẻ gây ra nỗi bất hạnh của cuộc đời cô gái bằng một lời tự thú của nhân vật Văn: “Người ta đương sống với cái đời giản dị, bình thường của người ta, tự nhiên mình về quyến rũ người ta. Rồi khi mãn nguyện thì bỏ mặc người ta, như thế không gọi là khốn nạn thì gọi là gì?” (Khái Hưng, Dưới ánh trăng) [59, tr.330]. Ta còn thấy một số truyện ngắn của hai tác giả đề cập đến những vấn đề triết lý nhân sinh. Đây là những bài học nhà văn viết qua sự từng trải, chiêm nghiệm lẽ đời. Qua những truyện ngắn này, người viết hoặc trực tiếp phát biểu quan điểm triết lý của mình, hoặc để người đọc tự rút ra những ý nghĩa triết lý qua hình tượng nghệ thuật. Đó là những triết lý về hạnh phúc “Hạnh phúc chỉ ở trong sự yên lặng” (Khái Hưng, Tiếng dương cầm) [59, tr.23]; “Phải làm thế nào cho hạnh phúc ở đời phải ở mình, chỉ ở mình thôi (…) Hạnh phúc chỉ ở lòng mình, hạnh phúc ở sự yên tĩnh của tâm hồn” (Nhất Linh, Cái tẩy) [39, tr.342-343]. Trong truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng, ta còn bắt gặp một triết lý khác về danh dự và ý nghĩa của cuộc sống. Đoạn cuối tác phẩm Hai chị em, Nhất Linh để cho nhân vật tôi tự kết luận: “Lẽ cố nhiên là Bìm được trọng vọng và Lạch bị khinh rẻ. Nhưng đời một người bán thân bằng số tiền mấy chục bạc để về làm nô lệ một đứa bé hỉ mũi chưa sạch, đời một người vẫn được tiếng là con hiền, dâu thảo, đứng đắn, nết na, cái đời lương thiện ấy khốn nạn quá, bẩn thỉu quá đến nỗi tôi lưỡng lự không biết có thể đặt lên trên đời Lạch, một con đĩ, được không? Đời Lạch tuy xấu xa nhưng còn là đời một người, và Lạch tuy làm đĩ, nhưng còn biết mình làm đĩ, không ù lì như một con trâu người ta trả tiền lôi đi vì nó được việc. Bìm khình Lạch, nhưng thật ra Bìm không có quyền ví mình với Lạch, một người đã có hơn nàng cái giá trị làm một người.” (Nhất Linh, Hai chị em) [39, tr.273]. Ở Hai cảnh trụy lạc, nhân vật Bản đã nói: “Ở đời chỉ có sự lười biếng, sự ỷ lại là bê tha (…) Không có sự gì làm (…) đau lòng bằng ngắm cảnh một người không còn sung túc mà cứ muốn có cái hào nhoáng của một người sung túc” (Khái Hưng, Hai cảnh trụy lạc) [59, tr.56]. Ở một truyện ngắn khác, Khái Hưng lại cảnh báo người đọc ở cách xử thế qua triết lý: Con người tuy “vốn sẵn có lòng tốt. Song chỉ có lòng tốt liệu đã đủ chưa?” [59, tr.71]. Có khi vì bản tâm tốt, “sốt sắng làm điều thiện quá” [59, tr.71] mà “gây nên toàn những sự tai hại cũng chưa biết chừng” (Khái Hưng, Con chim vành khuyên) [59, tr.71]. Vì vậy, có những việc ta tưởng ta làm phúc cho người khác nhưng tác dụng lại ngược lại. Bởi vậy trước khi làm việc gì ta phải cân nhắc cho cẩn thận. Truyện Một nhà hiền triết lại là câu chuyện của một thanh niên tên là Đoàn chuyên chỉ tuân theo một triết lý “chẳng đi đâu mà thiệt”. Rồi một lần Đoàn gặp hạn, mắc phải một món nợ lớn. Anh phải vào tù. Có một người nào đó đã trả món nợ cho anh và anh được tự do. Sau này, Đoàn mới biết người trả nợ cho anh là Châu. Châu là người tình ngày xưa của Đoàn mà Đoàn từng cưu mang và đối xử đàng hoàng mặc dù Châu đã phản bội Đoàn để đi theo người khác. Bây giờ Châu đã lấy một người chồng giàu có. Và như vậy, triết lý “Chẳng đi đâu mà thiệt” của Đoàn đã “đắc đạo”. Như một nhà hiền triết, Khái Hưng đã gửi đến cho người đọc một triết lý: cuộc đời rất công bằng, nếu anh ăn ở như thế nào, anh sẽ được đối xử lại như thế. Rõ ràng “chẳng đi đâu mà thiệt” (Khái Hưng, Một nhà hiền triết). Trong các âm hưởng phân tích xã hội, phê phán hiện thực luôn có âm hưởng luận đề cũng như tinh thần phân tích tâm lý. Nhất Linh, Khái Hưng thường được xem là các nhà văn lãng mạn, nhưng thực ra, hai ông còn là những nhà văn phản ánh được hiện thực cuộc sống. Bằng sự mẫn cảm của mình, lắm khi họ cũng đã nói lên được những vấn đề nhức nhối, nóng bỏng của cuộc sống, cùng những gì mà người nghệ sĩ và nhân vật của họ hằng thao thức, băn khoăn. Những khi ấy tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng mang đậm âm hưởng luận đề và tinh thần phân tích tâm lý. Ví dụ: Giàu – nghèo có phải luôn luôn đối kháng không, có kết bạn được với nhau không? Nhất Linh, Khái Hưng, qua truyện ngắn của mình, muốn trả lời phần nào câu hỏi đó; Thêm nhiều câu hỏi mang tính luận đề khác: Nông thôn và thành thị, có thể xóa bớt khoảng cách được không? Muốn rút bớt được khoảng cách đó, người ta phải làm gì, đưa trí thức về nông thôn để nâng cao dân trí (Giấc mộng Từ Lâm – Nhất Linh)? Những mối thù dòng họ, của thế hệ trước có nên nuôi mãi, bằng cách nào để những người thù địch có thể giao hảo, kết nối với nhau (Cái thù ba mươi năm – Khái Hưng)? Cùng với âm hưởng luận đề là tinh thần phân tích tâm lý. Các nhà văn, bằng sự hiểu biết tâm lý con người của mình, dẫn người đọc vào thế giới tinh thần nhân vật bằng sự miêu tả, phân tích tâm lý. Tâm lý nhân vật tôi trong Cái tẩy của Nhất Linh (với nỗi ám ảnh vượt thời gian về cái tẩy và cơn giận dữ của một ông giáo, tạo một cú hích làm biến đổi hẳn số phận người học trò đáng thương). Rồi tâm lý của các thiếu nữ đang yêu (Cái Ve – Khái Hưng), tâm lý của chàng trai thành thị hay người đi xa về làng (Dưới ánh trăng – Khái Hưng). Nhà văn thường hãm chậm lại, phóng to lên, thuyết minh, diễn giải các trạng thái tâm lý để người đọc cảm thấy được và cùng phiêu lưu trong thế giới chìm khuất, tiềm ẩn ấy của nhân vật. TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 “Tôn chỉ mục đích” của TLVĐ rõ ràng không chỉ có ý nghĩa định hướng cho sáng tác tiểu thuyết mà còn cả sáng tác tiểu thuyết của nhóm, nhất là sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng. Nội dung tự sự và những nguồn cảm hứng chính bộc lộ khuynh hướng tư tưởng của TLVĐ trong truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng theo khảo sát của luận văn, thường tập trung vào các chủ điểm như: Ủng hộ quan niệm mới về tình yêu – hôn nhân, gia đình; công khai đề cao, cổ vũ con người hành động cải cách, cải tạo xã hội; miêu tả thể hiện vẻ đẹp thể chất và thế giới tinh thần của con người cá nhân; thể hiện hình ảnh quê hương đất nước, cảnh quan thiên nhiên, sinh hoạt và những vẻ đẹp khuất lấp; bày tỏ những băn khoăn về cảnh ngộ, nhân cách của giới bình dân và âm hưởng phân tích xã hội, phê phán hiện thực… Đó cũng chính là những nội dung góp phần thực hiện những điều tâm niệm nhằm phát triển văn hóa, văn học dân tộc của TLVĐ. CHƯƠNG BA CÁC LOẠI HÌNH TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH, KHÁI HƯNG TRONG TƯƠNG QUAN VỚI CÁC LOẠI HÌNH TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN Tìm hiểu truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, từ phương diện nghệ thuật, trong mối liên hệ với nghệ thuật tiểu thuyết của TLVĐ, một loạt câu hỏi đặt ra với tác giả luận văn: Có mối quan hệ nào không giữa đặc điểm thể tài tiểu thuyết TLVĐ với đặc điểm thể tài truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng? Các phương thức, kĩ thuật tự sự được hai ông thể nghiệm và sử dụng thành công trong tiểu thuyết có được phát huy (ở một mức độ nào đó) trong khi viết truyện ngắn hay không? Có yếu tố nào vốn là kĩ thuật của tiểu thuyết được hai ông chuẩn bị trước qua truyện ngắn hay sử dụng đồng thời trong khi sáng tác truyện ngắn hay không? Những câu hỏi như thế sẽ tìm được câu trả lời trực tiếp hay gián tiếp qua các nội dung cụ thể trong chương này. Về phương pháp nghiên cứu, một khi việc tìm hiểu nội dung, cảm hứng truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng được tiến hành theo cách liên hệ, đối chiếu với đặc điểm nội dung cảm hứng tiểu thuyết của hai ông thì việc tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn của hai nhà văn này cũng phải được tiến hành theo cách đó: liên hệ đối chiếu với các đặc điểm hình thức của tiểu thuyết. Mặt khác, các dạng thức tồn tại của tác phẩm văn học, xét từ góc độ thể tài, luôn hàm chứa trong nó những nét khu biệt mang tính loại hình. Do vậy, cần có một cách tiếp cận đặc thù: phương pháp nghiên cứu thể tài tiểu thuyết, truyện ngắn theo loại hình. 3.1. Đặc điểm hình thức và những cách tân nghệ thuật của xu hướng tiểu thuyết TLVĐ Mười thế kỉ văn học Hán Nôm Việt Nam, nhìn từ ưu thế của các thể loại, có thể gọi là thời của thơ, phú. Cuối thế kỉ XIX, bắt đầu thấy xuất hiện du ký rồi tiểu thuyết quốc ngữ, thay thế dần cho truyện, ký chữ Hán và truyện thơ. Văn học buổi giao thời vẫn còn ngổn ngang vật liệu như một đại công trường với bao nhiêu hạng mục chưa kịp thi công. Trong bức tranh thể loại của nền văn học chưa trưởng thành khi ấy, tiểu thuyết còn quá non trẻ. Đến thời của Nhất Linh, Khái Hưng tiểu thuyết đã tưởng thành. Có thể gọi đây là thời của tiểu thuyết, hay đúng hơn thời của tư duy tiểu thuyết phát triển trong văn xuôi quốc ngữ. Tư duy tiểu thuyết, tất nhiên không phải là phương thức tư duy nghệ thuật độc quyền của tiểu thuyết: trong khi tiếp cận hiện thực đời sống theo phương thức tư duy này, nhà văn còn có thể sáng tác tiểu phẩm, bút ký, phóng sự… Tuy vậy, thể loại phát huy cao độ công năng của tư duy tiểu thuyết, chắc hẳn phải là tiểu thuyết. Mà thời Nhất Linh, Khái Hưng viết văn trong TLVĐ, người ta có xu hướng gọi chung truyện ngắn (đoản thiên), truyện vừa (trung thiên) truyện dài (trường thiên) là “tiểu thuyết”. Khác nhau, chỉ ở quy mô tự sự (“cỡ nhỏ”, “cỡ vừa” hay “cỡ lớn”). Vì vậy, hoà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHVN065.pdf
Tài liệu liên quan