Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hạt tiêu ở công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I

Lời mở đầu 1

ChươngI: Những vấn đề cơ bản về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp và khái quát về công ty XNK Tổng hợp I 3

I. Những vấn đề cơ bản về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp 3

1. Khái niệm 3

2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 3

2.1 Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế thế giới 3

2.2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc gia. 4

2.3 Vai trò của xuất khẩu đối với hoạt động của doanh nghiệp 4

3. Nội dung của hoạt động xuất khẩu. 5

3.1 Nghiên cứu thị trường: 5

3.2 Xây dựng kế hoạch, chiến lược xuất khẩu. 6

3.3 Giao dịch đàm phán 6

3.4 Kí kết hợp đồng xuất khẩu 6

3.5 Tổ chức thực hiện hợp đồng 7

3.5 Phân tích, đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu. 10

4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. 10

4.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp 10

4.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp 11

II. Khái quát về công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I 12

1. Hoàn cảnh ra đời, quá trình xây dựng và phát triển của công ty 12

2. Hệ thống tổ chức, chức năng, quyền hạn của công ty XNK Tổng hợp I 16

2.1. Chức năng của công ty 16

2.2. Quyền hạn của công ty XNK Tổng hợp I 16

2.3. Hệ thống cơ cấu tổ chức của công ty XNK Tổng hợp I. 17

2.4. Nguồn lực của công ty 20

3. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty XNK Tổng hợp I 21

3.1. Tình hình chung về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 21

3.2. Các mặt hàng kinh doanh của công ty 24

2.3. Thị trường 26

III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hạt tiêu ở công ty XNK Tổng hợp 1 29

1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp 29

1.1 Điều kiện cơ sở vật chất: 29

1.2 Tiềm lực về tài chính 29

1.3 Yếu tố con người 30

1.4. Các yếu tố khác: 31

2. Các nhân tố bên ngoài 31

2.1 Yếu tố kinh tế trong nước và quốc tế. 31

 

doc88 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1188 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hạt tiêu ở công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu hạt tiêu ở nước ta vẫn liên tục được đẩy mạnh. Hạt tiêu Việt Nam hiện nay đã xuất khẩu tới hơn 70 nước trên khắp thế giới, trong đó 10 nước đứng đầu gồm có ấn Độ, Paskitan, Đức, Mỹ, Nga, Hà Lan, Singapore, Ai Cập, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kì đã nhập khẩu đến 72% tổng khối lượng hạt tiêu xuất khẩu của Việt Nam. Các nước vốn cung cấp khối lượng lớn hạt tiêu cho thị trường thế giới như ấn Độ, Singapore đang có xu hướng thu hẹp diện tích trồng hạt tiêu, giảm khối lượng hạt tiêu trồng trọt trong nước, trong khi đó lại tăng cường tạm nhập tái xuất hạt tiêu. Các nước này nhập một lượng lớn hạt tiêu từ Việt Nam để xuất đi các nước khác thu lợi nhuận. Hạt tiêu Việt Nam xuất khẩu qua trung gian chiếm một lượng lớn. Chính vì vậy, hạt tiêu xuất khẩu của Việt Nam luôn có giá rẻ hơn so với giá trên thị trường thế giới. Hạt tiêu Việt Nam phải xuất khẩu qua khâu trung gian, nguyên nhân chính là do chế biến trong nước quá yếu kém, tạp chất nhiều, độ ẩm thường cao trên mức cho phép. Chính vì vậy, các nhà buôn từ nhiều nước trên thế giới đã mua hạt tiêu của Việt Nam với giá rẻ, đem chế biến lại và xuất khẩu với giá cao. Vì vậy, mặc dù hạt tiêu Việt Nam được xuất khẩu nhiều nhất trên thế giới nhưng vẫn chưa có được thương hiệu riêng cho mình. Hạt tiêu đem lại nhiều lợi ích về kinh tế, do đó, hiện nay ở Việt Nam có rất nhiều doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hạt tiêu. Có nhiều doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu hạt tiêu, đó là chưa kể đến hầu hết các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tổng hợp tham gia xuất khẩu hàng nông sản đều xuất khẩu hạt tiêu. Hiện nay, chỉ riêng hiệp hội hạt tiêu Việt Nam đã có đến 57 thành viên. Do có nhiều doanh nghiệp trong nước cùng tham gia xuất khẩu cùng một mặt hàng như vậy khiến xảy ra tình trạng cạnh tranh ngay ở trong nước. II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hạt tiêu ở công ty XNKTổng hợp I 1. Đặc điểm hoạt động xuất khẩu hạt tiêu ở công ty XNK Tổng hợp I 1.1 Đặc điểm của mặt hàng hạt tiêu xuất khẩu Hạt tiêu là loại gia vị được sử dụng nhiều nhất trên thế giới. Hạt tiêu được sử dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và không bị cản trở tiêu dùng bởi yếu tố như luật pháp hay tôn giáo. Hạt tiêu cũng được sử dụng rất nhiều trong y học cũng như công nghiệp. Nhu cầu sử dụng hạt tiêu trên thế giới hiện nay đang rất cao và vẫn luôn có xu hướng tăng. Nhà nước ta hiện nay đang có chính sách đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu hàng nông sản. Hạt tiêu là một trong những mặt hàng được nhà nước khuyến khích phát triển trồng và xuất khẩu. Chính vì vậy, các thủ tục để thông quan xuất khẩu hạt tiêu rất đơn giản. Đối với công ty XNK Tổng hợp I thì hạt tiêu được miễn kiểm. Hoạt động trồng trọt và xuất khẩu hạt tiêu ở nước ta đang phát triển rất mạnh. Sản lượng hạt tiêu thu hoạch hàng năm liên tục tăng, năng suất cũng như chất lượng hạt tiêu đang từng bước được nâng cao. Khối lượng hạt tiêu xuất khẩu của Việt Nam ngày một lớn. Hiện nay Việt Nam đang cung cấp gần 50% tổng lượng hạt tiêu xuất khẩu trên toàn thế giới, vượt qua các nước vốn dẫn đầu về xuất khẩu hạt tiêu như ấn Độ hay Indonexia. Hạt tiêu Việt Nam đã được thế giới công nhận là hạt tiêu có chất lượng cao nhất trên thế giới, thêm vào đó giá lại rẻ nhất thế giới. Giá hạt tiêu của Việt Nam xuất khẩu đi bao giờ cũng thấp hơn giá thế giới khoảng 200-300 USD/tấn. Đối với mặt hàng hạt tiêu xuất khẩu, công ty thường xuất khẩu hạt tiêu loại có chất lượng trung bình (loại 500 - 550 grs/L). Đây cũng là xu hướng chung của ngành hàng hạt tiêu của Việt Nam. Một mặt hạt tiêu có chất lượng trung bình là loại hạt tiêu được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới, mặt khác, ở Việt Nam trồng trọt và chế biến được nhiều hạt tiêu loại này nhất. Hạt tiêu là hàng nông sản, việc trồng trọt và thụ hoạch theo mùa vụ. Chính vì vậy việc được mùa hay mất mùa lại chịu ảnh hưởng nhiều vào các yếu tố tự nhiên. Do đó trong quá trình xuất khẩu hạt tiêu, công ty phải tiến hành bảo quản cẩn thận để đảm bảo chất lượng. Độ ẩm lí tưởng nhất để bảo quản hạt tiêu đen là dưới 13%. Một điểm đặc biệt đối với mặt hàng hạt tiêu xuất khẩu, đó là giá cả trên thị trường biến động liên tục. Bình thường, giá cả hạt tiêu trên thị trường thế giới được xác định theo từng ngày. Tuy nhiên, trong những lúc thị trường biến động mạnh, giá cả hạt tiêu thậm chí thay đổi trong từng giờ. Cũng như các mặt hàng xuất khẩu khác, công ty xuất khẩu hạt tiêu chủ yếu theo hai phương thức: Đó là phương thức xuất khẩu uỷ thác và phương thức xuất khẩu tự doanh. Hiện nay, công ty xuất khẩu hạt tiêu theo phương thức xuất khẩu uỷ thác nhiều hơn so với xuất khẩu tự doanh. Tuy nhiên, công ty đang có các kế hoạch để đổi mới chiến lược xuất khẩu hạt tiêu, chuyển đổi dần sang xuất khẩu theo phương thức tự doanh nhằm chủ động hơn trong kinh doanh, đồng thời cũng để tận dụng nguồn lợi do mặt hàng hạt tiêu đem lại để gia tăng lợi nhuận cho công ty. Đối với công ty XNK Tổng hợp I, hiện nay, hạt tiêu là một trong những mặt hàng nằm trong chiến lược phát triển của công ty. Công ty luôn dành các ưu đãi về vốn cũng như về nhân lực nhằm phục vụ cho hoạt động xuất khẩu hạt tiêu. Chiến lược của công ty là đưa hạt tiêu trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của công ty. 1.2. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu hạt tiêu ở công ty XNK Tổng hợp I Hoạt động xuất khẩu hạt tiêu ở công ty XNK Tổng hợp I trong thời gian gần đây chưa có được các kết quả tương xứng với tiềm năng của mặt hàng hạt tiêu xuất khẩu cũng như với các nỗ lực của công ty. Khi tiến hành hoạt động xuất khẩu hạt tiêu, công ty thường xuất khẩu theo phương thức tự doanh hoặc xuất khẩu uỷ thác. Phương thức xuất khẩu uỷ thác chiếm một tỉ lệ tương đối lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đối với việc xuất khẩu hạt tiêu bằng cách nhận xuất khẩu uỷ thác, công ty chỉ tiến hành làm các thủ tục xuất khẩu cho chủ hàng và nhận phí uỷ thác, chứ không trực tiếp tham gia xuất khẩu. Tuy nhiên dù theo phương thức nào thì công ty cũng vẫn không chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình. Do hạt tiêu biến động giá liên tục nên công ty không tiến hành mua hàng trong nước dự trữ. Chỉ khi có khách ngoại đề nghị mua hàng, công ty mới tiến hành tìm hàng trong nước và thương lượng giá. Hoặc khi khách hàng trong nước có hàng muốn nhờ công ty xuất khẩu hộ, công ty mới cố gắng tìm kiếm khách ngoại để bán hàng. Công ty chưa năng động trong việc tìm kiếm thị trường cũng như trong việc tìm kiếm nguồn hàng. Do hoạt động xuất khẩu hạt tiêu vẫn thường được công ty tiến hành theo cách này nên hiệu quả không cao. Cả việc chào mua hàng hay chào bán hàng đều gặp không ít khó khăn. Mặc dù công ty đã xuất khẩu hạt tiêu từ nhiều năm, nhưng do cách thức xuất khẩu như trên, hoạt động xuất khẩu hạt tiêu vẫn chưa có những biểu hiện đáng lạc quan. Thị trường xuất khẩu cũng như thị trường trong nước của công ty không ổn định. Khác với các mặt hàng xuất khẩu khác của công ty như gạo hay cà phê, công ty có rất ít bạn hàng truyền thống đối với mặt hàng hạt tiêu. Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu của công ty không ổn định, công ty chưa có các khách hàng hay hợp đồng xuất khẩu hạt tiêu với khối lượng lớn và lâu dài. Dù đã xác định đưa hạt tiêu trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng, công ty vẫn chưa có các biện pháp cũng như các chính sách cụ thể và có hiệu quả để thúc đẩy phát triển xuất khẩu hạt tiêu. Trong khi các công ty khác trong Bộ Thương Mại cũng tham gia xuất khẩu hạt tiêu như Intimex hay Unimex đã có các trang Web riêng để quảng cáo cho mặt hàng hạt tiêu thì công ty XNK Tổng hợp I hầu như chưa có một hình thức Marketing nào cho sản phẩm hạt tiêu của công ty mình 2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hạt tiêu của công ty XNK Tổng hợp I 2.1. Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu của công ty Hạt tiêu là một trong những sản phẩm mà Công ty XNK Tổng hợp I đã xuất khẩu trong nhiều năm nay. Đó là mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao, đem lại cho công ty lợi nhuận lớn. Giá hạt tiêu mua bán trên thị trường thế giới từ trước tới nay luôn trên 1000 USD/tấn, chưa kể những lúc khan hiếm có thể lên tới 3000 USD/tấn. Giá hạt tiêu cao hơn nhiều so với cà phê, gấp nhiều lần gạo và các loại nông sản khác. Chính vì vậy, công ty chỉ cần xuất khẩu hạt tiêu với khối lượng nhỏ hơn các loại nông sản khác thì giá trị hợp đồng cũng như kim ngạch xuất khẩu đã lớn hơn so với việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản khác rất nhiều. Xuất khẩu hạt tiêu có thể đem về được nhiều lợi ích cho công ty nhưng từ trước đến nay, chưa năm nào công ty xuất khẩu được hạt tiêu với khối lượng lớn, do đó kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu ở công ty vẫn còn nhỏ bé so với tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu ở công ty XNK Tổng hợp I trong những năm gần đây: Bảng 8 : Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu ở công ty XNK Tổng hợp I Chỉ tiêu Năm Sản lượng xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu Tỉ lệ so với tổng kim ngạch XK của công ty (%) Giá trị (tấn) % so năm trước Giá trị (USD) % so năm trước 2000 134,5 124,3 398.987,5 348,4 1,7 2001 448,6 333,5 548.519,4 137,5 1,4 2002 100,5 22,4 135.243,2 24,6 0,4 2003 157,7 156,9 229.387 169,6 0,7 2004 482,3 305,8 618.961,6 269,8 2,0 Nguồn: Công ty XNK Tổng hợp I Trong những năm gần đây, công ty xuất hạt tiêu với khối lượng không lớn, do đó kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu cũng không cao. Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu hàng năm chỉ vào khoảng vài trăm nghìn USD, năm thấp nhất chỉ có 135 nghìn USD, năm cao nhất cũng chỉ đạt 618 nghìn USD, còn thấp so với các mặt hàng nông sản xuất khẩu khác ở công ty. Hơn nữa, hoạt động xuất khẩu hạt tiêu của công ty không mang tính ổn định, năm xuất nhiều, năm xuất ít, không theo qui luật và cũng không thể dự báo trước được. Năm 2001, công ty xuất khẩu được hạt tiêu với số lượng tăng vọt, gấp hơn 3 lần so với năm 2000. Song, sang đến năm 2002, sản lượng hạt tiêu giảm, xuất khẩu lại giảm gần 4 lần. Các năm 2003, 2004, khối lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu có tăng, đặc biệt năm 2004, sản lượng hạt tiêu xuất khẩu đã được 482 tấn, đạt 618.961 USD, số lượng gấp hơn 3 lần với năm trước. Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu cũng biến động mạnh qua các năm, tuy nhiên, sự gia tăng về sản lượng không tương ứng với sự gia tăng về kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu. Trong khi năm 2001, sản lượng hạt tiêu xuất khẩu tăng gấp hơn 3 lần so với năm trước thì kim ngạch lại chỉ tăng 37%. Các năm 2002, 2003, sự tăng về kim ngạch có cao hơn sự tăng về sản lượng. Nguyên nhân chính của sự tăng không tương ứng giữa sản lượng và kim ngạch này chủ yếu là do giá hạt tiêu không ổn định, lên xuống rất thất thường. Đặc biệt giá hạt tiêu năm 2000 tăng mạnh, gấp gần 3 lần giá bình thường, đã khiến cho kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu tăng vọt trong khi sản lượng tăng không đáng kể. Tuy nhiên, trong năm 2000 này, công ty đã không tận dụng được cơ hội từ việc tăng giá hạt tiêu này để gia tăng một cách đáng kể kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu chiếm một tỉ lệ nhỏ bé trong tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn công ty. Chỉ năm 2004, kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu mới chiếm đến 2% kim ngạch xuất khẩu của công ty. Tỉ lệ này đối với các năm khác đều rất thấp, trong đó, năm 2002 và 2003 chưa được 1%. Trong khi hạt tiêu là một mặt hàng xuất khẩu rất có tiềm năng, đem lại kim ngạch lớn và lợi nhuận cao, công ty lại chưa thu được lợi ích đáng kể cho mình từ mặt hàng này. Hoạt động xuất khẩu hạt tiêu ở công ty XNK Tổng hợp I chưa thu được những kết quả như mong muốn do nhiều yếu tố. Trước hết, đó là do công ty còn thiếu những nhân viên XNK nhanh nhậy, nắm bắt tốt sự biến động nhanh chóng của mặt hàng hạt tiêu, tận dụng cơ hội để nâng cao lợi nhuận cho mình. Công ty cũng không có những bạn hàng truyền thống, không có các mối quan hệ lâu dài trong mua bán đối với mặt hàng hạt tiêu. Giá cả hạt tiêu lại lên xuống thất thường, rất dễ gây thua lỗ, do đó công ty hầu như không dám mạo hiểm trong kinh doanh. Chính vì vậy hoạt động xuất khẩu hạt tiêu không ổn định, việc tìm bạn hàng và kí kết hợp đồng xuất khẩu hạt tiêu gặp rất nhiều khó khăn, tốn kém rất nhiều chi phí nhưng nhiều khi hiệu quả đạt được lại không cao. Khi xuất khẩu hạt tiêu, công ty nhận xuất khẩu uỷ thác tương đối nhiều, chiếm một tỉ trọng tương đối lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu, do đó lợi nhuận thu được từ hoạt động xuất khẩu hạt tiêu cũng không cao. Ngoài ra, mặc dù công ty đã xác định được rằng nếu có thể có các chiến lược kinh doanh phù hợp, chủ động, kịp thời, mặt hàng hạt tiêu xuất khẩu là mặt hàng đem lại lợi nhuận cũng như kim ngạch cao, tuy nhiên công ty vẫn chưa có các biện pháp cụ thể và hiệu quả để nâng cao hiệu quả và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hạt tiêu ở công ty. 2.2. Mặt hàng hạt tiêu xuất khẩu của công ty Hạt tiêu công ty thường xuất khẩu gồm có hạt tiêu đen và hạt tiêu trắng. Các mặt hàng hạt tiêu nhìn chung không phong phú. Người ta phân biệt các loại hạt tiêu xuất khẩu dựa vào trọng lượng trên một đơn vị thể tích hạt tiêu (grs/L) (dung trọng - density) Công ty thường xuất hạt tiêu đen và hạt tiêu trắng. Hạt tiêu trắng công ty xuất được rất ít và là loại có chất lượng cao. Công ty chủ yếu xuất hạt tiêu đen, thông thường là các loại tiêu đen 300, 400, 500, 550 và 600 grs/L. Hạt tiêu có dung trọng càng lớn, giá trị lại càng cao. Hạt tiêu 300-450 grs/L, giá chênh lệch không lớn. Nhưng với các loại từ 500 grs/L trở lên, giá lại có sự chênh lệch đáng kể. Hạt tiêu đen 550 grs/L thông thường có giá cao hơn hạt tiêu đen 500 grs/L khoảng 70 - 80 USD mỗi tấn, còn hạt tiêu 600 grs/L thường cao hơn loại 550 đến trên 100 USD mỗi tấn. Công ty xuất hạt tiêu trắng không nhiều, nhưng hạt tiêu trắng có giá trị rất lớn, thường gấp hơn 2 lần, có khi đến 3 lần so với hạt tiêu đen 550 grs/L. Hạt tiêu trắng có giá trị cao, đem lại lợi nhuận cũng như kim ngạch lớn nhưng công mới chỉ xuất khẩu được rất ít loại hạt tiêu này. Kể cả ở nước ta, việc xuất khẩu hạt tiêu trắng vẫn còn rất hạn chế do khâu chế biến còn yếu kém, chưa đủ khả năng để chế biến được hạt tiêu trắng đạt tiêu chuẩn. Hoạt động xuất khẩu hạt tiêu ở công ty XNK Tổng hợp I theo mặt hàng trong những năm gần đây được phản ánh trong bảng dưới đây: Bảng : Kết quả hoạt động xuất khẩu hạt tiêu theo mặt hàng; Đơn vị : Mặt hàng 2000 2001 2002 2003 2004 Sản lượng Tỉ trọng Sản lượng Tỉ trọng Sản lượng Tỉ trọng Sản lượng Tỉ trọng Sản lượng Tỉ trọng Tiêu đen 300 grs/L 0 Tiêu đen 400 grs/L 16.455,5 Tiêu đen 500 grs/L 246.833,7 Tiêu đen 550 grs/L Tiêu đen 600 grs/L Tiêu trắng Tổng Hạt tiêu công ty xuất khẩu chủ yếu là hạt tiêu đen. Công ty xuất hạt tiêu trắng rất ít, chỉ thỉnh thoảng có năm xuất được 1 lô hạt tiêu trắng mà thôi. Tuy xuất ít nhưng giá trị hạt tiêu trắng cao nên năm nào xuất được, thì chỉ một lô hạt tiêu trắng thôi cũng đã chiếm một tỉ trọng tương đối trong tổng kim ngạch hạt tiêu xuất khẩu được. Hạt tiêu đen chiếm tỉ trọng chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu ở công ty. Thông thường, theo thói quen, công ty chỉ chào hàng và xuất khẩu hạt tiêu đen. Công ty xuất khẩu chủ yếu là tiêu đen loại 500 và 550 grs/L. Hạt tiêu đen loại 600 grs/L được xuất khẩu ít hơn, mỗi năm công ty chỉ xuất khẩu được 1 hoặc 2 lô loại này và thường chiếm trên dưới 10% tỉ trọng trong kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu. Các loại hạt tiêu nhỏ hơn như 300, 400 grs/L công ty cũng không xuất nhiều do ít khách hàng thích loại hạt tiêu này. Năm 2000, hạt tiêu đen loại 500 và 550 grs/L chiếm đến 90% giá trị xuất khẩu hạt tiêu, chỉ có 10% kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu là loại 400 grs/L, và công ty không xuất được các loại hạt tiêu khác. Các năm sau, công ty đã xuất được thêm các loại hạt tiêu đen 300, 600 grs/L và hạt tiêu trắng, tuy nhiên hạt tiêu đen 500 và 550 grs/L vẫn là loại sản phẩm được công ty xuất khẩu nhiều nhất. Các năm 2001, 2002, 2003, tỉ lệ hạt tiêu đen 500 và 550 grs/L thường xuyên chiếm 75-80 % tổng kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu. Đến năm 2004, cơ cấu mặt hàng hạt tiêu xuất khẩu đã có nhiều thay đổi. Công ty đã xuất khẩu được tất cả các loại mặt hàng với kim ngạch tương đối cao. Tỉ trọng tiêu đen 500 và 550 grs/L đã giảm, thay vào đó, công ty đã xuất được hạt tiêu trắng và tiêu đen 600 grs/L với kim ngạch tương đối lớn. Mặc dù chưa chiếm được tỉ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu nhưng việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hạt tiêu có giá trị cao là một tín hiệu vui đối với hoạt động xuất khẩu hạt tiêu của công ty. Tỉ lệ hạt tiêu đen 500 và 550 grs/L thường được xuất khẩu ổn định và chiếm tỉ trọng cao trong khối lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu của công ty. Công ty xuất khẩu chủ yếu hạt tiêu loại này nguyên nhân chính là do thói quen mua bán của công ty. Công ty hầu như chỉ chào hàng những mặt hàng thông thường với các bạn hàng đã từng có mối quan hệ buôn bán trước đây, rất ít khi tìm được bạn hàng mới. Trong khi nhu cầu về hạt tiêu chất lượng cao trên thế giới ngày một tăng, công ty chưa đi sâu nghiên cứu và tìm kiếm các khách hàng có nhu cầu về loại hạt tiêu trắng hay tiêu đen 600 grs/L đem lại nhiều lợi ích kinh tế này. Công ty cũng chưa có các hình thức giới thiệu, quảng cáo một cách có hệ thống và đầy đủ về các loại sản phẩm hạt tiêu để khách hàng tìm đến và lựa chọn. Hoạt động xuất khẩu hạt tiêu của công ty XNK Tổng hợp I chưa có kế hoạch, chiến lược, định hướng và các phương pháp cụ thể. Do đó hoạt động xuất khẩu hạt tiêu mới chỉ dừng lại ở việc công ty tìm kiếm và kí kết được hợp đồng nào thì thực hiện hợp đồng đấy. Việc xuất khẩu hạt tiêu thường được tiến hành theo từng thương vụ nhỏ lẻ. Các hợp đồng xuất khẩu hạt tiêu của công ty có giá trị thường không lớn. Thường với mỗi hợp đồng, công ty chỉ xuất được 1-2 container hạt tiêu (mỗi container khoảng 13-15 tấn), do đó, giá trị mỗi lô hạt tiêu cũng thường không cao. 2.3. Phương thức xuất khẩu hạt tiêu của công ty Cũng như tất cả các mặt hàng xuất khẩu khác, công ty XNK Tổng hợp I xuất khẩu hạt tiêu theo hai phương thức chính, đó là xuất khẩu tự doanh và xuất khẩu uỷ thác. + Nhận uỷ thác xuất khẩu: Theo phương thức này Công ty là người đứng ra tiến hành các thủ tục xuất khẩu, làm trung gian thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu cho bên uỷ thác và hưởng lợi nhuận theo một tỉ lệ phần trăm nhất định. Việc tìm kiếm đối tác nước ngoài, chuẩn bị và vận chuyển hàng hoá ra cảng xếp hàng, công ty đều không phải thực hiện. Công ty chỉ phải làm các chứng từ, mở L/C, làm các thủ tục thanh toán. Từ trước đến nay, với mỗi hợp đồng xuất khẩu uỷ thác, công ty thường lãi trên dưới 1% tổng trị giá lô hàng. Trước đây, khi hoạt động xuất khẩu không được tự do thực hiện đối với nhiều doanh nghiệp trong nước, họ thường nhờ công ty XNK Tổng hợp I thực hiện xuất khẩu uỷ thác. Kể từ khi Nhà nước có chính sách khuyến khích xuất khẩu, cho phép các doanh nghiệp trong nước tự do xuất khẩu, công ty gặp nhiều khó khăn trong hoạt động xuất khẩu. Các doanh nghiệp có hàng đã có thể tự xuất khẩu mà không cần nhờ xuất khẩu hàng hoá qua công ty nữa. Trong những năm đó, công ty ít nhận xuất khẩu uỷ thác hơn. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, các doanh nghiệp trong nước lại hay nhờ công ty thực hiện xuất khẩu uỷ thác do nhiều nguyên nhân khác nhau. Gần đây, nguyên nhân chủ yếu khiến các doanh nghiệp trong nước nhờ công ty thực hiện xuất khẩu uỷ thác là vì muốn công ty ứng vốn cho họ, giúp họ mở rộng kinh doanh. Khi ứng vốn cho các doanh nghiệp này, công ty cũng được hưởng lãi suất từ khoản tiền hàng ứng trước. + Xuất khẩu tự doanh: Hình thức kinh doanh này đem lại hiệu quả khá cao. Tuy nhiên công ty thực hiện phương thức này khá thụ động, nghĩa là doanh nghiệp chỉ tìm hàng cung ứng ở trong nước khi có đơn đặt hàng từ phía nước ngoài chứ không chủ động tìm kiếm bạn hàng. Hoặc khi doanh nghiệp trong nước muốn xuất khẩu hạt tiêu nhưng không có điều kiện để tìm kiếm khách hàng ngoại, nhờ công ty xuất khẩu hạt tiêu, lúc này công ty mới tiến hành gửi chào hàng tới các khách nước ngoài. Việc chào hàng để tìm khách ngoại cũng như việc tìm hàng trong nước để xuất khẩu theo yêu cầu của đối tác nước ngoài đều rất khó khăn. Do đặc trưng của mặt hàng hạt tiêu xuất khẩu là giá biến động liên tục nên các giao dịch phải được tiến hành nhanh chóng. Tuy nhiên, do công ty xuất hạt tiêu chưa nhiều, do đó khách hàng cả trong và ngoài nước đều không phải là khách hàng quen thuộc, do đó các giao dịch diễn ra tương đối lâu và mất thời gian. Trong quá trình giao dịch nhiều lúc diễn ra không suôn sẻ: sau khi công ty thương lượng được giá với một bên, giá hạt tiêu lại đã thay đổi, khiến cho việc thương lượng giá phải thực hiện lại từ đầu. Việc xuất khẩu hạt tiêu theo kiểu này thường rất khó khăn, không hiệu quả, tốn nhiều công sức mà hiệu quả lại không cao. Đôi khi, sau khi đã tìm kiếm được khách hàng nước ngoài, thương lượng được về giá với cả hai phía, công ty vẫn từ chối thực hiện xuất khẩu tự doanh dù có thể xuất khẩu theo phương thức này đem lại lợi nhuận cao hơn. Đó là khi công ty nhận thấy việc xuất khẩu có độ an toàn không cao. Lúc này, công ty có thể thoả thuận với khách nội chuyển sang hình thức xuất khẩu uỷ thác, thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và nhận phí uỷ thác để bảo toàn vốn. Hoạt động xuất khẩu hạt tiêu theo các hình thức xuất khẩu được thể hiện ở bảng dưới đây Bảng 10: Tình hình xuất khẩu hạt tiêu theo phương thức xuất khẩu Đơn vị: USD Chỉ tiêu Năm Xuất khẩu uỷ thác Xuất khẩu tự doanh Tổng kim ngạch Kim ngạch Tỉ trọng (%) Kim ngạch Tỉ trọng (%) 2000 211.463,3 53 187.524,2 47 398.987.5 2001 235.863,3 43 312.656,1 57 548.519.4 2002 83.850,8 62 51.392,4 38 135.243.2 2003 135.338,3 59 94.048,7 41 229.387 2004 402.325,1 65 216.636,5 35 618.961.6 Nguồn: Công ty XNK Tổng hợp I Nhìn bảng số liệu ta thấy, công ty thực hiện xuất khẩu dưới hình thức uỷ thác và hình thức tự doanh nhìn chung tương đương nhau. Không có sự chênh lệch lớn lắm và cũng không có một qui luật rõ ràng đối với các hình thức xuất khẩu hạt tiêu ở công ty. Do công ty không có các khách hàng cũng như hợp đồng dài hạn nên phương thức xuất khẩu hạt tiêu của công ty cũng không cố định. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, công ty có xu hướng xuất khẩu uỷ thác nhiều hơn xuất khẩu tự doanh. Chỉ có năm 2001, xuất khẩu uỷ thác đạt 43%, chưa được một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu của công ty. Còn các năm khác, năm nào xuất khẩu uỷ thác cũng chiếm hơn một nửa. Cụ thể, năm 2000, tỉ lệ xuất khẩu uỷ thác trong tổng kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu là 53%, năm 2002 là 62%, năm 2003 là 59%, và đến năm 2004 là 65%. Mặc dù tỉ trọng xuất khẩu uỷ thác có năm tăng, năm giảm nhưng tỉ lệ này thường lớn hơn tỉ lệ xuất khẩu theo phương thức tự doanh. Điều này chứng tỏ rằng, hoạt động xuất khẩu hạt tiêu ở công ty được thực hiện theo phương thức xuất khẩu uỷ thác luôn lớn hơn so với xuất khẩu theo phương thức tự doanh. Do xuất khẩu uỷ thác không đem lại cho công ty lợi nhuận cao như xuất khẩu tự doanh, hoạt động xuất khẩu hạt tiêu vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn. Đối với mỗi hợp đồng xuất khẩu, công ty thường đưa ra các phương án xuất khẩu đối với từng phương thức xuất khẩu. Sau khi cân nhắc cẩn thận, hình thức xuất khẩu nào đem lại lợi ích lớn hơn cho công ty, công ty sẽ lựa chọn và thực hiện. Việc xác định phương án xuất khẩu đối với từng hợp đồng thường mất nhiều thời gian, từ khâu lên phương án đến khâu xét duyệt rồi chỉnh. Điều này khiến cho tiến độ của hoạt động kinh doanh bị chậm lại. Thời gian để công ty cho ra được phương án cuối cùng thường khá lâu, đôi khi làm lỡ mất các cơ hội kinh doanh, cũng có khi không thể tiến hành kí kết hay thực hiện được hợp đồng xuất khẩu. Bởi vì có thể khi lên phương án, giá hạt tiêu đang cao, nhưng khi có quyết định cuối cùng, giá hạt tiêu lại giảm. Nếu tiếp tục tiến hành xuất khẩu theo phương án cũ, có thể công ty sẽ không thu được lợi nhuận hoặc có thể bị thua lỗ. Để đảm bảo an toàn trong kinh doanh, công ty bao giờ cũng kí kết hợp đồng với khách ngoại xong mới kí kết hợp đồng với khách nội. Công ty nhận hàng và giao hàng ngay chứ không mua và dự trữ trong kho mặt hàng hạt tiêu xuất khẩu. Trong quá trình xuất khẩu hạt tiêu, công ty thường mua hàng và bán hàng theo giá FOB - cảng xếp hàng. Công ty hầu như không thực hiện các hoạt động như thu gom, đóng gói và vận chuyển hàng hoá nội địa. Hoạt động xuất khẩu hạt tiêu của công ty hầu như chỉ bao gồm công đoạn tìm kiếm bạn hàng và thực hiện các thủ tục xuất khẩu. Mặc dù nếu công ty tự tiến hành các công đoạn khác như đóng gói hay vận chuyển nội địa, công ty có thể tiết kiệm được chi phí xuất khẩu, đem lại lợi nhuận cao hơn do công ty có phương tiện vận tải cũng như kho và xưởng chế biến nông sản xuất khẩu. Nhưng một mặt do nhân viên xuất nhập khẩu của công ty không đủ người để thực hiện tất cả các hoạt động trên, mặt khác chưa có sự phối hợp một cách nhịp nhàng, đồng bộ giữa các bộ phận chức năng của công ty nên công ty buộc phải thuê ngoài các dịch vụ trên, khiến cho chi phí xuất khẩu hạt tiêu của công ty tăng lên, giảm một phần lợi nhuận của hoạt động xuất khẩu hạt tiêu. 2.4. Thị trường xuất khẩu hạt tiêu của công ty Với cách thức xuất khẩu hạt tiêu như đã đề cập ở trên, thị trường xuất khẩu hạt tiêu của công ty cũng không ổn định. Công ty hầu như không có bạn h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0469.doc
Tài liệu liên quan