Những mối đe doạ đối với đa dạng sinh học

Gia tăng dân số

Đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học là số lượng và tốc độ gia tăng dân số của loài người . Ngày lại ngày, ngày càng nhiều người, đòi hỏi ngày càng nhiều không gian sống, tiêu thụ ngày càng nhiều tài nguyên và tạo ra ngày càng nhiều chất thải trong khi dân số thế giới liên tục gia tăng với tốc độ đáng báo động.

Sự gia tăng dân số loài người sẽ làm giảm đa dạng sinh học theo các hướng sau:

• Gây biến đổi nơi cư trú do sự phát triển nông nghiệp, đô thị, công nghiệp, và khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

• Gây ô nhiễm đất, nước, và không khí

• Khai thác quá mức các nguồn tài nguyên làm giảm cả về kích cỡ và đa dạng di truyền của các quần thể loài thương mại, chẳng hạn như cá.

• Nhập nội các loài ngoại lai làm phá huỷe các nguồn tài nguyên đất, nước và đôi khi còn đem đến cả những dịch bệnh cùng với những loài này . Ngoài ra, chúng có thể cạnh tranh với những loài động, thực vật bản địa về thức ăn và nơi cư trú. Một số loài động vật, như mèo và cáo, còn trực tiếp tiêu diệt các loài bản địa .

• Gây ra sự ấm toàn cầu do tăng phát thải lượng cacbon dioxit và các khí khác vào khí quyển, chúng làm biến đổi các hệ sinh thái tự nhiên ở mọi nơi . Một trong các nguyên nhân của việc tăng mức cacbon dioxit là do đốt các nhiên liệu có nguồn gốc cacbon như than, dầu và gas.

 

doc31 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những mối đe doạ đối với đa dạng sinh học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này đã mất 74 đến 86% giống thú lớn, thú lớn hơn 44 kg, vào thời điểm này . Nguyên nhân của những tuyệt chủng này vẫn là một vấn đề cần bàn luận, thậm chí nếu con người không phải chịu trách nghiệm hoàn toàn, nhưng rõ hàng nghìn năm qua, con người đã gây những biến đổi quan trọng sinh cảnh với rất nhiều những ảnh hưởng được đối với động, thực vật bản địa . Từ ít nhất 50.000 năm, những vụ cháy có chủ ý đã xảy ra ở các thảo nguyên châu Phi . Cách đây ít nhất 5.000 năm, ở châu Âu, và khoảng 4000 năm ở Bắc Mỹ, việc phá rừng và biến đổi các vùng đất tự nhiên thành các bãi chăn gia súc đã xuất hiện tác động đến cấu trúc các quần xã rừng, tạo cơ hội cho các loài cỏ dại và các loài ăn cỏ như bò rừng Bizon mở rộng phạm vi phân bố và gây ra sự tuyệt chủng của các loài địa phương. ở Trung Mỹ, rừng đã thực sự biến mất trên một diện tích lớn từ trước khi người Tây Ban Nha tới . Quá trình định cư thời tiền sử trên các lục địa của loài người và những sự hội sinh của họ đã ảnh hưởng căn bản đến tính đa dạng của các loài lục địa . Các hoá thạch chứng minh rằng 98 loài chim đặc hữu đã hiện diện ở các đảo Hawaii 400 năm trước công nguyên khi các đảo này lần đầu tiên được người Polynesi định cư. Khoảng 50 loài trong số đó đã bị tuyệt chủng trước khi những người châu Âu bắt đầu có quan hệ vào năm 1778. Phần lớn các chuyên gia đều tin rằng nguyên nhân sự tuyệt chủng này là sự kết hợp giữa việc phá huỷ những vùng rừng rộng nơi đất thấp để canh tác nông nghiệp, gây sự xáo trộn cho việc nhập nội các loài (các loài chuột Polynesi, lợn nhà, chó nhà), săn bắn và ăn thịt. Cũng tương tự như vậy, việc định cư của con người ở New Zealand 1000 năm trước công nguyên, việc nhập nội các loài chó nhà và chuột Polynesi, kết hợp với việc đốt rừng trên diện tích lớn và săn bắn tập trung vào các loài chim lớn, đã dẫn đến sự tuyệt chủng của 13 loài chim Moa (loài chim lớn không biết bay) và 16 loài chim bản địa khác trước khi người châu Âu đặt chân tới . Loài người được cho rằng là nguyên nhân gây ra những sự tuyệt chủng khác do việc định cư ở Madagascar 500 năm trước công nguyên và đảo Chatham 1000 năm trước công nguyên. Sự định cư sớm của con người ở các đảo ngoài đại dương cũng đưa đến sự tuyệt chủng của 1/4 số loài chim đã tồn tại từ vài triệu năm trước đây . Cuộc chiến giữa các loài bản địa và nhập nội Vào thế kỷ 15 và 16, việc phổ cập toàn cầu văn hoá châu Âu cùng với các giống vật nuôi, cây trồng, cỏ dại, các dịch bệnh đã làm gia tăng việc huỷ diệt các loài động, thực vật trên các đảo và gây thêm sự đe doạ đối với các loài trên lục địa . Những thế kỷ sau đó, sự tăng trưởng của du lịch và thương mại xuyên đại dương đã dẫn đến việc lan truyền một số lượng lớn các loài đến các vùng mới trên trái đất và việc định cư của con người tại các đảo vốn không có người ở. Từ năm 1840 đến 1880, hơn 60 loài thực vật đã được đưa vào Australia . Từ 1800 đến 1980, số lượng các loài côn trùng nhập nội và Mỹ tăng từ 36 lên tới 1200 loài . Nhiều sự định cư của người châu Âu đã có tác động quan trọng đối với các loài động, thực vật bản địa .Ở Hawaii, các nhà thám hiểm châu Âu đặt chân đến đã mang theo các loài mèo, hai loài chuột mới, cú lợn, cầy ấn Độ nhỏ, và một số dịch bệnh của chim. Hai thế kỷ tiếp theo, sự phá huỷ nơi cư trú, dịch bệnh và việc săn bắn đã gây ra sự biến mất của 17 loài chim bản địa, làm suy giảm 31% tính đa dạng của khu hệ chim bản địa được xác định vào năm 400 trước công nguyên; nhiều loài giờ đang đứng ven bờ của sự tuyệt chủng. Những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến các đảo Mascarene không có người ở (Mauritius, Reunion và Rodrigues) vào đầu những năm 1500 đã đưa đến những đảo này lợn và khỉ. Vào giữa những năm 1600, người Hà Lan định cư trên các đảo, và trong 300 năm tiếp theo, 20 loài chim, gồm cả chim Dodo, và 8 loài bò sát đã biến mất. Tính nhạy cảm của các loài bản địa trên đảo được minh hoạ bởi sự huỷ diệt của chim hồng tước Stephen Island không biết bay, loài này đã bị con mèo duy nhất của người trông hải đăng ở một hòn đảo nhỏ ngoài khơi New Zealand săn đuổi đến tuyệt chủng Các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp Sự suy giảm đa dạng sinh học hiện nay có cả các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp. Các nguyên nhân trực tiếp bao gồm sự phá vỡ và mất nơi cư trú, sự xâm lấn của các sinh vật nhập nội, sự khai thác quá mức các nguồn tài nguyên sống, sự ô nhiễm, sự biến đổi khí hậu toàn cầu và các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp. Nhưng đây không phải là bản chất của vấn đề. Kiệt quệ sự sống là một kết quả không thể tránh khỏi của các cách mà loài người đã và đang lạm dụng môi trường trong quá trình gia tăng sự thống trị của mình.  Khi con người nhận thức được sự phá huỷ của mình và sự phát triển không bền vững đang ngày càng tác động đến cuộc sống và tương lai của con người, thì việc nghiên cứu các hướng giải quyết sẽ phải tập trung vào chính loài người . Bản chất của sự khủng hoảng đa dạng sinh học là không nằm ngoài các khu rừng hay các thảo nguyên, mà gắn liền với cách mà chúng ta sống. Đó là sự gia tăng dân số loài người, là cách mà loài người ngày càng mở rộng nơi cư trú sinh thái của mình và sử dụng ngày càng nhiều năng suất sinh học của trái đất, là sự tiêu thụ không hợp lý và quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, liên tục giảm số lượng các sản phẩm thương mại có nguồn gốc từ nông nghiệp và ngư nghiệp, các hệ thống kinh tế thiếu sự định giá thích hợp cho môi trường, các cấu trúc xã hội không hợp lý, và những yếu kém trong hệ thống pháp lý và nhà nước. Đa dạng sinh học là một nguồn tài nguyên quan trọng cho phát triển bền vững, việc tìm kiếm những phương thức sống bền vững là rất cần thiết nếu muốn đa dạng sinh học được bảo tồn. Các nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học Loài có thể bị tiêu diệt do một loạt các ảnh hưởng và tác động của con người . Có thể chia thành 2 loại chính: trực tiếp (săn bắn, hái lượm, thuần hoá) và gián tiếp (phá huỷ và biến đổi nơi cư trú). Săn bắn quá mức là một trong những nguyên nhân trực tiếp rõ ràng nhất gây nên sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật, và ảnh hưởng đến một số loài thú lớn, nổi tiếng. Tuy nhiên, trong toàn bộ sự suy giảm đa dạng sinh học, chắc chắn nguyên nhân này không quan trọng bằng các nguyên nhân gián tiếp như phá huỷ và biến đổi nơi cư trú. Săn bắn chỉ ảnh hưởng chọn lọc đối với các loài đã hoặc đang là những nguồn tài nguyên có thể thu hoạch được, điều này rất quan trọng đối với quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đa dạng di truyền, biểu hiện bởi sự khác biệt về gen di truyền giữa các quần thể riêng biệt của một loài hoang dã, có thể bị giảm sút do việc loài cùng chịu tác động của những nhân tố giống nhau . Đa dạng di truyền, biểu hiện qua các quần thể vật nuôi, cây trồng, có thể bị giảm sút do việc tạo ra một số lượng lớn; với mức độ đồng nhất cao . Hầu như bất kỳ dạng hoạt động nào của con người cũng gây biến đổi môi trường tự nhiên. Sự biến đổi này sẽ tác động đến sự phong phú tương đối của loài và trong nhiều trường hợp đặc biệt sẽ dẫn đến sự tuyệt diệt. Kết quả này cũng có thể do nơi cư trú trở nên không thích hợp đối với loài (ví dụ, chặt sạch cây rừng hoặc ô nhiễm nước sông), hoặc do nơi cư trú bị phá vỡ. Ngoài ra còn có ảnh hưởng của sự chia cắt các quần thể loài liền kề trước đây thành các quần thể con nhỏ hơn. Nếu những quần thể này đủ nhỏ, cùng với sự thay đổi các tiến trình, sẽ đưa đến việc gia tăng xác suất tuyệt diệt trong một thời gian tương đối ngắn. Một số nguyên nhân chính Sự suy giảm đa dạng sinh học là một vấn đề đang được các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách rất quan tâm. Các loài đang bị tuyệt chủng với tốc độ nhanh nhất được biết đến trong lịch sử địa chất và phần lớn những tuyệt chủng này là do các hoạt động của con người . Mất và phá huỷ nơi cư trú: thường là kết quả trực tiếp do các hoạt động của con người và sự tăng trưởng dân số, là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm loài, quần thể và hệ sinh thái Sự thay đổi trong thành phần hệ sinh thái: chẳng hạn như mất hoặc suy giảm của một loài có thể dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học. Ví dụ, nỗ lực loại trừ chó sói châu Mỹ ở miền nam California dẫn đến viêck giảm sút các quần thể chim hót trong vùng. Khi quần thể chó sói châu Mỹ giảm sút, quần thể con mồi của chúng, gấu trúc Mỹ, sẽ tăng lên. Do gấu trúc Mỹ ăn trứng chim, nên khi số lượng chó sói ít hơn thì số lượng gấu trúc ăn trứng chim lại nhiều lên, kết quả là số lượng chim hót sẽ ít đi . Sự nhập nội các loài ngoại lai: có thể phá vỡ toàn bộ hệ sinh thái và ảnh hưởng đến các quần thể động vật hoặc thực vật bản địa . Những kẻ xâm chiếm này có thể ảnh hưởng bất lợi cho các loài bản địa do quá trình sử dụng các loài bản địa làm thức ăn, làm nhiễm độc chúng, cạnh tranh với chúng hoặc giao phối với chúng. Khai thác quá mức (săn bắn quá mức, đánh cá quá mức, hoặc thu hoạch quá mức) một loài hoặc một quần thể có thể dẫn tới sự suy giảm của loài hoặc quần thể đó. Gia tăng dân số: Đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học là số lượng và tốc độ gia tăng dân số của loài người . Ngày lại ngày, ngày càng nhiều nhiều đòi hỏi ngày càng nhiều không gian sống, tiêu thụ ngày càng nhiều tài nguyên và tạo ra ngày càng nhiều chất thải trong khi dân số thế giới liên tục gia tăng với tốc độ đáng báo động. Ô nhiễm do con người gây ra có thể ảnh hưởng đến mọi cấp độ của đa dạng sinh học. Biến đổi khí hậu toàn cầu có thể làm thay đổi các điều kiện môi trường. Các loài và các quần thể có thể bị suy giảm nều chúng không thể thích nghi được với những điều kiện mới hoặc sự di cư. Gia tăng dân số Đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học là số lượng và tốc độ gia tăng dân số của loài người . Ngày lại ngày, ngày càng nhiều người, đòi hỏi ngày càng nhiều không gian sống, tiêu thụ ngày càng nhiều tài nguyên và tạo ra ngày càng nhiều chất thải trong khi dân số thế giới liên tục gia tăng với tốc độ đáng báo động. Sự gia tăng dân số loài người sẽ làm giảm đa dạng sinh học theo các hướng sau: Gây biến đổi nơi cư trú do sự phát triển nông nghiệp, đô thị, công nghiệp, và khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Gây ô nhiễm đất, nước, và không khí Khai thác quá mức các nguồn tài nguyên làm giảm cả về kích cỡ và đa dạng di truyền của các quần thể loài thương mại, chẳng hạn như cá. Nhập nội các loài ngoại lai làm phá huỷe các nguồn tài nguyên đất, nước và đôi khi còn đem đến cả những dịch bệnh cùng với những loài này . Ngoài ra, chúng có thể cạnh tranh với những loài động, thực vật bản địa về thức ăn và nơi cư trú. Một số loài động vật, như mèo và cáo, còn trực tiếp tiêu diệt các loài bản địa . Gây ra sự ấm toàn cầu do tăng phát thải lượng cacbon dioxit và các khí khác vào khí quyển, chúng làm biến đổi các hệ sinh thái tự nhiên ở mọi nơi . Một trong các nguyên nhân của việc tăng mức cacbon dioxit là do đốt các nhiên liệu có nguồn gốc cacbon như than, dầu và gas. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đối với đa dạng sinh học Có rất nhiều tài liệu về sự hiện diện và ảnh hưởng của các chất gây ô nhiễm trong môi trường, nhưng rất ít nói đến ảnh hưởng của chúng đối với đa dạng sinh học, ngoại trừ một vài nhóm chất gây ô nhiễm. Để giúp cho các nghiên cứu trong tương lai và cho việc hoạch định chính sách, một khung phân loại các hợp chất nguy hại theo mức độ tác động tương đối của chúng đối với đa dạng sinh học đã được đề xuất. Khung này dựa cơ sở trên hệ thống phân loại đất đã có của Canada, cùng với các ảnh hưởng nguy cấp và bất lợi tại các vùng sinh thái . ảnh hưởng đối với đa dạng sinh học được sắp xếp theo 3 cấp độ đa dạng sinh học - di truyền, quần thể và hệ sinh thái . Những đặc tính quan trọng ảnh hưởng đến tác động của một chất gây ô nhiễm tại một vùng sinh thái là tính chọn lọc, phạm vi phát tán và tính bền của nó. Các tác động về mặt di truyền của các chất gây ô nhiễm là khó đánh giá nhất, bởi lẽ có rất ít những nghiên cứu về các ảnh hưởng này trong các quần thể tự nhiên. Thuốc trừ sâu rõ ràng tạo ra những biến đổi về gen di truyền, chẳng hạn như sự xuất hiện của các giống thực vật và động vật có tính đề kháng. Sự phát triển của tính đề kháng này có thể phải trả giá bằng sự suy giảm tính đa dạng, do làm giảm khả năng đề kháng của sinh vật đối với các tác nhân khác. Đối với các tác động của các chất gây ô nhiễm lên quần thể, điểm khó là phân biệt chúng với các thay đổi bất thường tự nhiên. Ngoại trừ với một vài loài chim và thú, có rất ít những hiểu biết để có thể phân biệt được giữa hai biến đổi trên. Ảnh hưởng đối với hệ sinh thái của các chất gây ô nhiễm là sự thay đổi hướng phát triển của hệ sinh thái khác với hướng phải theo . Một minh hoạ cho việc sắp xếp các nhóm chất gây ô nhiễm theo ảnh hưởng của chúng đối với đa dạng sinh học: hydrocacbon (đặc biệt là dầu thô), chất hữu cơ bị halogen hoá (thuốc trừ sâu và các chất khác như các hợp chất PCB), nuclit phóng xạ, chất axit lắng đọng, kim loại, chất dinh dưỡng, thuốc trừ sâu phi clo hữu cơ. Trong số này, chất axit lắng đọng và chất dinh dưỡng được xếp vào loại đe doạ nguy hiểm nhất đối với mức vùng sinh thái .  Sự biến đối khí hậu Thực vật và động vật rất nhạy cảm với thời tiết. Khi thời tiết biến đổi, các loài không thể sống sót được ở một số vùng và sẽ di cư đến các vùng mới . Nếu không có vị trí nào thích hợp, loài sẽ bị tuyệt chủng khi không thể thích nghi kịp. Khí hậu trong quá khứ đã có những thay đổi rất đột ngột. Những phản ứng của các quần xã sinh vật trước những biến đổi này đã được tìm hiểu qua việc phân tích các vòng tuổi cây, lõi băng, các trầm tích của phấn hoa, than chì, động vật không xương sống và các nguyên tố hoá học. Một số các biến đổi thời tiết bất ngờ, xảy ra trong một vài thập kỷ hoặc thế kỷ, một số trong đó có liên quan đến những thời kỳ có sự tuyệt chủng hàng loạt. Những sự chuyển dịch quan trọng về ranh giới giữa các rừng lãnh nguyên và rừng phương bắc, giữa vùng rừng và vùng đồng cỏ, giữa vùng Hồ Lớn - rừng St. Lawrence và vùng rừng phương bắc đã xảy ra từ thời kỳ băng hà trước đây . Những sự chuyển dịch này tương ứng với những biến đổi khí hậu và có thể được coi là sự biểu hiện của các trường hợp biến đổi khí hậu toàn cầu . Lửa là một sự xáo trộn có liên quan đến khí hậu, gây ra những biến đổi chính đối với các khu rừng ở phía bắc. Những trận cháy là công cụ để tạo nên hình dạng của thảm thực vật của vùng Quebec ở phía bắc, và những trận cháy này cũng có phần lớn nguyên nhân do khí hậu . Khí hậu hiện nay, cùng sự thất thường và khắc nghiệt của nó, hiển nhiên có những ảnh hưởng đối với các hệ sinh thái . Ví dụ, mùa hè năm 1988, được chứng minh là một trong những trận hạn hán tồi tệ nhất trong lịch sử, đặc biệt ở các thảo nguyên của Canada, và số lượng chim nước đã giảm rất nhiều trong suốt thời kỳ khô hạn của những năm 1980. Gần đây, sự phóng xạ của các tia tử ngoại tăng lên do những biến đổi của tầng ô zôn trong tầng bình lưu đã được phát hiện, và đã có những chứng cứ ban đầu về gây tổn hại đối với mùa màng nông nghiệp, đối với thực vật, động vật ở các vùng đất ngập nước, các ao nông và các môi trường biển gần bờ. Các nhà khoa học đã có những thống nhất chung về việc khí hậu toàn cầu sẽ ấm lên bởi sự tăng lên về nồng độ của các khí "nhà kính", như cacbon dioxit, metan, là kết quả các hoạt động của con người . Xu hướng ấm lên của khí hậu trong tương lai này làm gia tăng sự nghi ngờ về tính ổn định của nhiều quần xã sinh vật ở Canada và các hoạt động quản lý được tiến hành trong phạm vi tính biến thiên khí hậu hiện nay . Các nghiên cứu trước mắt về các ảnh hưởng có thể của sự biến đổi khí hậu đối với các hệ sinh thái Canada đã đưa đến 2 kết luận chính. Thứ nhất, tốc độ dự đoán của quá trình ấm lên toàn cầu là tương đối nhanh, có thể so sánh với thời kỳ địa chất trước đây, kết quả gây thiệt hại trong phạm vi lớn đối các quần xã thực vật sinh trưởng chậm, không thể thích nghi trong cùng một khoảng thời gian. Ví dụ, vùng rừng phương bắc có thể mất đi một triệu cây số vuông. Thứ hai, cùng với sự ấm lên toàn cầu sẽ đưa đến sự thay đổi, thường là tăng, về tần số xuất hiện của những xáo trộn do khí hậu khắc nghiệt chẳng hạn như cháy, côn trùng, bệnh tật, hạn hán và sương giá. Các trường hợp này được cho rằng quan trọng hơn những biến đổi nhiệt độ trung bình toàn cầu trong những ảnh hưởng kết hợp đối với đa dạng sinh học. Thay đổi khí hậu còn là phương tiện của sự phát tán các chất gây ô nhiễm. Sự ô nhiễm không khí một mình hoặc kết hợp với sự biến đổi khí hậu có khả năng gây ra những ảnh hưởng bất lợi cho đa dạng sinh học ở mọi cấp độ. Các ảnh hưởng này, không giống sự phá huỷ nơi cư trú, khó phát hiện, có mối tương quan với nhau và khó đánh giá. Axit lắng đọng là chất ô nhiễm không khí gây ra những biến đổi lớn nhất ở phạm vi rộng đối với đa dạng sinh học ở Canada . Những ảnh hưởng đối với đa dạng sinh học của những chất ô nhiễm không khí khác như ôzôn, nitrogen oxit, hợp chất hữu cơ dễ bay hơi, các hoá chất độc hại thường ít được biết đến. 4. Những hành động toàn diện để bảo tồn đa dạng sinh học 4.1 Xây dựng ngân hàng gen quốc gia Công nghệ hiện nay cho phép bảo quản các loại hạt, mô của các loài cây, trừng, noãn và tinh trùng động vật ở nhiệt độ dưới 0 trong nhiều năm hoặc trong một vài trường hợp nhất định. Đây sẽ là sự lường trước sáng suốt thêm một khả năng thứ ba cho công tác bảo tồn và tạo nên ngân hàng gen cho các loài đặc sản hiếm. Có một số nhu cầu rõ ràng là phải xác định một cơ quan có thẩm quyền nắm vai trò lãnh đạo trong lĩnh vực này, xây dựng một chiến lược bảo tồn ngân hàng gen quốc gia, chi phí hoạt động của chương trình và khuyến khích và theo dõi sự thực hiện một chiến lược như thế. Hoạt động này được mô tả trong dự án C1. Chương trình phải phối hợp chặt chẽ với những nỗ lực để tiến hành gây nuôi các loài hiếm, và không cần chuyển những nguồn tài nguyên từ những cố gắng bảo tồn nội vi . MOSTE đã có một cơ quan điều phối để bảo vệ tài nguyên gen di truyền. Một cơ quan tương tự cần có cho tài guyên động vật. 4.2 Bảo quản tính đa dạng sinh học trong nông nghiệp Gia súc, hoa quả, rau và màu đã được xây dựng hàng trăm năm nay ở mọi miền của Việt Nam. Mỗi loài có một đặc thù riêng và ưu điểm riêng. Một số loài đã thích nghi với cuộc sống lạnh, khô, cao, đầm lầy hoặc các điều kiện địa phương đặc biệt khác, có một số loài rất cứng, một số loài khác sinh sản hoặc phát triển rất nhanh, một số loài vẫn còn trụ lại được đối với những loài sâu bệnh đặc biệt của địa phương, một số loài được chọn để đáp ứng những khẩu vị riêng. Nhìn chung, những loài đa dạng này là kết quả của kinh nghiệm chọn lựa trong ba nghìn năm thuần hoá ở Việt Nam. Chúng là những thành phần của đa dạng sinh học rất quan trọng đối với con người Việt Nam. Chúng rất quan trọng đối với sự tồn tại của loài người do cả đóng góp trực tiếp là lương thực, quần áo và nhiên liệu cũng như gián tiếp đóng góp vào nông nghiệp ổn định bằng việc sản xuất phân hoá học, kiểm soát bãi chăn thả và giúp cải tạo đất. Tuy nhiên, rất nhiều giống đang gặp nguy hiểm vì đang bị mất đi . Giống lợn bụng lang nổi tiếng của Việt Nam nay có vẻ thấy nhiều ở Anh và California hơn là ở trong những gia đình nông dân Việt Nam. Để đáp ứng các nhu cầu bảo tồn những giống tăng gia truyền thống, được nhận biết ở Việt Nam. Những hoạt động nhằm vào duy trì cơ sở nuôi tạo hiện có cho đến khi chúng đóng góp vào đa dạng của các gia súc có thể được đánh giá. Một chính sách quốc gia đang được xây dựng và sẽ dấn đến kết quả là kế hoạch hành động cho chương trình này cũng đa dạng và in ấn áp phích và tập gấp xác định rõ ràng về những loài này (dự án P2 bao trùm vấn đề này). Các vùng trọng điểm nơi cần phải kiểm soát kinh doanh là cảng Hồ Chí minh, Nha trang và Hải phòng, các sân bay quốc tế, các chợ ở thành phố Hồ Chí Minh, Buôn Ma Thuột và Hà Nội, cửa khẩu biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và biên giới Lào và Campuchia (dự án P10). 4.4 Kiểm soát cháy rừng Cần phải có các hoạt động sau đây phòng cháy rừng: Đề ra luật và quy chế bảo vệ rừng; Phát động chiến dịch truyền thông và các chương trình phổ cập; Chương trình canh tác trên đất dốc để giảm du canh (chỉ làm sau khi nghiên cứu văn hoá xã hội kỹ càng); Xây dựng các uỷ ban cấp làng, huyện, tỉnh chống cháy rừng gồm cả đội chữa cháy công cộng và tuần tra vào mùa cháy; Dự báo cháy, trồng rừng hoặc vành đai xanh cản lửa, xây dựng hồ chứa nước, tháp canh lửa; Tiến hành những biện pháp phòng cháy khác nhau như chuyển những vật dễ cháy đi nơi khác, dọn quang hoặc đốt trước những vành đai dễ cháy . Những quy chế cụ thể và đào tạo áp dụng kỹ thuật chữa cháy . Chương trình khá thành công và diện tích rừng bị cháy trong những năm qua ít hơn nhiều những năm trước. BAP không cần đề xuất thêm dự án bổ sung. Mỗi tỉnh cần phải thành lập kế hoạch chống cháy riêng của mình phù hợp với điều kiện và tài nguyên của địa phương. Việc bảo vệ cuộc sống của nhân dân và đội chống cháy phải được ưu tiên và kế hoạch phải có dự phòng để xử lý nhanh những người bị nạn. 4.5 Khôi phục sinh cảnh tự nhiên Trong những khu vực mà sinh cảnh quan trọng đối với bảo tồn đa dạng sinh học bị mất, hay ở nơi nào những mối liên kết sinh kết phải được phục hồi, thì phải thực hiện một chương trình phục hồi sinh cảnh thiên nhiên. Những hành động sau phải được thực hiện: i) Xác định khu vực: Công tác này phải được quyết định bởi việc xem xét về phương diện sinh học và những vấn đề về dân số học như mật độ dân cư, những khu vực dân tộc hay những ranh giới hành chính. Đặc tính của thảm thực vật và khu hệ động vật và khu vực gần diện tích có tầm quan trọng về sinh học hàng đầu bao gồm những khu rừng đặc dụng cũng cần phải được xem xét. Được đề xuất rằng những mảng tối thiểu cỡ 500 ha được coi là mảng nhỏ đòi hỏi được đầu tư quản lý nhiều hơn. Tuy nhiên giới hạn này có thể thay đổi theo điều kiện thực hiện của địa phương. Để thiết kế việc sử dụng đất trong tương, cần phải có những quyết định theo những tiêu chuẩn sau: Điều kiện thảm thực vật. Điều kiện thổ nhưỡng: Phải được xác định đặc điểm tốt hay xấu tuỳ thuộc vào đất có bị xuống cấp hay không do đã từng bị làm cho bạc màu . Tính dễ tiếp cận khu vực: Mức độ gần của khu vực tiếp cận với những trung tâm dân cư. Mức độ tập trung của những diện tích rừng bị phá, xuống cấp hay đất trồng: Nếu mảng tường trên 60% toàn bộ diện tích thì nó sẽ được quản lý sâu về phương diện kinh tế. ii) Đối với từng khu vực quản lý có những hành động thích hợp quyết định bởi: Xác định tính chất của những hệ thống đất và xác định tiềm năng sử dụng đất. Chọn lựa những đất thích hợp nhất sử dụng những giải pháp tiềm năng khác nhau trên cơ sở những nhân tố và hạn chết về kinh tế, tổ chức và xã hội . Một số phương pháp sử dụng đất hữu hiệu là: Rừng được quản lý Cây lớn ngắn ngày và rừng trồng lâu dài Tổ hợp nông lâm kết hợp Khai thác rừng có quản lý dẫn đến việc hình thành rừng nguyên sinh tự nhiên hoặc bán tự nhiên. Những khu không được xử lý cũng có thể mang lại hiệu quả trong một phương diện, ví dụ bãi cỏ chăn thả gia súc. Tiếp theo việc thiết kế việc sử dụng đất thích hợp, một bản đề xuất và kế hoạch phát triển cần được xây dựng để thực hiện. iii) Những giải pháp quản lý nguyên tắc hiện có là: Không xử lý Sản lượng tăng thông qua việc xử lý việc khai thác rút ngắn chu kỳ không hiệu quả. Sản lượng tăng thông qua phát triển và sử dụng lâm sản ngoài gỗ. Chuyển sang trồng rừng và nông lâm kết hợp. iv) Sự can thiệp cơ bản của kỹ thuật liên quan đến: Cải thiện đất đã khai thác thông qua những can thiệp về lâm sinh và những biện pháp khác. Phát triển những cây hữu ích trên đất thoái hoá và đất trồng thông qua việc trồng tăng cường và khai thác chọn. Cần phải tiến hành nghiên cứu chọn những loài sẽ túc đẩy việc hình thành thảm thực vật hữu ích (dự án C4). Có vè là phương pháp được thông qua chính là phương pháp quan tâm đến thành công "tự nhiên". Vì vậy cần phải được xem xét việc lựa chọn những loài thích hợp cần được thúc đẩy trước khi xem xét xác định loài cụ thể. Một khi đã xác định loài lựa chọn, những loài địa phương có thể được chọn theo cho có hiệu quả hay vì những giá trị khác do dân địa phương chỉ định. Việc thực hiện những hoạt động phục hổi cần phải: Dân địa phương tham gia và mang lại lợi ích cho họ Những nghĩa vụ nhiều mặt cải thiện đất kết hợp với những quyền lợi chủ đất được khai thác chúng và những đất khác theo thực tiến điều hoà. Tạo điều kiện đóng góp nhiều tài liệu và những đầu tư khác phù hợp với phương thức tốt nhất tạo thuận tiện thiết kế sử dụng đất. 4.6 Chương trình giảm sát đang dạng sinh học Một chương trình kiểm tra đa dạng sinh học cần được quyết định xem có áp dụng những quy chế và phương thức quản lý tiên tiến tác động tích cực đến bảo tồn đa dạng sinh học hay không. Chương trình kiểm tra bao gồm bảy nhân tố chính sau: Giám sát môi trường sống Viện đều tra quy hoạch (FIPI) sẽ tiếp tục giám sát những thay đổi hàng năm về độ che phủ rừng và mật độ rừng trên toàn đất nước bằng phương pháp điều tra viễn thám. Chương trình điều tra viễn thảm này kiểm chứng lại hàng loạt điều tra trên mặt đất của hơn 5000 khu vực điều tra phương vị trên toàn quốc. Để công việc này thành công. Viện điều tra quy hoạch rừng cần phải hợp tác và phối hợp với rất nhiều bộ và cơ quan điều tra c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnhung_moi_de_doa_doi_voi_da_dang_sinh_hoc.doc