Thu hoạch Áp dụng quản lý rủi ro trong quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Bắc Nội

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG 1 3

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HẢI QUAN BẮC HÀ NỘI 3

1.1. Vài nét về Chi Cục Hải Quan Bắc Hà Nội 3

1.2. Những điều kiện cần thiết để áp dụng quản lý rủi ro tại Chi cục hải quan Bắc Hà Nội 5

1.2.1. Hệ thống khuôn khổ pháp lý 5

1.2.2. Quy trình thủ tục hải quan 6

1.2.3. Nguồn nhân lực 7

1.2.4. Cơ sở vật chất 7

1.2.5. Hệ thống công nghệ thông tin 8

CHƯƠNG 2 9

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH THỦ TỤC HẢI QUAN TẠI CHI CỤC HẢI QUAN BẮC HÀ NỘI 9

2.1. Quy trình thực hiện quản lý rủi ro tại Chi cục hải quan Bắc Hà Nội 9

2.1.1 Thiết lập bộ tiêu chí quản lý rủi ro 9

2.1.2. Phân tích và xác định mức độ rủi ro 12

2.1.3. Xử lý rủi ro 15

2.2 Đánh giá hiệu quả áp dụng quản lý rủi ro vào quy trình thủ tục hải quan của Chi cục hải quan Bắc Hà Nội 16

2.2.1. Các kết quả đạt được 16

2.2.2 Một số vấn đề tồn tại 20

CHƯƠNG 3 24

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TẠI CHI CỤC HẢI QUAN BẮC HÀ NỘI 24

3.1. Xây dựng chiến lược quản lý sự thay đổi theo hướng quản lý rủi ro 24

3.1.1. Xây dựng quy trình thủ tục hải quan hiện đại 24

3.1.2. Phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa 25

3.1.3. Trang bị hệ thống máy móc, thiết bị làm việc hiện đại 26

3.1.4. Coi công nghệ thông tin là chìa khóa của thành công 26

3.2. Hoàn thiện quy trình quản lý rủi ro 27

3.3. Tăng chất lượng thông tin thu thập và thông tin tình báo hải quan 27

3.4. Tuyên truyền, giáo dục tính tuân thủ cho doanh nghiệp 28

3.5. Tăng cường hợp tác quốc tế 29

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

PHỤ LỤC : BỘ TIÊU CHÍ QUẢN LÝ RỦI RO PHỤC VỤ CÔNG TÁC QUẢN LÝ HẢI QUAN 32

 

 

doc41 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1933 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thu hoạch Áp dụng quản lý rủi ro trong quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Bắc Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như: Doanh nghiệp được ưu tiên làm thủ tục hải quan (thông tin về các doanh nghiệp được cấp thẻ ưu tiên do chấp hành tốt pháp luật hải quan được cập nhật thường xuyên trong hệ thống máy tính truyền từ cơ quan Tổng cục Hải quan xuống các đơn vị địa phương) Doanh nghiệp có được làm thủ tục hải quan hay không thông qua các thông tin về tình hình hoạt động (doanh nghiệp đang hoạt động bình thường hay đã bị giải thể, đóng cửa) và tình trạng nợ thuế của doanh nghiệp (doanh nghiệp có bị cưỡng chế làm thủ tục hải quan hay không) Doanh nghiệp được ân hạn thuế hay không dựa vào thông tin về tình trạng nợ thuế của doanh nghiệp. Nếu nợ thuế quá hạn theo quy định của pháp luật, các lô hàng làm thủ tục hải quan tiếp theo của doanh nghiệp sẽ không được tiếp tục hưởng thời gian ân hạn thuế. Lô hàng có thuộc diện phải kiểm tra thực tế theo quy định của pháp luật hay không Bước 2: Xác định mức độ rủi ro thông qua nhóm các tiêu chí tĩnh: Đối với những lô hàng không thuộc diện ưu tiên và không phải kiểm tra thực tế đã xác định ở bước 1, thông tin về lô hàng tiếp tục được tính toán mức độ rủi ro dựa trên các tiêu chí rủi ro tĩnh. Cụ thể như sau: Dựa trên tiêu chí khai báo của doanh nghiệp, đối chiếu với cơ sở dữ liệu các đối tượng rủi ro đã được tính toán trước (thông tin được truyền từ Tổng cục Hải quan xuống các đơn vị địa phương), hệ thống máy tính sẽ tự động tính mức độ rủi ro của từng tiêu chí. Mức độ rủi ro tổng thể của tập hợp tất cả các tiêu chí tĩnh tương ứng với một lô hàng cụ thể được tính toán dựa trên công thức sau: Trong đó: + R: mức độ rủi ro tổng thể + ri: mức độ rủi ro ước lượng của từng đối tượng + K: Tổng trọng số (là một hằng số) + ki: trọng số tương ứng với từng tiêu chí rủi ro + n = 6: tổng số nhóm tiêu chí đã được đề cập ở trên. Trọng số ki thể hiện mức độ bao trùm của các đối tượng rủi ro, có thể thay đổi ở cấp Tổng cục Hải quan. Việc thay đổi dựa trên cơ sở thông tin phản hồi về kết quả kiểm tra sau khi áp dụng công thức tính toán này. Ví dụ, nếu xác định yếu tố rủi ro doanh nghiệp là bao trùm thì trọng số rủi ro tương ứng với nó là cao nhất dẫn tới điểm số rủi ro chung đối với lô hàng tăng nhanh khi mức độ rủi ro doanh nghiệp cao. Tương tự như với các tiêu chí rủi ro khác. Mức độ rủi ro ri được tính toán, ước lượng trước theo nguyên tắc: mức độ rủi ro được đánh giá theo phương pháp cho điểm, cụ thể như sau: * Nhóm tiêu chí đánh giá phân loại doanh nghiệp: Tiêu chí ưu tiên cho điểm âm (-) để ưu đãi giảm mức độ rủi ro của doanh nghiệp, ví dụ doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan trong thời gian 02 năm (hoặc có số lượng từ 1000 tờ khai/năm trở lên): -20 điểm. Các tiêu chí rủi ro của doanh nghiệp: mức điểm cho đối với từng tiêu chí từ 3 đến 80 (tuỳ theo mức độ rủi ro của từng tiêu chí). * Các nhóm tiêu chí khác cho điểm theo 03 mức: rủi ro cao: 03 điểm, rủi ro trung bình: 02 điểm, rủi ro thấp: 01 điểm. Ngoài ra, bằng các công cụ phân tích rủi ro chung như phân tích tỷ số, phân tích chuỗi thời gian, phân tích hồi quy và phân tích tương quan… ,cơ quan hải quan so sánh kết quả đánh giá rủi ro thu được với định mức trung bình của rủi ro có thể chấp nhận được để nhận biết đối tượng có tiềm năng rủi ro cao, các yếu tố bất thường phát sinh và phân lô hàng vào một trong các hình thức kiểm tra sau: Lô hàng thuộc diện kiểm tra thực tế (luồng đỏ) Lô hàng thuộc diện kiểm tra chi tiết hồ sơ (luồng vàng) Chuyển qua bước 3 xác định lô hàng kiểm tra ngẫu nhiên Bước 3: Những lô hàng không thuộc diện 1 và 2 trong bước 2 ở trên sẽ được lấy ngẫu nhiên theo hàm toán học. Kết quả ở bước này sẽ lựa chọn và tiếp tục phân loại các lô hàng thành 2 diện: Lô hàng không phải kiểm tra thực tế và kiểm tra chi tiết hồ sơ (luồng xanh) Lô hàng thuộc diện phải kiểm tra ngẫu nhiên. Tiêu chí lấy ngẫu nhiên lô hàng để kiểm tra (Random parameters): thông qua hàm toán học đã được xây dựng và cài đặt sẵn trong máy tính, hệ thống máy tính sẽ tự động lọc tờ khai phát sinh trong ngày tại đơn vị làm thủ tục hải quan và đưa ra lô hàng phải kiểm tra thực tế một cách ngẫu nhiên. Tại mỗi đơn vị có thể số lượng lô hàng phải kiểm tra khác nhau, tiêu chí lựa chọn cũng khác nhau, tùy theo tình hình thực tế, nhưng tỷ lệ kiểm tra ngẫu nhiên không quá 5% tổng số tờ khai làm thủ tục hải quan trong ngày và tỉ lệ hàng hóa kiểm tra không quá 5% lô hàng phải kiểm tra thực tế. Bước 4: Hàng hóa sau khi thông quan sẽ được tiến hành kiểm tra sau thông quan để đánh giá độ chính xác, tính tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, làm căn cứ để hiệu chỉnh lại mức độ rủi ro ước lượng ri và trọng số rủi ro ki cho những lô hàng làm thủ tục hải quan sau. 2.1.3. Xử lý rủi ro Căn cứ vào kết quả tính toán mức độ rủi ro do máy tính xác định, với mức điểm rủi ro cao thì rủi ro của lô hàng cũng bị đánh giá cao hơn và lô hàng sẽ được phân thành 3 diện: Hàng hóa được miễn kiểm tra thực tế hàng hóa và kiểm tra chi tiết hồ sơ (hàng hóa thuộc luồng xanh) Hàng hóa được miễn kiểm tra thực tế và phải kiểm tra chi tiết hồ sơ (hàng hóa thuộc luồng vàng) Hàng hóa phải kiểm tra thực tế (hàng hóa thuộc luồng đỏ) * Hàng hóa thuộc luồng xanh: dành cho các đối tượng chấp hành tốt pháp luật hải quan, được cấp thẻ ưu tiên và chỉ phải chịu sự kiểm tra về tính đầy đủ, phù hợp về nội dung khai báo với các chứng từ có trong bộ hồ sơ hải quan theo quy định của pháp luật, không phải chịu sự kiểm tra thực tế hàng hóa * Đối với hàng hóa thuộc luồng vàng, mặc dù không thuộc diện phải kiểm tra thực tế như hàng hóa thuộc luồng đỏ, nhưng các cán bộ hải quan phải kiểm tra tính chính xác, sự phù hợp của các chứng từ trong bộ hồ sơ hải quan với các nội dung khai trong tờ khai hải quan về tên hàng, mã số, số lượng, chất lượng, trọng lượng, xuất xứ của hàng hoá, căn cứ kê khai thuế theo quy định, và kiểm tra việc thực hiện các quy định về thủ tục hải quan, về chính sách quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ và các quy định khác có liên quan. * Hàng hóa thuộc luồng đỏ: gồm hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của chủ hàng nhiều lần vi phạm pháp luật về hải quan hoặc hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện miễn kiểm tra thực tế nhưng cơ quan Hải quan phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan; hàng hóa qua kết quả phân tích thông tin của cơ quan hải quan xác định có khả năng vi phạm pháp luật hải quan, hàng hóa thuộc diện phải kiểm tra ngẫu nhiên. Hàng hóa thuộc diện này ngoài việc phải kiểm tra chi tiết hồ sơ như đối với hàng hóa luồng vàng còn phải chịu sự kiểm tra thực tế hàng hóa toàn bộ hay theo tỷ lệ, tùy theo mức độ rủi ro được đánh giá và được thực hiện trực tiếp bởi các cán bộ hải quan được phân công kiểm hóa. 2.2 Đánh giá hiệu quả áp dụng quản lý rủi ro vào quy trình thủ tục hải quan của Chi cục hải quan Bắc Hà Nội 2.2.1. Các kết quả đạt được * Quy trình thủ tục hải quan mới được đánh giá là hiện đại, phù hợp với quy định, chuẩn mực trong các công ước quốc tế nhằm hướng tới một môi trường lành mạnh, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và du khách nước ngoài. Việc cải cách thủ tục theo hướng quản lý rủi ro đã mang lại những lợi ích to lớn cho cộng đồng doanh nghiệp, môi trường hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và du lịch. Năm 2007, Chi cục làm thủ tục cho 11.500 tờ khai XNK với tổng kim ngạch đạt 480 triệu USD; làm thủ tục cho 24 cuộc triển lãm với tổng số 140 tờ khai, tổng trị giá là 3,99 triệu USD. Năm 2008, trong công tác chuyên môn nghiệp vụ, Chi cục đã làm thủ tục hải quan cho 23.246 bộ tờ khai XNK (gấp hơn hai lần năm 2006), với kim ngạch XNK đạt 1,26 tỷ USD (tăng hơn 93% so với năm 2006), tỷ lệ kiểm tra hàng hoá rút xuống còn 20%. Từ đầu năm 2007, Chi cục đã triển khai thực hiện khai báo điện tử qua mạng. Năm 2009, tỷ lệ khai báo điện tử đạt trên 90% về số lượng tờ khai góp phần giảm thiểu công việc của cán bộ hải quan trong điều kiện nhiệm vụ được giao ngày càng nhiều, trong khi biên chế của Chi cục thường xuyên bị giảm sút. Chi cục đã làm thủ tục cho gần 29.000 tờ khai XNK là với tổng kim ngạch XNK đạt 1,7 tỷ USD; giám sát tốt việc bán hàng cho các đối tượng được hưởng ưu đãi tại cửa hàng miễn thuế; giám sát và làm thủ hải quan cho 11 cuộc hội chơ, triển lãm với tổng trị giá đạt 18 triệu USD. Tính đến 15/10/2009, số thuế Chi cục thu được đạt 1.793.950 tỉ đồng, vượt chỉ tiêu được giao là 573.814 tỉ, tăng 162% so với cùng kỳ năm 2007 Bảng : Theo dõi tình hình XNK tại Chi Cục Hải Quan Bắc Hà Nội Năm Tờ khai Triển lãm Tổng trị giá 2007 11.500 24 483,99 triệu USD 2008 23.246 1,26 tỉ USD 2009 29.000 11 1,718 tỉ USD Nguồn: Chi cục hải quan Bắc Hà Nội ngày 15/10/2009 Quy trình thủ tục hải quan đơn giản, thông thoáng như cho phép khai báo hải quan trước khi hàng hóa nhập khẩu, phương tiện vận tải nhập cảnh đến cửa khẩu nhập; được tự kê khai, tự tính, nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các sắc thuế khác có liên quan trong thời hạn theo quy định của pháp luật… đã làm tăng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Chi cục chỉ kiểm soát, hướng dẫn doanh nghiệp tuân thủ pháp luật chứ không còn mang tính chất quản lý với nhiệm vụ ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật hải quan của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. * Tăng tính cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam thông qua việc giảm thời gian thông quan hàng hóa. Trong môi trường toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với những thách thức cạnh tranh rất lớn, nhất là khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Với những cải cách quy trình thủ tục hải quan, thời gian thông quan hàng hóa nhanh hơn, các chi phí lưu kho, lưu bãi phát sinh do thời gian làm thủ tục xuất nhập khẩu bị kéo dài đã giảm đáng kể. Nếu trước đây, thời gian làm thủ tục khai báo hải quan trung bình cho một lô hàng xuất khẩu phải mất từ 02 đến 03 giờ thì nay còn tối thiểu là 20 phút, tối đa không quá 40 phút, và thời gian tối thiểu đối với lô hàng nhập khẩu là 30 phút và tối đa không quá 60 phút, thay vì phải mất 1 ngày làm thủ tục, hoặc nhiều hơn, vì hầu hết hàng hóa đã được miễn kiểm tra thực tế. Năm 2008, trong tổng số 24.324 tờ khai loại hình xuất nhập khẩu bằng đường biển tại Chi cục, có 21.082 tờ khai được miễn kiểm tra thực tế hàng hóa (chiếm 86% tổng số tờ khai). * Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu tuân thủ các quy định của pháp luật. Áp dụng phương pháp quản lý rủi ro trong quy trình thủ tục hải quan, Chi cục tiến hành phân luồng hàng hóa dựa trên mức độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp và tính chất hàng hóa xuất nhập khẩu nhằm khuyến khích các đối tượng tham gia xuất nhập khẩu nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Doanh nghiệp được đánh giá là tuân thủ pháp luật tốt sẽ được tạo môi trường thuận lợi tối đa, được ưu tiên làm thủ tục hải quan đơn giản và nhanh hơn các doanh nghiệp khác. Theo thống kê của Chi cục, trong năm 2008, đã có trên 28.524 tờ khai hải quan làm thủ tục xuất nhập khẩu, trị giá tương đương 1.581 triệu USD, trong đó, số lô hàng phải kiểm tra chi tiết hồ sơ (luồng vàng) chiếm 15,4%; các lô hàng được ưu tiên làm thủ tục hải quan, không phải kiểm tra thực tế và kiểm tra chi tiết hồ sơ (luồng xanh) chiếm 70,2%. Tức là có tới 85,6% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu được miễn kiểm tra thực tế (trong đó, khoảng 90% hàng hóa xuất khẩu được miễn kiểm), chỉ có một lượng nhỏ khoảng 14,4% hàng hóa phải chịu sự kiểm tra của cơ quan hải quan, thay vì 80% hàng hóa nhập khẩu và khoảng 20% hàng hóa xuất khẩu phải kiểm tra thực tế như trước đây. Rõ ràng, kết quả trên cho thấy phương pháp quản lý mới tại Chi cục hải quan Bắc Hà Nội đã tạo môi trường quản lý đơn giản, thuận lợi, minh bạch hơn và nhận được sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng doanh nghiệp. Hơn nữa, nó còn khuyến khích doanh nghiệp làm ăn chân chính, tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật. * Hệ thống cơ sở dữ liệu đang dần được hình thành và hoàn chỉnh theo yêu cầu thực tế Hệ thống cơ sở dữ liệu là một trong những yếu tố đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quản lý rủi ro. Cơ sở dữ liệu càng nhiều, càng chuẩn xác thì kết quả phân tích, kiểm soát rủi ro càng hiệu quả. Đến nay, hệ thống dữ liệu đó đã được hình thành và đang dần từng bước hoàn thiện hơn, với danh bạ doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường xuyên, thống kê các hàng hóa có nguy cơ rủi ro và gian lận thương mại cao, các mặt hàng trọng điểm… là cơ sở cho các đơn vị hải quan địa phương tiến hành phân tích, xử lý rủi ro. * Nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân trong quy trình thủ tục hải quan. Trong quy trình thủ tục hải quan, các bước thủ tục đều được quy định rõ ràng, cụ thể. Do vậy, từng cá nhân phải nắm vững quy trình thủ tục và các văn bản liên quan, nâng cao trình độ chuyên môn, đồng thời, chủ động nghiên cứu, đề xuất xử lý tình huống vướng mắc với lãnh đạo, nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt các quy chế hoạt động theo quy định của pháp luật và phương châm hành động chung của các cán bộ công chức trong toàn ngành “Thuận lợi, tận tụy, chính xác”. Một trong những điểm mạnh của Chi cục trong suốt quá trình phát triển là luôn coi doanh nghiệp là đối tác hợp tác. Từ nhiều năm trước khi Luật Hải quan có hiệu lực thi hành, Lãnh đạo Chi cục đã chỉ đạo công chức trong Chi cục thực hiện việc phân loại doanh nghiệp để có biện pháp quản lý thích hợp. Đối với những doanh nghiệp có số thuế thu nộp cao, chấp hành tốt chính sách pháp luật, được Chi cục ưu tiên khi làm thủ tục hải quan. Hàng năm, Chi cục đều xây dựng kế hoạch cụ thể nhằm thu hút các doanh nghiệp có số thuế thu nộp cao, chấp hành tốt chính sách pháp luật. Việc phân loại doanh nghiệp của Chi cục phù hợp với xu hướng quản lý hải quan hiện đại. Ban lãnh đạo Chi cục đã mạnh dạn đề xuất và áp dụng những phương pháp quản lý mới, vừa không sai chế độ, chính sách, quản lý được hàng hoá XNK vừa tạo điều kiện thuận lợi cho Doanh nghiệp. Bên cạnh những kết quả thu được, quá trình thực hiện quy trình quản lý rủi ro cũng bộc lộ nhiều điểm bất cập cả về chính sách và con người, gây ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả triển khai và mục tiêu đặt ra. 2.2.2 Một số vấn đề tồn tại Về văn bản quy phạm pháp luật: Hải quan là cơ quan quản lý nhà nước về các lĩnh vực hải quan. Công cụ hỗ trợ công việc quan trọng nhất là hệ thống văn bản pháp luật. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn Luật còn nhiều, chồng chéo, không thống nhất và thường xuyên thay đổi. Đối với các cơ quan thực thi pháp luật, cụ thể là các Chi cục hải quan đại phương, các quy định của luật pháp càng chặt chẽ, rõ ràng thì càng có nhiều thuận lợi trong việc triển khai công việc quản lý. Mặt khác, tính hiệu quả, thiết thực, phù hợp với thực tiễn của các quy phạm pháp luật còn thể hiện trách nhiệm, tính nghiêm túc của người soạn thảo văn bản. Nếu luật pháp thay đổi thường xuyên sẽ gây khó khăn không chỉ cho những người làm nhiệm vụ quản lý nhà nước, mà các đối tượng chịu sự quản lý đó cũng gặp không ít phiền phức. Về quy định phân luồng hàng hóa: Một số quy định trong Luật và các văn bản hướng dẫn quy trình thủ tục hải quan, phân luồng hàng hóa còn cứng nhắc, khi nêu rõ nguyên tắc thực hiện chỉ được điều chỉnh từ thấp lên cao (từ luồng xanh sang luồng vàng, luồng đỏ, từ luồng vàng sang luồng đỏ), từ tỷ lệ kiểm tra ít sang tỷ lệ kiểm tra nhiều hoặc kiểm tra toàn bộ chứ không được điều chỉnh theo hướng ngược lại, trừ trường hợp máy tính xác định sai, nhưng khái niệm thế nào là xác định sai thì không được đề cập đến và các biện pháp, cách thức xác định rủi ro phát sinh để kiểm tra ngược lại máy tính cũng chỉ được phổ biến một cách chung chung tới các cán bộ làm nghiệp vụ trực tiếp. Hiện nay, phần mềm hệ thống quản lý rủi ro chưa được trải qua thực tiễn kiểm nghiệm, vẫn còn nhiều lỗi về kỹ thuật như chưa nhận biết được chính xác doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật về hải quan, sự thiếu đồng bộ giữa hệ thống quản lý rủi ro với hệ thống kế toán thuế và hệ thống quản lý số liệu xuất nhập khẩu, hệ thống quản lý thông tin vi phạm… đã dẫn tới hiện tượng phân luồng hàng hóa không chính xác, trong khi quy định về phân luồng hàng hóa lại rất cứng nhắc (như đã phân tích ở trên) nên gây ra không ít phiền phức. Không ít doanh nghiệp được cấp thẻ ưu tiên làm thủ tục hải quan nhưng trong hệ thống thông tin về doanh nghiệp do máy tính đưa ra vẫn xác định là doanh nghiệp không được ưu tiên và phải chịu sự kiểm tra chi tiết hồ sơ, kiểm tra thực tế hàng hóa như những doanh nghiệp không được ưu tiên khác. Một số trường hợp khác doanh nghiệp không nợ thuế xuất nhập khẩu, nợ phạt quá hạn, nhưng vẫn bị hệ thống máy tính báo cưỡng chế thủ tục. Chính sự không đồng nhất này đã gây khó khăn cho công tác đăng ký thủ tục hải quan, làm mất thời gian giải quyết vướng mắc của các cán bộ hướng dẫn thủ tục, đồng thời, gây ra rất nhiều phiền hà về phía doanh nghiệp và làm mất lòng tin của họ. Về bộ tiêu chí quản lý rủi ro: Bộ tiêu chí quản lý rủi ro gồm 76 tiêu thức, là sự tổng hợp của các Vụ, Cục chức năng thuộc Tổng cục Hải quan bước đầu đã giúp các cán bộ hải quan phân tích, xác định rủi ro và có cơ sở để xử lý rủi ro phát sinh. Tuy nhiên, nội dung các tiêu chí chưa đầy đủ và chưa rõ ràng, nhiều tiêu chí còn bị trùng lặp. Ví dụ như trong nhóm tiêu chí về thời gian hoạt động của doanh nghiệp thiếu hẳn tiêu chí đối với doanh nghiệp hoạt động và làm thủ tục hải quan thường xuyên trên 1 năm, hay như trong nhóm tiêu chí vốn kinh doanh không có tiêu chí nào dành cho doanh nghiệp có vốn kinh doanh trên 500 triệu đồng. Thậm chí, hình thức thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) rất quan trọng và phổ biến trong thanh toán quốc tế hiện nay nhưng không có trong bộ tiêu chí quản lý rủi ro. Về nguồn nhân lực quản lý rủi ro: Áp dụng phương pháp quản lý rủi ro hiện đại, Chi cục rất cần những con người mới có tư duy thay đổi kịp thời với phương thức quản lý mới. Ngoài ra, quản lý rủi ro rất cần những cán bộ có khả năng thu thập và phân tích các thông tin về rủi ro trong hệ thống cơ sở dữ liệu để các bước tiếp sau trong quy trình có cơ sở làm việc. Mặt khác, các cán bộ công chức tiếp xúc trực tiếp với đối tượng rủi ro cũng rất cần có tư duy phân tích để kiểm tra ngược lại tính chính xác các kết quả phân tích rủi ro do máy tính đưa ra. Nhưng thực tế cho thấy khả năng thu thập, phân tích và xử lý thông tin về rủi ro của các cán bộ công chức làm nghiệp vụ trực tiếp còn thấp. Tổng cục Hải quan vẫn chưa tổ chức được nhiều tập huấn chính thức đào tạo về lĩnh vực này cho các cán bộ công chức. Tại Chi cục, hiện mới có 5 đồng chí được đi học lớp huấn luyện về quản lý rủi ro trong lĩnh vực hải quan. Về hệ thống công nghệ thông tin Phân tích thông tin, phân luồng rủi ro hoạt động chủ yếu dựa vào hệ thống công nghệ thông tin. Đó có thể được coi là công cụ chiến lược khi triển khai phương pháp quản lý mới. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông tiên tiến sẽ giúp đơn giản hóa thủ tục hải quan, tăng mức độ minh bạch, khách quan, loại bỏ những cơ hội lạm dụng quyền hành trái phép của công chức hải quan, đảm bảo áp dụng nghiêm các quy trình thủ tục chuẩn mực đã được quốc tế công nhận. Tuy nhiên, hệ thống phần mềm máy tính hiện nay hoạt động chưa ổn định, còn mắc lỗi và đang trong quá trình hoàn thiện, nâng cấp như các lỗi về phân luồng hàng hóa, về sự đồng bộ, thống nhất giữa các chương trình phần mềm đa chức năng quản lý số liệu, dữ liệu, thông tin về hàng hóa và doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các yêu cầu khai thác thông tin từ hệ thống quản lý vẫn chưa đáp ứng được thực tế… Đường truyền dữ liệu giữa Tổng cục và các Cục hải quan với Chi cục cũng chưa thật sự ổn định, băng thông còn hạn chế nên nhiều khi xảy ra tình trạng nghễn mạng nội bộ, không thể truy cập được. Hoặc do sự thiếu trách nhiệm một cách vô ý hoặc cố ý của các cán bộ Chi cục nên đã xảy ra tình trạng virus xâm nhập vào hệ thống nghiệp vụ, phá hủy cơ sở dữ liệu, làm cho các hoạt động nghiệp vụ bị gián đoạn. Ban lãnh đạo Chi cục đã có các biện pháp nhắc nhở, răn đe để tình trạng trên không tiếp tục tái diễn. Ngoài ra còn có một số hạn chế khác như Trình độ của doanh nghiệp chưa đồng đều và chưa cao nên khi áp dụng phương pháp quản lý mới, do không nắm bắt được quy trình thủ tục, doanh nghiệp thường có những thắc mắc và hiểu lầm không tốt về Chi cục, khiến cán bộ Chi cục phải mất thời gian để giải trình với cấp trên và giải đáp các vướng mắc đó với doanh nghiệp. Các cán bộ, công chức hải quan luôn phải đối mặt trực tiếp với rủi ro do sự thông thoáng của Luật Hải quan rất dễ tạo kẽ hở cho doanh nghiệp lợi dụng để thực hiện hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa cấm xuất nhập khẩu, hay xuất khẩu, nhập khẩu lượng hàng không đúng với khai báo nhằm hưởng chênh lệch về các khoản thuế phải nộp… nhưng pháp luật không có quy định loại trừ nào cho họ. Nếu những sai phạm nghiêm trọng của doanh nghiệp bị cơ quan điều tra phát hiện và khởi tố thì các công chức hải quan có liên quan sẽ bị xử lý, kỷ luật do thiếu tinh thần trách nhiệm, gây hậu quả nghiêm trọng… Chưa có kinh phí cho công tác đòi nợ thuế. Tính đến 31/12/2008, Chi cục đã cử cán bộ trực tiếp đến 22 doanh nghiệp và đã gửi 75 thông báo và gửi công văn cho 16 Chi cục thuế và Cục thuế địa phương phối hợp đòi nợ thuế của 50 doanh nghiệp. Kết quả Chi cục đã thu được 35 tỉ đồng nợ thuế. Số thuế thu đòi còn có thể nhiều hơn nếu sự phối hợp với các cơ quan hữu quan hiệu quả hơn và kinh phí dồi dào hơn. Mặc dù vậy, phương pháp quản lý rủi ro áp dụng trong quy trình thủ tục hải quan là một phương pháp quản lý hiện đại, tiện ích, tạo sự thuận lợi cho thông quan hàng hóa tai Chi cục nói riêng và toàn ngành Hải quan nói chung. Những hạn chế phân tích ở trên là những tồn tại chung,không chỉ tại Chi cục hải quan Bắc Hà Nội, rất mong các nhà quản lý rủi ro của ngành hải quan sớm nhận biết được các hạn chế đó và cần sớm khắc phục để phương pháp này phát huy được hiệu quả cao hơn. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TẠI CHI CỤC HẢI QUAN BẮC HÀ NỘI Với những vấn đề còn tồn tại đã nêu tại mục 2.3.3.2 chương 2, trong phạm vi đề tài này, tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tại Chi cục hải quan Bắc Hà Nội. Cụ thể như sau: 3.1. Xây dựng chiến lược quản lý sự thay đổi theo hướng quản lý rủi ro Trước sự phát triển nhộn nhịp và biến động thường xuyên của hoạt động thương mại quốc tế, Chi cục phải có những thay đổi kịp thời để thích nghi và không bị tụt hậu. Vì vậy, dù phải đối mặt với khối lượng công việc rất lớn từ chuẩn bị nhân sự, nguồn lực… nhưng xây dựng chiến lược quản lý sự thay đổi là việc làm thiết thực và cần tiến hành ngay để phát huy tối đa những lợi ích thay đổi đó. Trước hết, chiến lược quản lý sự thay đổi cần phải tập trung vào các vấn đề sau: 3.1.1. Xây dựng quy trình thủ tục hải quan hiện đại Điều quan trọng trong việc xây dựng các quy trình thủ tục hải quan hiện đại là phải đơn giản hóa cho cả cơ quan hải quan và các bên có liên quan, tạo thuận lợi cho hải quan, nhưng không được gây khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp. Quá trình này không dễ dàng, Chi cục cần có kiến nghị, đề xuất để nhận được sự hỗ trợ từ Cục hải quan Thành phố Hà Nội, Tổng cục Hải quan và nhiều cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan. Thứ nhất, có thể đơn giản hóa thủ tục bằng cách cho phép doanh nghiệp được thông quan hàng hóa trước khi hàng đến. Dựa trên cơ sở tự đánh giá, các doanh nghiệp tuân thủ khai báo hồ sơ, giải quyết các vấn đề vướng mắc trước khi hàng đến thông qua hệ thống khai báo điện tử. Chi cục sẽ có nhiều thời gian hơn để đánh giá rủi ro và kiểm tra hàng hóa nếu cần thiết, còn doanh nghiệp chủ động hơn trong các kế hoạch vận chuyển, cung cấp hàng hóa để kiểm tra với chi phí thấp hơn, làm giảm áp lực công việc cho cả hải quan và doanh nghiệp. Ngoài ra, khuyến khích doanh nghiệp thực hiện giao dịch, khai báo điện tử cũng góp phần làm giảm bớt các thủ tục giấy tờ trong bộ hồ sơ, giảm chi phí luân chuyển và lưu trữ hồ sơ trong nội bộ hải quan. Thứ hai, việc thu nộp thuế xuất nhập khẩu, lệ phí thủ tục của doanh nghiệp có thể đơn giản hơn nếu luật pháp cho phép doanh nghiệp thanh toán một lần các khoản nợ trong tháng thay vì phải thanh toán từng lô hàng riêng rẽ theo thời gian ân hạn thuế như quy định hiện hành. Việc này không gây ảnh hưởng đáng kể nào tới hoạt động thu ngân sách nhà nước của cơ quan hải quan mà còn giúp doanh nghiệp giảm thời gian theo dõi nợ thuế. Mặt khác, hệ thống thanh toán thuế mới còn tạo thuận lợi cho việc phát triển các Đại lý khai thuê hải quan thành một ngành nghề thực sự và góp phần chia sẻ rủi ro thu thuế xuất nhập khẩu giữa cơ quan hải quan với các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nhất là trong hoàn cảnh hiện nay, khi kinh phí cho việc đòi nợ thuế còn eo hẹp nếu không muốn nói là chưa có, thì việc này càng trở nên có ý nghĩa. Tuy nhiên, khi mới triển khai, hệ thống thu thuế này chỉ nên áp dụng với các doanh nghiệp, các đại lý lớn có mức độ rủi ro tài chính thấp và có sự tham gia bảo lãnh của ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính có uy tín, chứ không phải cho tất cả các đối tượng, như các doanh nghiệp, đại lý khai thuê nhỏ, hoạt động không thường xuyên sẽ không được khuyến khích áp dụ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docÁp dụng quản lý rủi ro trong quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Bắc Nội.doc