Tiểu luận Lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu - là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất. Mặc dù Chính phủ đã cố gắng kiểm soát giá xăng dầu, nhưng từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng 58%. Điều này đã tác động làm chi phí sản xuất tăng cao.

Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung lương thực - thực phẩm bị sụt giảm.

Thứ ba: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã khuyến khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình quân từ 2005 đến 2007 tăng trên 8,01%. Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trong làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay,chuyển đổi mô hình, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập thêm các ngân hàng mới và tất cả các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm lợi nhuận từ nghiệp vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008, đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua.

 

doc18 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2200 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực tế ước đạt 447,3 nghìn tỉ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì còn tăng 8%). Như vậy, mức tăng này thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm trước 15%. Giá tiêu dùng tháng 6-2008 đã chững lại ở mức tăng 2,14% so với tháng 5-2008. Đây là tháng có mức tăng thấp nhất trong 6 tháng đầu năm nay, nhưng là mức tăng cao nhất so với chỉ số giá tháng 6 của một vài năm gần đây. Giá vàng và đô-la Mỹ tăng, giảm không ổn định trong 6 tháng đầu năm nay. Tình hình đầu tư: Vốn đầu tư thực hiện 6 tháng đầu năm 2008 theo giá thực tế ước đạt 265,4 nghìn tỉ đồng( tăng 21,1% so với cùng kỳ năm ngoái), bao gồm vốn khu vực nhà nước đạt 106,1 nghìn tỉ đồng, tăng 15,2%; vốn khu vực ngoài nhà nước đạt 80 nghìn tỉ đồng, tăng 15,1%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 79,3 nghìn tỉ đồng, tăng 37,7%. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng cao, tính từ đầu năm đến ngày 20-6-2008, có 478 dự án đầu tư nước ngoài mới được cấp phép với số vốn đăng ký 30,9 tỉ USD. Tuy giảm so với cùng kỳ năm ngoái 29,5% về số dự án, nhưng tăng 324,3% về số vốn. Mức vốn đăng ký bình quân một dự án đạt 64,7 triệu USD, cao hơn cùng kỳ năm trước 53,9 triệu USD so với một dự án. Nếu tính cả 661,2 triệu USD cấp bổ sung của 158 lượt dự án đã được cấp phép trước đây thì tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước trong 6 tháng đầu năm đạt 31,6 tỉ USD, gấp hơn 3,7 lần so với cùng kỳ năm trước, vượt xa con số 21,3 tỉ USD đầu tư nước ngoài vào Việt Nam của cả năm 2007. Giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2008 theo giá so sánh 1994 đạt 93,1 nghìn tỉ đồng, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, nông nghiệp tăng 3,4%; lâm nghiệp tăng 0,9% và thủy sản tăng 8,7%. Kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng hóa tháng 6-2008 ước tính đạt 5,5 tỉ USD, giảm 4,4% so với tháng trước, nhưng tăng 32,9% so với cùng kỳ năm 2007. Tính chung 6 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 29,7 tỉ USD, tăng 31,8% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của 6 tháng đầu năm ước đạt 44,5 tỉ USD, tăng 60,3% so với cùng kỳ năm 2007. (nguồn Tình hình kinh tế vĩ mô 6 tháng năm 2008-BIDV) (bảng số liệu so sánh với các nước trên thế giới) --àđánh giá: 2.Lạm phát: 2.1Tình hình lạm phát Việt Nam năm 2007, 6 tháng đầu năm 2008 2.1.1 Năm 2007 Hiện tượng lạm phát phi mã gần đây ở VN có tất cả những dấu hiệu của lạm phát ở các nước chậm tiến hay đang phát triển, đã được nhiều chuyên gia và các tổ chức quốc tế đề cập đến và cảnh báo khá nhiều Theo đó CPI tháng 2/2007 so với tháng 1/2007 chỉ là 2,17% và lạm phát 2 tháng đầu năm 2007 chỉ ở 1 con số là 6,5%. Hiện tượng giá cả thị trường tăng nhanh trong 6 tháng đầu năm 2007 đã gây nên nhiều lo ngại. Sau hai năm liên tục ở mức cao (9,5% năm 2004 và 8,4% năm 2005), lạm phát dường như đã có dấu hiệu suy giảm và chỉ còn 6,6% năm 2006. Tuy nhiên, áp lực lạm phát lại bùng phát ngay từ đầu năm 2007. Trong 6 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 5,2%. Nếu so với 6 tháng năm 2006, chỉ số giá tiêu dùng tăng 7,8%. Hầu hết các nhóm hàng đều có mức tăng giá cao so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 8,34%, nhóm hàng ăn - dịch vụ ăn uống tăng 6,8%. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam và các nước trong khu vực Đây được coi là mối quan ngại lớn về kinh tế vĩ mô hiện nay bên cạnh các dấu hiệu tích cực như tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP), xuất khẩu, đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài. Nếu so sánh với các nước trong khu vực, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam cao hơn khá nhiều. ** Trong 6 tháng cuối năm 2007, lạm phát tiếp tục gia tăng ở mức báo động. lạm phát phi mã tưởng chừng không thể nào dừng lại được. Hầu hết 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng đều tăng. Trong 11 nhóm hàng hóa, dịch vụ, nhóm thực phẩm (chiếm tỷ trọng lớn nhất trong "rổ" hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng) giá tăng cao nhất (tháng 12 tăng tới 4,69%, cả năm tăng tới 21,16%). Nhóm lương thực (nhóm chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong "rổ" hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng) có giá tăng cao thứ ba (tháng 12 tăng 2,98%, cả năm tăng 15,4%). Giá nhà ở và vật liệu xây dựng (gồm tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng) tháng 12 tăng 3,28%, cả năm tăng tới 17,12% (cao thứ hai sau nhóm thực phẩm). Giá vật liệu xây dựng tăng cao đã làm cho giá bất động sản tăng kép (tăng do giá đất tăng, tăng do giá xây dựng tăng), khác với các lần sốt trước chỉ có giá đất tăng. Giá phương tiện đi lại, bưu điện tháng 12 tăng 4,38%, nhưng nếu không kể giá bưu điện giảm (- 0,77%) thì giá phương tiện đi lại còn tăng cao hơn nữa, do giá xăng dầu tăng cao. Đây mới là tháng 12 giá xăng dầu trực tiếp tăng (vào cuối tháng 11) Đáng lưu ý là tốc độ tăng giá tiêu dùng đã cao hơn nhiều so với lãi suất huy động tiết kiệm, nhất là lãi suất huy động tiết kiệm của các ngân hàng thương mại nhà nước (lãi suất cả năm chỉ dưới 8%); ngay các ngân hàng thương mại cổ phần có lãi suất trên dưới 9%/năm thì cũng thấp hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng. Biểu đồ thể hiện chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam qua các năm: 2.1.2 Sáu tháng đầu năm 2008 Lạm phát ở Việt Nam đến thời điểm này, hiện đang cao nhất khu vực, bất chấp các nước khác có cùng điều kiện quốc tế khách quan chung, nhưng dù cao như Trung Quốc cũng chỉ nhỉnh hơn 1/3 của Việt Nam (8,5% của Trung Quốc so với 25% của VN so cùng kỳ), phần lớn các nước khác như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore…tính đến nay CPI của họ chỉ “cao” bằng ¼ của Việt nam! CB Richard Ellis Group, công ty môi giới bất động sản lớn nhất thế giới, tháng 2/2008 công bố giá thuê văn phòng tại Việt Nam cao nhất châu Á. Đến hết tháng 5/2008, lạm phát ở Việt Nam đã là 15,96% so với 31/12/2007 và 25% so cùng kỳ năm trước - Mức cao nhất trong 15 năm quakểtừ1993!... Tuy nhiên, sau nhiều gói biện pháp hạn chế lạm phát của chính phủ và ngân hàng nhà nước, tình hình lạm phát ở Việt Nam đã có phần “giảm nhiệt”. Lạm phát tháng 6/2008 đã giảm mạnh: Tháng 6 chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,14%, là mức thấp nhất trong 6 tháng qua và không có cơn sốt giá nào xảy ra, 6 tháng đầu năm chỉ số giá tăng 18,44%. Yếu tố làm chỉ số giá tăng thấp có nguyên nhân quan trọng là giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 6 chỉ tăng 3,29%, đây là nhóm hàng quyết định tới khoảng 80% mức tăng chỉ số giá. Chỉ số giá tiêu dùng các tháng đầu năm 2008: tháng 1 là 2,38%; Tháng2: 3,56%; Tháng3: 2,99%; Tháng4: 2,2% và tháng 5 là 3,91% Tình hình lạm phát 6 tháng đầu năm 2008(đơn vị%) 2.2 Nguyên nhân: 2.2.1Các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu: Thứ nhất: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia tăng: Trong 4 năm từ 2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm các nước “mới nổi” ở khu vực Châu á, nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị quân sự tại khu vực Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử 110 USD/thùng trong tháng 3/2008, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng. Như vậy, giá dầu đã tăng 72%, sắt thép tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95% kể từ đầu năm 2007 đến tháng 3/2008 và đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước tới nay. Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh trên thế giới - là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả những điều trên làm sản lượng lương thực - thực phẩm ngày càng giảm mạnh. Ngoài ra, giá năng lượng tăng cao đã khiến nhiều nước sử dụng một sản lượng lớn ngũ cốc chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm cho nguồn cung lương thực đã giảm càng giảm sút. Thứ ba: Một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu: Trước việc giá dầu và giá lương thực - thực phẩm liên tục leo thang đã tạo nên cú sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đã buộc các NHTW phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật Bản tăng 1 lần từ 0,25%- 0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5%-3,75%-4,0%/năm; Anh tăng 3 lần từ 5%-5,5%/năm (trong đó có 1 lần giảm); Thuỵ Điển tăng 4 lần từ 3,0%-4,0%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12-7,47%/năm. Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất chủ đạo cùng với việc giá dầu, giá lương thực - thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đã đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái vào những tháng đầu năm 2008, mà biểu hiện là cuộc khủng hoảng cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ bắt đầu từ tháng 7/2007. Trước bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó riêng Mỹ từ tháng 8/2007 đến nay đã phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở lại đây như Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vãn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là cùng một bối cảnh thế giới như nhau, tại sao các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia lại có mức lạm phát thấp hơn so với lạm phát của Việt Nam? Vậy, mức lạm phát của Việt Nam tăng cao trong thời gian vừa qua ngoài những yếu tố thế giới thì còn những nguyên nhân nào khác? 2.2.2 Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam: Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu - là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất. Mặc dù Chính phủ đã cố gắng kiểm soát giá xăng dầu, nhưng từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng 58%. Điều này đã tác động làm chi phí sản xuất tăng cao. Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung lương thực - thực phẩm bị sụt giảm. Thứ ba: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã khuyến khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình quân từ 2005 đến 2007 tăng trên 8,01%. Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trong làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay,chuyển đổi mô hình, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập thêm các ngân hàng mới và tất cả các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm lợi nhuận từ nghiệp vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008, đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua. So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100%. Cung tiền đo bằng M2 (gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng) (Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng số liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của Việt Nam và Trung Quốc lấy từ nguồn Economist Intelligent Unit.) Thứ tư: Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào thị trường chứng khoán, trái phiếu đặc biệt là đổ vào IPO các doanh nghiệp nhà nước lớn. Đứng trước bối cảnh này, Ngân hàng nhà nước đã phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, tác động làm lạm phát gia tăng. nguồn Tổng Cục Thống kê Tổng vốn ODA ký kết tính đến 20/7/2008 đạt 1389 triệu USD, trong đó vốn vay đạt 1277 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại đạt 112 triệu USD. Giải ngân vốn ODA 7 tháng đầu năm nay (bao gồm cả vốn được ký kết trước 2008) đạt 1205 triệu USD, bằng 63% kế hoạch năm, trong đó vốn vay đạt 1063 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại đạt 142 triệu USD. Trong tổng vốn giải ngân, vốn vay của 3 nhà tài trợ lớn là WB, JBIC, ADB đạt mức giải ngân cao nhất với 850 triệu USD, chiếm 70% tổng vốn giải ngân 3.Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng: Như đã nói ở trên,bất kì quốc qia nào cũng mong muốn tăng trưởng cao,lạm phát thấp.Tuy nhiên,muốn tăng trưởng cao hơn thì phải tăng đầu tư, tăng chi ngân sách, hạ lãi suất cho vay, kích cầu tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu… nhưng nếu làm như vậy thì lạm phát sẽ tăng. Muốn lạm phát thấp, thì phải thắt chặt chi ngân sách, thắt chặt đầu tư, tiêu dùng, tăng lãi suất cho vay, tăng dự trữ bắt buộc, giảm thuế suất thuế nhập khẩu… nhưng như thế thì tăng trưởng kinh tế sẽ không cao 3.1Vậy thực chất của quan hệ giữa lạm phát với tăng trưởng là gì? 3.1.1 Tác động của tăng trưởng đến lạm phat: Lãi suất Mức giá MS1 MS2 P2 R1 P1 AD2 R2 AD AD1 Lượng tiền y1 y2 Y -Khi ngân hàng TW tăng lượng cung tiền MS1 lên MS2,lãi suất giảm từ R1 xuống R2,khi lãi suất giảm,đầu tư tăng dẫn đến làm cho tổng cầu tăng kéo theo sản lương tăng-> tăng trưởng kinh tế.Nhưng theo đó giá cả cũng tăng lên dẫn đến lạm phát. p AS P1 P2 AD2 AD1 Y -Để đạt mục tiêu tăng trướng,chính phủ sử dụng biện pháp kích cầu,kích thích nhu cầu tiêu dùng của người dân,làm cho đường cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2,khi đó sản lượng tiêu dùng gia tăng,tăng tốc độ tăng trưởng đồng thời giá tăng dấn đến lạm phát. 3.1.2 Ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng: Trong quan niệm của nhiều người, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế vì làm giảm năng suất lao động. Lạm phát bóp méo mức độ khan hiếm tương đối (phản ánh qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo các quyết định đầu tư và sự phân bổ các nguồn lực khan hiếm này. Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích lũy vốn, dẫn đến giảm năng suất. Hàm lượng thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm đi kể cả trong thời kỳ lạm phát ổn định. Tuy nhiên, không ít người lại lập luận rằng lạm phát ở một mức nhẹ lại có tác dụng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, nhà kinh tế học nổi tiếng Tobin cho rằng lạm phát làm cho nhà đầu tư tái phân bổ danh mục đầu tư của mình từ tiền sang chứng khoán, làm giảm lãi suất thực tế và do đó làm tăng đầu tư và nâng cao năng suất lao động. Ông lập luận thêm rằng “một chút lạm phát giúp bôi trơn nền kinh tế” vì nó giúp thị trường lao động điều chỉnh cho phù hợp. Một số khác cũng chỉ ra rằng nhu cầu tăng lên ổn định sẽ gây ra lạm phát ở mức nhẹ, là cái mà thực ra lại làm tăng, chứ không phải giảm, năng suất lao động và, do đó, tăng tốc độ tăng trưởng. Vì thế, động thái nhằm đạt mức lạm phát bằng 0 chẳng qua là chính sách trả trước ngay bây giờ cho nhiều thiệt hại hơn sau này. Từ một khía cạnh khác, một số người cho rằng lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế nếu xét đến mối quan hệ giữa tính bất trắc của lạm phát trong tương lai với tăng trưởng sản lượng. Họ cho rằng tính bất trắc của lạm phát càng cao thì tăng trưởng sản lượng càng thấp. Sở dĩ có điều này bởi vì nhà sản xuất khai thác triệt để tính bất đối xứng về thông tin trên thị trường – thông tin có được của người tiêu dùng bị hạn chế so với nhà sản xuất – để tăng biên độ lợi nhuận, do đó làm tăng doanh thu kể cả cho những nhà sản xuất không thật sự hiệu quả. Việc phân bổ các nguồn lực sản xuất tới những nhà sản xuất không hiệu quả như vậy sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng. Nhưng ngược lại với dòng lập luận này, một số nhà kinh tế chỉ ra rằng tính bất trắc của lạm phát lại có tác động tích cực đến tăng trưởng, nhờ vào động thái tăng tiết kiệm để phòng ngừa lạm phát. Họ cũng chỉ ra thêm rằng trên thực tế, quan hệ nhân quả giữa hai biến số này là không nhất quán ở từng trường hợp nghiên cứu quốc gia. Như vậy có thể nói rằng về lý luận, quan hệ nhân quả giữa lạm phát với năng suất lao động và/hoặc tăng trưởng chưa hoàn toàn sáng tỏ. Thực tế, kết quả nghiên cứu thực chứng trong nhiều nghiên cứu cấp quốc gia và nhóm quốc gia cũng chỉ ra một quan hệ phức tạp giữa 2 nhóm biến số này. Các nghiên cứu thực chứng ban đầu chỉ tập trung vào nhóm G7, hoặc các nước trong tổ chức OECD, và kết quả nghiên cứu không chỉ ra được một kết luận rõ ràng về quan hệ này. Tùy theo dữ liệu sử dụng là chuỗi thời gian (cho trường hợp nghiên cứu từng quốc gia cụ thể), hay dữ liệu cho nhóm quốc gia sẽ có các kết quả đối ngược nhau. Về sau này, một số tác giả bắt đầu nghiên cứu thêm nhóm các nước ở châu Á. Kết quả nghiên cứu cũng không khác mấy so với kết quả từ các nghiên cứu trước đó đối với nhóm OECD hay G7. Cụ thể, ở một số nước như Nhật, Thái Lan, Sri Lanca, Philippines, và Indonesia, lạm phát và năng suất không hề có quan hệ gì với nhau. Ở một số nước khác như Malaysia, lạm phát có tác động tiêu cực đến năng suất. Ở những nước như Hàn Quốc, Ấn Độ, và Singapore, 2 biến số này tác động lẫn nhau. Căn cứ vào kinh nghiệm của những quốc gia như nêu trên, có thể rút ra một số bài học cho Việt Nam liên quan đến MTLP ở ta như hiện nay: Ảnh hưởng của lạm phát là không rõ ràng lên tăng trưởng kinh tế. Theo nghiên cứu của một số nhà kinh tế học thì lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ phi tuyến tính: -Lạm phát chỉ tác động tiêu cực lên tăng trưởng khi đạt ngưỡng nhất định nào đó(threshold). +Dấu hiệu bất ổn kinh tế vĩ mô. +Tăng sự không chắc chắn của các hoạt động đầu tư. +Lạm phát làm thay đổi giá cả tương đối,làm méo mó quá trình phân bổ nguồn lực. +Lạm phát còn được xem như là một loại thuế đánh vào nền kinh tế. -Ở mức dưới ngưỡng,lạm phát không nhất thiết tác động tiêu cực lên tăng trưởng,thậm chí có thể tác động dương như lý thuyết của Keynes đã đề cập. 3.1.3 Với Việt Nam a-Mục tiêu và chính sách tăng trưởng của Việt Nam năm 2008: Về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2008, báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra dự kiến GDP tăng từ 8,6-8,9% so với năm 2007; tổng giá trị GDP khoảng 83 tỉ USD, bình quân đầu người tương đương khoảng 956-960 USD, giảm tỉ lệ hộ nghèo xuống còn 13%... Để hoàn thành các mục tiêu này, Thủ tướng đặc biệt nhấn mạnh 8 nhóm giải pháp cần tập trung thực hiện. Trước hết là huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, đặc biệt là đầu tư cho cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Đây là yếu tố có ý nghĩa quyết định cho tăng trưởng. Về điều hành vĩ mô, phải giữ cho được ổn định tỷ giá, chỉ số giá tiêu dùng phải thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và không vượt mức 8%; tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, phát triển khu vực doanh nghiệp tư nhân; đẩy mạnh công tác cải cách hành chính; tập trung quy hoạch và phát triển đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập; tăng cường xã hội hoá trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội, trong đó ưu tiên xoá đói giảm nghèo; tăng cường an ninh quốc phòng và đấu tranh phòng chống tham nhũng lãng phí. b- Lạm phát và chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ và ngân hàng nhà nước: Những chính sách trợ giá thiếu hiệu quả của nhà nước hiện nay tạo nên một “thuế lạm phát” tác động trực tiếp vào những người nghèo, vô hình chung giúp người giàu “bóc lột” người nghèo một cách hợp pháp làm cho phân hóa giàu nghèo trở nên trầm trọng hơn. Tình hình lạm phát hai tháng cuối năm và những tháng đầu năm có thể tiếp tục tăng cao do cung tiền đô-la tiếp tục tăng cao do lượng ngoại hối sẽ được các Việt Kiều mang về nước tiêu xài trong dịp cuối năm và Tết âm lịch cộng với giá dầu tăng cao sẽ làm cho tình hình lạm phát ngày càng trầm trọng hơn. Theo tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, để đạt được mục tiêu “lạm phát thấp hơn tốc độ tăng trưởng” (mà trên thực tế không hề có cơ sở khoa học vững chắc) thì khi lạm phát tăng, Chính phủ chỉ có thể có một trong hai lựa chọn: Một là kiềm chế lạm phát bằng cách giảm tốc độ tăng cung tiền và tín dụng (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả), đồng thời giảm bớt chi tiêu của Chính phủ (bằng cách tăng hiệu quả chi tiêu, giảm lãng phí và thất thoát), hay thậm chí phải điều chỉnh lãi suất. Hai là phải dồn sức đẩy mạnh tăng trưởng để “đuổi kịp” lạm phát. Có vẻ như cho đến thời điểm này, phương án 1 chưa phải là lựa chọn của Chính phủ; còn phương án 2 nếu được thực hiện sẽ chỉ tiếp tục đổ thêm dầu vào ngọn lửa lạm phát. Dưới góc độ quản lý nhà nước, không nên để một mục tiêu thiếu cơ sở khoa học như thế này trở thành một chiếc “vòng kim cô” trói buộc các nhà điều hành vĩ mô. Hiện nay chưa tìm thấy căn cứ khoa học cho luận điểm nêu trên, do đó, chúng ta không nên tự ràng buộc mục tiêu lạm phát vào một giới hạn khá dễ dãi (khoảng 8%), để rồi lại bị cuốn vào nỗi lo con rồng sẽ giật đứt dây xích như hiện nay” Những diễn biến thực tế của nền kinh tế Việt Nam hiện nay cho thấy mục tiêu “lạm phát thấp hơn tăng trưởng” đang trên đà “phá sản”, việc tiếp tục theo đuổi chính sách bất hợp lý và thiếu cơ sở khoa học vững chắc này sẽ làm cho tình trạng lạm phát ngày càng trầm trọng hơn. Hơn bao giờ hết phương án: hy sinh tốc độ tăng trưởng bằng cách giảm cung tiền và tín dụng đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước để giảm lạm phát cần được chính phủ lưu tâm đến. Nếu không với tốc độ lạm phát tăng cao trong những tháng cuối năm sẽ tiếp tục tăng cao và khi mà dân nghèo không thể mua “ổ bánh mì” thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định xã hội. (. Chính vì mối quan hệ này, trong khi không thể cùng thực hiện cả hai mục tiêu, muốn ưu tiên mục tiêu nào, các chuyên gia đã dùng các cụm từ “hy sinh mục tiêu tăng trưởng cho mục tiêu kiềm chế lạm phát” hay “hy sinh mục tiêu kiềm chế lạm phát cho mục tiêu tăng trưởng” để nói về chính sách kinh tế - tài chính của một nước 3.2 Giải pháp:   Nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng cũng như tác động của lạm phát tới đời sống kinh tế - xã hội là việc làm cần thiết để có thể xác định cho riêng quốc gia mình một chính sách kiểm soát lạm phát phù hợp. Điều cần khẳng định ở đây là không có liệu pháp nào hoàn hảo, mọi liệu pháp bình ổn lạm phát đều có cái giá phải trả của nó, vấn đề là chính phủ đang theo đuổi một chiến lược phát triển vĩ mô nào? Ngành ngân hàng đang trở thành tâm điểm thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát thời gian qua. Trong những giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ, chính sách tiền tệ là một trọng tâm. Tiến sĩ Dương Thu Hương, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đã trao đổi về những tác động của chính sách tiền tệ đến hoạt động của các ngân hàng nói riêng cũng như kiềm chế lạm phát nói chung. Ngân hàng thực tế cũng là các doanh nghiệp, họ có vốn thì họ đầu tư, đó là chuyện đương nhiên. Nhưng sự đầu tư ấy ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô, nên Nhà nước phải có chính sách để kiểm soát. Vào những lúc khó khăn như thế này, càng phải đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, vì thế cần buộc hoạt động ngân hàng phải ở trong một khuôn khổ. Sự tăng trưởng tín dụng quá nóng của các ngân hàng đã dẫn đến thiếu hụt than

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctiểu luận nhóm.doc
Tài liệu liên quan