Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta hiện nay

Về văn hóa-giáo dục.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng , hình thức đào tạo và cơ sở vật chất.

Từ một nước có hơn 95% số người mù chữ đến nay chỉ còn 9% dân số mù chữ. Đến hết năm 2000 có 100 tỉnh , thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ, một số tỉnh, thành phố đã bắt đầu thực hiện chương trình phổ cập THCS. Qua 3 lần cải cách giáo dục (1950,1956,1979) đến nay, hệ thống giáo dục quốc dân đã bao gồm đủ các bậc học : tiền học đường , tiểu học , trung học, đại học và sau đại học. Quy mô học sinh tiếp tục tăng ở tất cả các bậc học , ngành học , đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn của nhân dân . Phong trào học tập văn hoá, khoa học kỹ thuật , nghiệp vụ quản lý, ngoại ngữ tăng nhanh đặc biệt là ở những vùng trước đây chưa phát triển. Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường được nâng cấp , cải thiện. Hầu hết các xã , kể cả các xã vùng cao đã có trường tiểu học, phần lớn các xã ở đồng bằng có trường THCS.

doc41 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1585 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh đẳng giữa thành thị và nông thôn , giữa vùng kém phát triển và vùng phát triển , không chỉ cần sự nỗ lực của chính phủ mà phải có thời gian dài để đưa các vùng này vượt qua sự khác biệt về kinh tế –xã hội , tập trung vốn đầu tư để ưu tiên phát triển kịp thời các vùng kém phát triển . Sự đầu tư này có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng giai đoạn đầu nhưng nó tạo điều kiện tốt hơn cho các giai đoạn tiếp theo, tránh hậu quả chênh lệch càng lớn và khó giải quyết cho quá trình phát triển sau này . Nhận thức vấn đề đó , do điều kiện thuận lợi Malaixia chú trọng phát triển nông nghiệp ngay từ đầu và kết quả là trở thành nước lớn trên thế giới về xuất khẩu dầu cọ , cao su , côca. Còn Hàn Quốc đã mở cửa thị trường theo xu thế tự do hoá, cắt giảm các khoản mục thuế quan xuất nhập khẩu do vậy nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Sau một thời gian dài , hai quốc gia này chỉ chú trọng đến tăng trưởng kinh tế bỏ qua công bằng xã hội cho nên trong xã hội có sự xáo trộn, có sự bất công lớn trong phân phối thu nhập như ở Malaixia tập trung vào người Mãlai....Do vậy , chính phủ họ mới chú trọng đến phân phối thu nhập , đảm bảo công bằng cho mọi người dân . Malaixia hỗ trợ cho người dân ở vùng xa xôi để họ có cơ hội phát triển , có chỗ ở, được học tập , làm ăn. Hàn Quốc có các chính sách rất cụ thể về bảo hiểm y tế phát triển con người , chăm sóc sức khoẻ cộng đồng , thành lập các chương trình an sinh xã hội , cứu trợ về xã hội và chế độ hưu trí. 3.3. Coi giáo dục là nền tảng . Để tiến hành phân phối thu nhập bình đẳng để giảm một cách có hiệu quả sự chênh lệch thu nhập, cải thiện sự bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư thì việc tăng cường giáo dục là rất quan trọng . Chi tiêu cho giáo dục hàng năm trong GDP của các nước là rất lớn như ở Malaixia chiếm 1/3 chi tiêu công cộng . Nếu tính theo HDI thì sự chênh lệch về mức độ phát triển nguồn lực đã thu hẹp từ năm 1970 (Tại năm 1970 HDI của người Mãlai chỉ bằng 70% của người Hoa nhưng đến 1991 là 82%). Việc chú trọng đầu tư vào giáo dục , chăm sóc sức khoẻ và dịch vụ xã hội khác đã làm cho HDI của người Mãlai tăng 1,5 lần so với người Hoa. Do đầu tư mạnh vào giáo dục, người lao động ở Malaixia có khả năng tiếp thu công nghệ mới, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế nhanh chóng của đất nước. Với Hàn Quốc, do chính phủ ý thức được sự cần thiết phải tạo ra các cơ hội bình đẳng cho con em của mọi tầng lớp dân cư, vì vậy giáo dục ở Hàn Quốc luôn luôn là nhân tố cơ bản, quan trọng trong việc tạo nguồn lực cần thiết cho phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật . Hàn Quốc là nước có tỉ lệ người biết chữ cao nhất thế giới và chính những người có trình độ học vấn cao đã là nhân tố cơ bản giúp Hàn Quốc vượt bậc trong những năm gần đây. Như vậy , Hàn Quốc và Malaixia coi giáo dục là yếu tố cơ bản cấu thành tăng trưởng. 4. Quan điểm của Đảng ta giải quyết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với việc thực hiện các chính sách xã hội nhằm nâng cao đời sống, đảm bảo phúc lợi xã hội cho người dân. Đại hội X của Đảng ta đề ra mục tiêu : đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển , nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại . Nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta là tập trung lực lượng , tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế đa thành phần. Quan điểm của Đảng ta là phát triển nhanh và bền vững , tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc thực hiện tiến bộ , công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Cụ thể: 4.1. Phát huy cao độ mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm , ngành , lĩnh vực mà ta có lợi thế , đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Các vùng kinh tế trọng điểm có tốc độ tăng trưởng nhanh, cao hơn mức bình quân chung, đóng góp lớn vào tốc độ tăng trưởng của cả nước và lôi kéo , hỗ trợ các vùng khác cùng phát triển . Tăng trưởng nhanh năng suất lao động xã hội và nâng cao chất lượng tăng trưởng . 4.2. Thực hiện chính sách phát triển kinh tế, tăng trưởng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ , đẩy mạnh giáo dục và đào tạo , phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ tốt yêu cầu công nghiệp hoá , hiện đại hoá và từng bước tiếp cận với nền kinh tế tri thức. Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về kinh tế và công nghệ , tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm chủ lực . 4.3. Phát huy nhân tố con người , mở rộng cơ hội cho mọi người đều có điều kiện phát huy tài năng, tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng những thành quả phát triển; đồng thời có trách nhiệm góp sức thực hiện dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh , giữ gìn và phát triển nền văn hoá dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân về ăn , ở , đi lại , phòng và chữa bệnh , học tập , làm việc , tiếp nhận thông tin , sinh hoạt văn hoá. 4.4. Chính sách kinh tế , xã hội phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên và xã hội . Chủ động phòng tránh và khắc phục tác động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi và giải quyết hậu quả chiến tranh còn để lại đối với môi trường sinh thái . Bảo vệ và cải tạo môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội ; tăng cường quản lí Nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức của mọi người dân. II. Thực trạng việc thực hiện chính sách kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam 1.Đánh giá thực trạng 1.1.Thực trạng chính sách kinh tế . Thời kỳ 1976-1985 do ảnh hưởng chính sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp nên nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì trệ, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm thấp (2%) trong khi tốc độ tăng dân số bình quân là 2,4%, làm không đủ ăn , chủ yếu dựa vào nước ngoài , phân phối thu nhập đầu người rất thấp. Tại Đại hội VI Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế , chuyển đổi cơ cấu kinh tế , cơ chế quản lý kinh tế xoá bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp . Sau 20 năm đổi mới nền kinh tế đã có những chuyển biến rõ rệt . Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 91-95 là 8,2% , 96-2000 là 6,7%, hiện nay là hơn 8% .Cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi : nếu như năm 1990 tỉ trọng công nghiệp /GDP là 22,7% , nông nghiệp là 38,7% , dịch vụ là 38,6% thì đến năm 2000 lần lượt là 36,9%, 24,2% , 38,9%, tuy nhiên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Trong nông nghiệp sản lượng lúa tăng nhanh và vững chắc. Năm 1998 đạt 29,1 triệu tấn , tăng 4 triệu tấn so với năm 1995. Mức lương thực đầu người từ 280 kg năm 1987 tăng lên 408 kg năm 1998. Năm 1998 , sản lượng lương thực cả nước đạt gần 34,25 triệu tấn , bảo đảm an ninh lương thực tăng dự trữ và xuất khẩu. Năm 1999 , sản lượng lương thực bình quân đầu người đạt 440 kg. Cùng với sản xuất lương thực , các mặt hàng khác trong ngành trồng trọt , chăn nuôi đều có mức tăng trưởng khá. Trong công nghiệp , tăng trưởng bình quân 5,9% giai đoạn 86-90 tăng lên 13,7% những năm 91-97 và 10,4% năm 1999. Các ngành thương mại , dịch vụ , vận tải , y tế , giáo dục cũng có tốc độ tăng trưởng cao. Đến nay chúng ta có thể khẳng định nền kinh tế nước ta đã có sự phát triển mạnh mẽ, từng bước hội nhập thị trường quốc tế, đặc biệt sau một năm gia nhập WTO, chúng đa đã đạt được hầu hết các chỉ tiêu mà nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra ( Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X). 1.2.Thực trạng thực hiện các chính sách xã hội . 1.2.1. Thực trạng về đói nghèo Tổng số hộ đói nghèo năm 1998 là 2387050 hộ chiếm 15,7% tổng số hộ trên toàn quốc . Phần lớn số hộ nghèo sống ở vùng nông thôn (91,5%) trong đó tập trung đông nhất là ở khu vực miền núi xa xôi hẻo lánh, đồng bào dân tộc thiểu số. Bảng 1 : Số hộ nghèo đói theo vùng Vùng 1997 % 1998 % 1.Miền núi phía Bắc. 2.Đồng bằng sông Hồng. 3.Bắc Trung Bộ 4.Duyên hải miền Trung 5.Cao nguyên Trung Bộ 6.Đông Nam Bộ 7.Đồng bằng sông CửuLong. Cả nước 638400 302460 544926 358260 180400 103900 493750 2622906 25,32 9,81 27,84 22,44 27,84 5,50 15,65 17,68 570445 272160 500225 291815 171915 91400 489090 2387050 22,39 8,38 24,62 17,80 25,65 4,75 15,37 15,70 Nguồn : Bộ Lao động thương binh và xã hội. Bảng 2 : Chỉ số phát triển theo vùng Vùng Chỉ số 1.Miền núi phía Bắc 2.Đồng bằng sông Hồng 3.Bắc Trung Bộ 4.Duyên hải miền Trung 5.Tây Nguyên 6.Miền Đông Nam Bộ 7.Đồng bằng sông Cửu Long 89 114 88 96 99 128 93 Chỉ số này cho thấy rõ sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng miền núi xa xôi hẻo lánh và kém phát triển ở phía Bắc và Bắc Trung Bộ so với vùng miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng trù phú. Sự phân cực giàu nghèo ngày càng tăng. Theo kết quả điều tra mức sống nhóm hộ có thu nhập cao so với nhóm hộ có thu nhập thấp chênh nhau 7,3 lần năm 1996 và tăng lên 11,26 lần (năm 1998) . Hệ số chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn hiện nay khoảng 5-7 lần. Mức thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn hiện nay mới chỉ bằng 50% thu nhập của dân cư thành thị. Các chỉ tiêu về cải thiện đời sống còn rất thấp so với mục tiêu đề ra, đặc biệt là các chỉ tiêu về tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (năm 1998 số trẻ suy dinh dưỡng còn 36,68% , tỉ lệ phát triển dân số còn ở mức 1,7%, miền núi phía Bắc , Tây Nguyên còn rất cao 2,5-3% , tỉ lệ biết chữ ở các vùng sâu , vùng xa chỉ vào khoảng 50% , ở nông thôn chỉ có 43% số hộ gia đình được dùng nước sạch ...) . Tình trạng đói nghèo ở nông thôn và các vùng ở nông thôn và các vùng bị thiên tai, rủi ro dẫn tới dòng người đi lang thang kiếm sống ở các thành phố và khu công nghiệp tăng lên. 1.2.2. Thực trạng về vấn đề dinh dưỡng và sức khoẻ cộng đồng Vấn đề dinh dưỡng và sức khoẻ cộng đồng ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và tiềm ẩn không ít nguy cơ. Sản lượng lương thực của chúng ta tăng đều qua hàng năm, không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn dư hàng triệu tấn để xuất khẩu. Thế nhưng một bộ phận gia đình nghèo, thu nhập thấp vẫn không có đủ lương thực để ăn. Tỉ lệ gia đình bị thiếu ăn kinh niên vẫn còn cao, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi , vùng dân tộc ít người. Nhìn chung, bữa ăn của người việt Nam hiện nay còn thiếu về số lượng( dưới ngưỡng cần thiết 2300 kcalo/người/ngày) và mất cân đối về chất lượng. Lượng tiêu thụ thức ăn động vật rất thấp, lượng sữa, hoa quả chín không đáng kể.Tỉ lệ ăn gạo quá cao và sự thiếu thực phẩm đa dạng trong bữa ăn dẫn đến thiếu đạm, thiếu nhiều chất dinh dưỡng(vitaminA,sắt ,iốt...).Ngược lại, một bộ phận các gia đình( chủ yếu là các đô thị ) bắt đầu giầu lên, có mức sống cao nhưng do thiếu kiến thức dinh dưỡng cần thiết nên ăn theo những khẩu phần không hợp lí . Tình hình vệ sinh thực phẩm ở nước ta đang ở mức báo động. Việc sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật không theo đúng qui định không những ảnh hưởng đến nền nông nghiệp phát triển bền vững mà còn làm ô nhiễm nguồn nước và để lại dư lượng hoá chất độc hại trong lương thực , thực phẩm. Nhiều loại thịt bán trên thị trường không qua kiểm tra thú y . Việc sản xuất các loại thức ăn chế biến sẵn, sản xuất các loại bánh kẹo , nước giải khát... bung ra không kiểm soát nổi về chất lượng.Các quầy hàng ăn uống mọc lên khắp nơi nhưng không bảo đảm những tiêu chuẩn vệ sinh tối thiểu. 1.2.3.Thực trạng về văn hoá-giáo dục Có thể nói giáo dục - đào tạo là một mắt khâu quan trọng trong chiến lược phát triển KT-XH của đất nước, nó quyết định tốc độ và chiều hướng phát triển trong việc thực hiện chiến lược ấy. Đánh giá về vai trò của giáo dục -đào tạo, Nghị quyết TW2 (khoá VIII) khẳng định: “Giáo dục đào tạo đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí , đào tạo đội ngũ lao động có trình độ học vấn tiểu học , trung học và đội ngũ cán bộ đông đảo phục vụ các nhu cầu KT-XH và an ninh, quốc phòng.” Qua 3 lần mở chiến dịch chống nạn mù chữ : lần 1 (1945-1954) có 10 triệu người được xoá mù chữ, lần 2(1955-1959) ở miền Bắc đã xoá xong mù chữ,93% dân số từ 12- 50 tuổi biết đọc , biết viết, lần 3 (1975-1979), chủ yếu thực hiện ở miền Nam đã có 85% dân số trong độ tuổi biết chữ. Năm 1989, giáo dục phổ thông đã thống nhất trong cả nước bao gồm 12 năm. Một chương trình quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học được triển khai từ năm 1990. Ngân sách dành cho giáo dục tăng từ 6,21%(năm 1985) lên 9,4% (năm 1994) , 13%(năm 1999), đào tạo được 273 ngành trong số 579 ngành cần đào tạo sau đại học ; năm 1999 cả nước có hơn 9000 tiến sĩ và phó tiến sĩ, hơn 900000 người có trình độ đại học , cao đẳng, gần 4 triệu cán bộ trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật, có 4000 thợ bậc 7. Năm học 1997-1998 có 47 tỉnh , thành phố trong cả nước đạt chuẩn quốc giavề phổ cập giáo dục tiểu học; cả nước có 130 trường đại học , cao đẳng, 244 trường trung học chuyên nghiệp ,174 trường dạy nghề chính quy, hơn 500 trung tâm dạy nghề, trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp, 200 trường lớp dạy nghề dân lập , tư thục, 15 trường đại học dân lập với hơn 50000 sinh viên chiếm6,5% tổng số sinh viên cả nước. Trong vòng hơn 10 năm(1986-1998) số sinh viên các trường đại học tăng hơn 6,6 lần, riêng quy mô đào tạo không tập trung tăng hơn 10 lần. Riêng năm 1999, có 420000 học sinh tốt nghiệp PTTH, 100000 tốt nghiệp bổ túc văn hoá và 20000 thí sinh tự do thi vào đại học, cao đẳng. Năm học 1997-1998, cả nước có khoảng 22 triệu học sinh, sinh viên từ mầm non đến đại học. Đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học , cao đẳng từ 10475 người (năm học1976-1977) đã tăng lên 23500 người (năm học1997-1998). Năm 1998, số học sinh nghèo được miễn phí là 682999 người với 1692638 triệu đồng, số học sinh được cấp sách giáo khoa là 352043 người với kinh phí 5782 triệu đồng. Theo ước tính , hàng năm có khoảng 50 vạn sinh viên đại học , cao đẳng , 10 vạn học sinh THCN và hơn 40 vạn học sinh học nghề ra trường, mỗi năm cung cấp cho xã hội khoảng 1 triệu lao động qua đào tạo ... Nước ta có thành tích xoá mù chữ, nhưng nếu vào năn 1989 tỉ lệ biết chữ cả nước đối với nam là 93%, nữ 84% thì năm 1993 con số tương ứng là 91,4%, 82,41%. Như vậy tỉ lệ mù chữ mấy năm nay không giảm mà lại có chiều hướng tăng lên. Khi các chi phí cho việc học tập của con cái tăng, sự bao cấp của Nhà nước giảm , nhiều gia đình không có tiền để đóng góp lại đông con, nên phải cho con bỏ học , đặc biệt là các em gái. Hiện tượng bỏ học thường ở những năm chuyển cấp. Theo niên giám thống kê 1992, số học sinh trong nước đã giảm từ 13,3triệu(năm học 1986-1987) xuống còn 12,2 triệu(năm học 1989-1990), sau đó tăng lên 12,8 triệu(năm học 1991-1992) trong khi dân số hàng năm tăng và số trẻ em đến tuổi đi học các cấp đều tăng. Năm 1991 tỉ lệ bỏ học cấp I là 13,4%, cấp II là 32%. Các bậc cha mẹ cũng mong muốn con cái được học tập, có trình độ văn hoá để có cuộc sống đỡ khổ nhưng “lực bất tòng tâm”, họ không tạo được điều kiện, thời gian cho con cái học tập được vì trình độ văn hóa bị hạn chế và bận làm ăn, do đó các con cái của họ học kém , dốt, sẵn sàng bỏ học làm việc nhà .Như vậy, trình độ học vấn của người dân nhìn chung kém đi so với sự gia tăng dân số. Mặc dù đến năm 2007 số hộ nghèo đã giảm nhờ chính sách xã hội của chúng ta thực hiện tương đối tốt. Chúng ta đã phát động phòng trào ngày vì người nghèo, phong trào xoá nhà dột nát … 1.2.4. Thực trạng vấn đề bất bình đẳng . Thứ nhất, về bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn trên toàn quốc. Với hơn 75% dân số sống ở nông thôn , tỉ trọng nông nghiệp trong GDP cao và tỉ trọng sản phẩm nông nghiệp và khai khoáng trong xuất khẩu cao, Việt Nam là một nước nông nghiệp với mức bất bình đẳng ở nông thôn thấp và thấp hơn ở thành thị. Sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn nhỏ , hệ số Gini của nông thôn và thành thị ước tính tương ứng là 0,29 và 0,30 (năm 1998). Thứ hai , bất bình đẳng giữa các vùng kinh tế –sinh thái cho nhiều điều đáng chú ý. Trước hết, sự chênh lệch giữa các vùng khá cao, từ 0,25 đến 0,37 đối với các vùng thuộc nông thôn và 0,25 đến 0,41 đối với các vùng thuộc thành thị . Khi nền kinh tế bước vào thời kỳ tăng trưởng kinh tế , trong khi các yếu tố khác không đổi, những vùng kinh tế năng động , có nhiều thuận lợi trong tiếp cận và huy động các nguồn lực tăng trưởng. 2. Đánh giá những thành tựu đạt được và những hạn chế trong việc giải quyết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất và Phúc lợi XH ở nước ta. 2.1. Những thành tựu đạt được . 2.1.1 Trong thời kỳ đổi mới vừa qua, nền kinh tế đã đạt được mức tăng trưởng khá cao nhờ đó đời sống của nhân dân nói chung được cải thiện rõ rệt so với trước. Về công tác xoá đói giảm nghèo . Việc xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh (tỉ lệ hộ đói nghèo giảm từ 20% năm 1995 còn 11% năm 2000), đạt được mục tiêu đề ra và nước ta được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước giảm tỉ lệ nghèo đói tốt nhất. Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn và ngay trong những năm kinh tế giảm sút, chúng ta đã thực hiện mạnh mẽ hơn các chính sách bảo đảm xã hội (nâng lương tối thiểu , tăng phụ cấp hưu trí ...), mức sống của cán bộ viên chức , người về hưu, gia đình có công với cách mạng đã được nâng lên một bước. Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Mức tiêu dùng bình quân đầu người tính theo giá hiện hành tăng từ 2,6 triệu đồng năm 1995 lên 4,3 triệu đồng năm 2000. Mỗi năm tạo thêm 1,2-1,3 triệu việc làm mới . Tỉ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn của nước ta) giảm từ trên 30% xuống 11%. Về công tác y tế – sức khoẻ cộng đồng. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ , đặc biệt là trong lĩnh vực y tế dự phòng. Các chỉ số sức khoẻ cộng đồng được nâng lên . Chúng ta đã giảm hẳn được tỉ lệ mắc các thể suy dinh dưỡng nặng như suy dinh dưỡng thể phù , thể teo đét, bệnh khô mắt do thiếu vitamin A gây mù loà....Các thể suy dinh dưỡng vừa và nhẹ cũng giảm rõ rệt . Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 38% (năm 1995) xuống 33-34% (năm 2000). So với các nước như Thái Lan , Trung Quốc thì ta không bằng nhưng so với nhiều nước Nam á (mà ấn Độ , Bănglađet là chính) thì ta khá hơn. Các bệnh bại liệt , uốn ván sơ sinh cơ bản được thanh toán vào năm 2000. Các bệnh sốt rét , bướu cổ năm 2000 đã giảm gần 60% so với năm 1995. Một số bệnh viện được nâng cấp , cải tạo hoặc xây dựng mới ; hầu hết các xã đã có trạm y tế. Trung tâm y tế chuyên sâu ở Hà Nội và T.p Hồ Chí Minh được hình thành bước đầu, trang thiết bị y tế đã được nâng cấp ở các tuyến. Các chính sách về bảo hiểm y tế và chế độ thu một phần viện phí đã góp phần khắc phục những khó khăn của ngành. Về văn hóa-giáo dục. Sự nghiệp giáo dục-đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng , hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Từ một nước có hơn 95% số người mù chữ đến nay chỉ còn 9% dân số mù chữ. Đến hết năm 2000 có 100 tỉnh , thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ, một số tỉnh, thành phố đã bắt đầu thực hiện chương trình phổ cập THCS. Qua 3 lần cải cách giáo dục (1950,1956,1979) đến nay, hệ thống giáo dục quốc dân đã bao gồm đủ các bậc học : tiền học đường , tiểu học , trung học, đại học và sau đại học. Quy mô học sinh tiếp tục tăng ở tất cả các bậc học , ngành học , đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn của nhân dân . Phong trào học tập văn hoá, khoa học kỹ thuật , nghiệp vụ quản lý, ngoại ngữ tăng nhanh đặc biệt là ở những vùng trước đây chưa phát triển. Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường được nâng cấp , cải thiện. Hầu hết các xã , kể cả các xã vùng cao đã có trường tiểu học, phần lớn các xã ở đồng bằng có trường THCS. Hệ thống các trường dân tộc nội trú tỉnh, huyện được củng cố và mở rộng. Mạng lưới các trường đại học , cao đẳng , các trường chuyên nghiệp , dạy nghề đang từng bước được tổ chức , sắp xếp lại . Chất lượng giáo dục-đào tạo có chuyển biến bước đầu. Số đông học sinh , sinh viên có năng lực tiếp thu nhanh các kiến thức. Tỉ lệ giáo viên phổ thông đạt tiêu chuẩn tăng lên. Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng giáo dục được cải tiến. Tóm lại: Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội nhằm nâng cao đời sống xã hội đã làm giảm bớt bất bình đẳng trong xã hội, sự tiến bộ của con người thể hiện một cách rõ rệt: năm 1996 chỉ số HDI của Việt Nam là 0,54 xếp thứ 121/174, nhưng đến năm 1999 chỉ số HDI là 0,664 đã tăng 11 bậc so với năm 1996 tức là đứng thứ 110/174 nước, trong khi đó chỉ số HDI của 3 nước đứng đầu và cuối là: Canada 0,932 Nauy 0,927 Mỹ 0,927 Xiera 0,254 Nigie 0,298 Etiopia 0,298 Như vậy chỉ số HDI của Việt Nam là ở mức trung bình so với nước xếp hạng. 2.1.2.Chính sách hướng tăng trưởng kinh tế đã đi đôi với giải quyết vấn đề phân phối thu nhập. Theo kết quả khảo sát do Viện Xã hội học ( Trung tâm KHXH & NVQG) tiến hành từ tháng 10-1992 đến tháng 11-1994 tại một số địa phương thì tình hình phân phối thu nhập như sau: Bảng3: Hệ số Gini và thu nhập trung bình đầu người một tháng ở các địa phương. Địa phương Hệ số Gini Thu nhập trungbình (đ) Thành phố Hà Nội Thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Cần Thơ Thành phố Đà Nẵng Thành phố Hải Dương Nông thôn Cần Thơ Nông thôn Hải Hưng Chỉ số chung 0,44 0,35 0,32 0,29 0,25 0,40 0,27 0,34 224520 491390 265580 148300 181900 188430 135370 Với chỉ số Gini là 0,34 , mặc dù báo cáo khảo sát không nói rõ phương pháp cụ thể để tính toán chỉ số này, nhưng cũng gần sát với kết quả tính toán hệ số Gini toàn quốc theo Tổng điều tra mức sống của Tổng cục thống kê là 0,36; có thể xem đây là mức chênh lệch tương đối thấp về phân phối thu nhập. Kết quả này về cơ bản cũng phù hợp với báo cáo của oxfam 2.2. Những hạn chế và nguyên nhân: 2.2.1 Những hạn chế. Bên cạnh những thành tựu vẫn còn những mặt yếu kém , bất cập , chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của nhân dân và đất nước. - Nhịp độ tăng trưởng kinh tế mấy năm gần đây tuy có sự tăng trưởng cao đặc biệt năm 2006, 2007. Tuy nhiên nền kinh tế còn kém hiệu quả và sức cạnh tranh kém. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế và sức mua trong nước còn thấp , cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Xu hướng bao cấp và bảo hộ còn nặng. Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống kế hoạch , tài chính, ngân hàng đổi mới và phát triển chậm, chất lượng thấp , chưa tạo điều kiện và hỗ trợ tốt các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh. Cơ chế , chính sách phân phối còn nhiều mặt chưa hợp lý, chưa tạo được động lực thúc đẩy tiết kiệm, đầu tư phát triển. - Sự nghiệp giáo dục-đào tạo nước ta đang đứng trước những khó khăn , mất cân đối và mâu thuẫn cần khắc phục. Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu học của xã hội với khả năng đáp ứng của ngành , giữa nhu cầu phát triển với kinh phí Nhà nước và sự huy động các nguồn lực cho giáo dục-đào tạo , giữa cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư, giữa cơ cấu giáo dục và cơ cấu KT-XH , giữa lý thuyết và thực hành, giữa đào tạo và sử dụng,....Trình độ học vấn ở một số vùng còn quá thấp. Các hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục vẫn còn nhiều, nếu không được khắc phục sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng nguồn nhân lực. Giáo dục ở vùng sâu, vùng xa tuy có phát triển nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Chi phí học tập còn cao so với khả năng thu nhập của dân cư, quy chế đóng góp chưa rõ ràng, hợp lý là trở ngại lớn đối với học sinh, nhất là các gia đình nghèo. Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới ở mức dưới 20% (so với 50% trở lên ở nhiều nước ) làm cho khả năng tiếp thu kỹ thuật , công nghệ mới gặp nhiều khó khăn. - Nhiều vấn đề xã hội đặt ra rất bức xúc. Lực lượng lao động tăng tự nhiên mỗi năm khoảng 1,2 triệu người, trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn ở mức 7,4% ( khoảng 1 triệu người ) và tình trạng thiếu việc làm nông thôn còn khá cao, đang trở thành vấn đề gay gắt , nổi cộm nhất hiện nay. Bất bình đẳng trong thu nhập ở nông thôn và thành thị ngay càng cao khá cao. Đời sống của nhân dân ở một số vùng sâu , vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn rất khó khăn. Vấn đề dinh dưỡng hiện nay còn nhiều thách thức: Một là các vấn đề sức khoẻ do thiếu dinh dưỡng và an toàn vệ sinh thực phẩm như suy dinh dưỡng trẻ em, các bệnh do thiếu vi chất dinh dưỡng (đặc biệt là thiếu vitamin A, iốt , sắt,...) ; hai là sự gia tăng nhanh các bệnh mạn tính không lây liên quan đến dinh dưỡng như béo phì , đái đường , một số bệnh tim mạch, một số bệnh trước đây chúng ta đã xoá nay có nguy cơ trở lại cao như bệnh lao, sốt rét, bệnh suy giảm đường hô hấp, thương hàn, tả... trong điều kiện nền kinh tế phát triển. Tỷ lệ đói nghèo trong toàn quốc mấy năm gần đây tuy đã giảm mạnh nhưng chưa vững chắc, nếu gặp thiên tai , mất mùa thì nhiều hộ vẫn có thể rơi vào tình trạng đói nghèo trở lại. Tình trạng buôn lậu , gian lận thương mại và tệ tham nhũng không giảm. Các tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, nhất là nạn ma tuý, tiếp tục tăng và lan rộng đang là vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng lớn đến trật tự , an toàn xã hội. Cuộc đấu tranh chống các thói hư , tật xấu , nọc độc văn hoá, hủ tục mê tín dị đoan, thoái hoá đạo đức,... còn mang nhiều tính hình thức, chậm đưa lại hiệu quả thiết thực. Cơ sở vật chất của ngành y tế tuy có được cải thiện nhưng vẫn thiếu thốn và lạc hậu, nhất là ở tuyến h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10052.doc
Tài liệu liên quan