Tiểu luận Nội dung cơ bản về quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể trong bảo lãnh ngân hàng

Khi các bên tham gia vào quan hệ bảo lãnh chính là một cách để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Đối với nền kinh tế đang phát triển như nứớc ta hiện nay thì vốn là vô cùng cần thiết. Nhưng hầu hết các doanh nghiệp chưa đủ uy tín và đột tin cậy đối với các đối tác cho vay nước ngoài. Nhờ có uy tín của ngân hàng mà bảo lãnh trở thành một cách thức tiếp cận tới các nguồn vốn nước ngoài (nguồn vốn nước ngoài thường có thời hạn dài và lãi suất tương đối thấp). Nguồn vốn này thường tập trung cho sản xuất tạo điều kiện cho doanh nghiệp mau sắm máy móc, thiết bị đổi mới công nghệ sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Sản xuất phát triển kéo theo lợi ích kinh tế xã hội tăng lên như: giảm thất nghiệp, tăng tổng sản phẩm quốc dân, tăng vị thế hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế.qua đó góp phần tăng cường mối quan hệ thương mại quốc tế giữa các quốc gia.

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2284 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nội dung cơ bản về quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể trong bảo lãnh ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân hàng là giao dịch “kép” bởi vì để đạt được mục đích và động cơ chủ yếu của mình là phát hành cam kết bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng và gửi cho bên có quyền – bên nhận bảo lãnh để nhận tiền thù lao dịch vụ (phí bảo lãnh) thì tổ chức tín dụng không thể không tiến hành kí kết cả hai loại hợp đồng theo thứ tự: Hợp đồng dịch vụ bảo lãnh được giao kết trước và hợp đồng bảo lãnh được giao kết sau. Thứ tự này phản ánh mối quan hệ giữa hai hợp đồng, trong đó hợp đồng dịch vụ bảo lãnh đóng vai trò là cơ sở pháp lí để tổ chức tín dụng kí kết hợp đồng bảo lãnh, còn hợp đồng bảo lãnh được kí kết nhằm thực hiện nghĩa vụ của tổ chức tín dụng đã phát sinh trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh (ở đây được hiểu là nghĩa vụ phát hành cam kết bảo lãnh). Việc tổ chức tín dụng giao kết hai hợp đồng này tuy đều hướng tới mục đích chung và có động cơ thống nhất nhưng mặt khác, điều này cũng phản ánh sự độc lập của hai hành vi pháp lí khác nhau: dù rằng cả hai hành vi đó đều do một chủ thể là tổ chức tín dụng thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng. Tuy nhiên, theo định nghĩa về bảo lãnh ngân hàng được quy định trong Khoản 12 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng thì dường như các nhà làm luật muốn thể hiện quan điểm cho rằng giao dịch bảo lãnh ngân hàng chỉ liên quan đến một hợp đồng duy nhất là hợp đồng bảo lãnh, theo đó bên bảo lãnh là tổ chức tín dụng chỉ phải cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng được bảo lãnh. Còn việc pháp luật quy định khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay có vẻ như chỉ là hệ quả tất yếu của việc tổ chức tín dụng đã làm nghĩa vụ thay khách hàng đối với bên nhận bảo lãnh. Có thể cho rằng quan niệm như vậy là không hợp lý, bởi mục đích và động cơ của tổ chức tín dụng khi thực hiện hành vi bảo lãnh cho khách hàng là nhằm mục tiêu thu lợi nhuận và nhằm thực hiện hoạt động kinh doanh. Vì thế khó có thể tưởng tượng được rằng tổ chức tín dụng lại sẵn sàng phát hành cam kết bảo lãnh vì quyền lợi của khách hàng mà không hề dựa trên việc kí kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ bảo lãnh giữa họ với khách hành. Thứ sáu, theo thông lệ quốc tế, bảo lãnh ngân hàng là giao dịch không thể đơn phương hủy ngang bởi những người đại diện có thẩm quyền của tổ chức tín dụng bảo lãnh. Đặc điểm này không chỉ được ghi nhận trong Quy tắc thực hành tín dụng dự phòng quốc tế: “…cam kết không hủy ngang, độc lập, kèm chứng từ và ràng buộc khi phát hành…” (Quy tắc 1.06) mà còn được công nhận bởi pháp luật quốc gia của nhiều nước trên thế giới về bảo lãnh ngân hàng. Tuy nhiên, đặc điểm này chưa được phản ánh trong pháp luật thực định Việt Nam về bảo lãnh nói chung và bảo lãnh ngân hàng nói riêng, khiến cho chế định về bảo lãnh ngân hàng trong pháp luật Việt Nam thiếu sự tương đồng với chế định về bảo lãnh ngân hàng trong pháp luật các nước cũng như pháp luật quốc tế, tập quán và thông lệ quốc tế về bảo lãnh ngân hàng. Nội dung cơ bản về quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể trong bảo lãnh ngân hàng Việc xem xét quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo lãnh sẽ rất có ý nghĩa để có thể hiểu rõ hơn bản chất của bảo lãnh ngân hàng. Trong quan hệ bảo lãnh, tồn tại ít nhất ba chủ thể tham gia. Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đã được pháp luật của nước ta quy định cụ thể. Sau đây, chúng tôi sẽ trình bày về quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh ngân hàng: Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng bảo lãnh     Trong quan hệ hợp đồng dịch vụ bảo lãnh với khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh TCTD với tư cách là bên cung ứng dich vụ bảo lãnh nên quyền hạn của TCTD được Luật TCTD quy định tại khoản 1 Điều 59 gồm: a) Yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu về khả năng tài chính và những tài liệu liên quan đến giao dịch được bảo lãnh; b) Yêu cầu khách hàng phải có bảo đảm cho việc bảo lãnh của mình; c) Thu phí dịch vụ bảo lãnh theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; d) Kiểm soát việc thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh; đ) Từ chối bảo lãnh đối với các khách hàng không đủ uy tín. e) Hạch toán ghi nợ và yêu cầu khách hàng hoặc bên bảo lãnh đối ứng hoàn trả số tiền mà bên bảo lãnh đã trả thay.  Cơ sở của những quy định về quyền hạn TCTD trong bảo lãnh xuất phát từ việc thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ. Theo thỏa thuận thì TCTD phải phát hành thư bảo lãnh để gửi cho bên nhận bảo lãnh vì quyền lợi của khách hàng được bảo lãnh. Trơng trường hợp này TCTD là người thực hiện công việc dịch vụ nên đương nhiên TCTD phải yêu cầu bên hưởng dịch vụ thanh toán phí dịch vụ bảo lãnh cho mình. Đây là điều đương nhiên trong bảo lãnh ngân hàng nói riêng các các dịch vụ khác nói chung.   Việc quy định TCTD có quyền kiểm soát việc thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh xuất phát từ việc TCTD đã phải đem cả uy tín và tài sản của mình để phục vụ quyền lợi cho khách hàng được bảo lãnh, nên họ có quyền được bảo hộ như chủ nợ trong dân sự.     Mỗi quyền hạn mà pháp luật trao cho TCTD đề có mục đích riềng. Trong đó việc quy định quyền yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu, thông tin về khả năng tài chính và những tài liệu khác liên quan đến nghĩa vụ bảo lãnh nhằm mục đích đảm bảo an toàn về phương diện quyền lợi cho TCTD, đảm bảo cho sự an toàn của hoạt động kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế và  nâng cao ý thức trách nhiệm hợp đồng cho bên khách hàng đề nghị bảo lãnh.    TCTD  có quyền yêu cầu khách hàng phải có bảo đảm cho việc bảo lãnh của mình nhằm mục đích đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho TCTD.Việc quy định quyền từ chối bảo lãnh đối với khách hàng không đủ điều kiện bảo lãnh nhằm đảm bảo nguyên tắc quyền tự do kinh doanh của TCTD và nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của TCTD trong hoạt động kinh doanh trên thường trường.    Theo quy định của khoản 2 Điều 59 Luật TCTD thì TCTD có nghĩa vụ sau:“ TCTD thực hiện bảo lãnh có nghĩa vụ thực hiện cam kết đối với người nhân bảo lãnh khi được người bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ” Việc quy định này có tác dụng đảm bảo quyền lợi cho khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh và đề cao tính kỉ luật hợp đồng cho các bên tham gia giao dịch.    Ngoài ra TCTD còn có nghĩa vụ phát hành thư bảo lãnh gửi cho bên nhận bảo lãnh. Đây là nghĩa vụ cơ bản của TCTD cung ứng dịch vụ bảo lãnh đối với khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh. Nghĩa vụ này tạo nên niềm tin đối với khách hàng bảo lãnh khi tham gia hợp đồng bảo lãnh. Và chỉ khi nào TCTD thực hiện xong nghĩa vụ này thì họ mới có quyền yêu cầu bên hưởng dịch vụ bảo lãnh thanh toán phí dịch vụ. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng được bảo lãnh.      Trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng, khách hàng được bảo lãnh có tư cách pháp lí là người hưởng dich vụ bảo lãnh, theo đó khách hàng được bảo lãnh sẽ có quyền hạn hẹp hơn so với TCTD.      Theo đó khách hàng được bảo lãnh có quyền yêu cầu bên cung ứng dịch vụ bảo lãnh phải phát hành thư bảo lãnh hoặc hợp đồng bảo lãnh với bên có quyền vì quyền lợi của mình và thực hiện nghĩa vụ thay mình vơi tư cách là người bảo lãnh.  Việc quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng khi tham gia kí kết hợp đồng bảo lãnh và đảm bảo sự công bằng của pháp luật giữa các chủ thể trong hợp đồng bảo lãnh.  Điều 60 Luật TCTC quy định về nghĩa vụ của bên khách hàng được bảo lãnh như sau: 1.Cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin và tài liệu liên quan đến việc bảo lãnh theo yêu cầu của tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh; 2. Thực hiện đúng cam kết của mình đối với người nhận bảo lãnh và tổ chức  tín dụng thực hiện bảo lãnh; 3. Chịu sự kiểm soát của tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh đối với mọi hoạt động liên quan đến nghĩa vụ được bảo lãnh; 4. Nhận nợ và hoàn trả gốc, lợi cùng chi phí phát sinh mà tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh để trả thay theo cam kết bảo lãnh. 5. Thanh toán đúng và đầy đủ hạn phí bảo lãnh cho TCTD  theo thỏa thuận         Như vậy, quyền của người được bảo lãnh nhìn chung tương ứng với nghĩa vụ của người  được bảo lãnh. 3. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh    Người nhận bảo lãnh có hai loại quyền cơ bản là yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ và yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ. Xét ở góc độ quan hệ hợp động bảo lãnh thì quyền chính của người nhận bảo lãnh là yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ. Nếu có nhiều người bảo lãnh liên đới cho món nợ thì người nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu một trong số những người đó thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Mặt khác nếu nhiều người bảo lãnh theo phần cho món nợ thì người nhận bảo lãnh chỉ có thể yêu cầu từng người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đã căm kết của họ. Ngoài ra, việc thực hiện quyền yêu cầu này nhình chung phải ở thời điểm nghĩa vụ đến hạn.     Trường hợp người bảo lãnh đảm bảo bằng tài sản cụ thể, để đảm bảo khả năng thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh, người nhận bảo lãnh còn có quyền kiểm tra, giám sát tài sản bảo đảm hoặc bảo vệ tài sản như người nhận cầm cố, thế chấp.      Nghĩa vụ của người nhận bảo lãnh liên quan đến việc giữ tài sản hoặc giấy tờ tài sản bảo đảm và việc giải tỏa bảo đảm khi người bảo lãnh đã thực hiện xong nghĩa vụ. Cụ thể là nếu người nhận bảo lãnh giữ tài sản hoặc giấy tờ sở hữu tài sản của người bảo lãnh thì phải có trách nhiệm bảo quản và trả lại tài sản đó khi nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt hoặc theo thỏa thuận. III. Ý nghĩa của việc quy định các quyền, nghĩa vụ bảo lãnh ngân hàng Hiện nay, bảo lãnh ngân hàng đã phát triển rộng rãi trên các lĩnh vực. Có thể khẳng định rằng những thương vụ có giá trị lớn về mặt tài chính và phức tạp về mặt kỹ thuật, đặc biệt là đối với những đối tác nước ngoài tham gia thì không thể không có một hình thức bảo lãnh đi kèm. Bảo lãnh ngân hàng không chỉ hỗ trợ cho các hợp đồng thương mại mà cả các giao dịch phi thương mại, tài chính cũng như phi tài chính. Việc quy định rõ quyền hạn cho các chủ thể trong bảo lãnh ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp nói riêng và nề kinh tế nói chung. 1. Ý nghĩa của bảo lãnh ngân hàng đối với nền kinh tế Trong hoạt động ngân hàng hiện đại và kinh doanh ngày nay, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đóng vai trò quan trọng. Trên thế giới, hoạt động bảo lãnh đã tồn phát triển rất lâu đời, trong khi đó, tại Việt Nam dịch vụ này vẫn còn khá mới mẻ và đang trên đà phát triển. Đối với khách hàng, bảo lãnh đem lại cơ hội kinh doanh, sự trợ giúp về mặt tài chính trong cả các lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng, hay kinh doanh. Các ngân hàng tại Việt Nam ngày càng ý thức được tầm quan trọng của bảo lãnh đối với khách hàng và xu thế phát triển tất yếu của ngân hàng hiện đại. Trong nền kinh tế thị trường, bảo lãnh ngân hàng luôn được xem như tấm Giấy thông hành cho doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Việc này không những tạo thuận lợi cho kế hoạch của bạn mà các đối tác kinh doanh cũng sẽ có cơ sở để tin tưởng doanh nghiệp của bạn hơn. Với vai trò như vậy, bảo lãnh đã trở thành loại dịch vụ kinh doanh có nhiều tác động tích cực trong việc thúc đẩy các giao dịch về vốn, các giao dịch kinh doanh không chỉ ở trong lĩnh vực tín dụng mà cả trong dự thầu, thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm… Hiện nay, với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt thì mặc dù phải đối đầu với nhiều rủi ro nhưng nếu không nắm bắt một cách kịp thời các cơ hội kinh doanh, các doanh nghiệp và cá nhân khó có thể cạnh tranh và tồn tại được. Bảo lãnh ngân hàng đã và đang mang lại rất nhiều lợi ích cho bên được bảo lãnh như: Nhờ có công cụ bảo lãnh ngân hàng mà các nhà kinh doanh mới có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng hoặc có cơ hội nhập khẩu các hàng hóa dịch vụ từ nước ngoài một cách dễ dàng và thuận lợi với sự bảo lãnh của các ngân hàng bảo lãnh. Hơn thế nữa, nhờ có bảo lãnh ngân hàng mà bên được bảo lãnh có thể giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh trong trường hợp hai bên bán và bên mua không biết nhau, tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên liên quan. Bên được bảo lãnh không phải thanh toán ngay cho bên đối tác vì đã có bảo lãnh của ngân hàng do đó có cơ hội trì hoãn việc thanh toán và làm tăng tài sản lưu thông hiện có góp phần hạn chế sử dụng nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp, hạn chế việc sử dụng tiền mặt. Việc này không những tạo thuận lợi cho kế hoạch kinh doanh của bên được bảo lãnh mà các đối tác kinh doanh cũng sẽ có cơ sở để tin tưởng vào khả năng của bên được bảo lãnh hơn. Do đó, bảo lãnh ngân hàng giúp các doanh nghiệp có thể ký kết và thực hiện hợp đồng ngay cả khi chưa đủ uy tín và lòng tin đối với bên đối tác. Bảo lãnh ngân hàng cũng giúp các doanh nghiệp nhận được nguồn tài trợ từ đối tác (đối với bảo lãnh tiền ứng trước) hoặc từ các tổ chứac tín dụng khác (bảo lãnh vay vốn) lúc đó sẽ giúp các doanh nghiệp có đủ khả năng tài chính để thực hiện hợp đồng, tham gia giao dịch và ký kết hợp đồng Bảo lãnh ngân hàng là loại hình dịch vụ ngân hàng tồn tại khách quan đáp ứng cho nhu cầu một nề kinh tế ngày càng phát triển. Sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong bảo lãnh ngân hàng chính là một điều kiện khách quan để phát triển nền kinh tế xét trong các mặt sau: - Bảo lãnh ngân hàng chính là chất xúc tác làm điều hòa và xúc tiến hàng loạt các quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể có liên quan trong nền kinh tế mở hiện nay. Nhờ có bảo lãnh ngân hàng mà các bên yên tâm tham gia ký kết đối hợp đồng và có trách nhiệm đối với các nghĩa vụ mà mình đã ký kết. Bảo lãnh ngân hàng cũng đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia (quyền lợi của các chủ thể) và như vậy là mang lại lợi ích cho nền kinh tế nói chung. - Khi các bên tham gia vào quan hệ bảo lãnh chính là một cách để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Đối với nền kinh tế đang phát triển như nứớc ta hiện nay thì vốn là vô cùng cần thiết. Nhưng hầu hết các doanh nghiệp chưa đủ uy tín và đột tin cậy đối với các đối tác cho vay nước ngoài. Nhờ có uy tín của ngân hàng mà bảo lãnh trở thành một cách thức tiếp cận tới các nguồn vốn nước ngoài (nguồn vốn nước ngoài thường có thời hạn dài và lãi suất tương đối thấp). Nguồn vốn này thường tập trung cho sản xuất tạo điều kiện cho doanh nghiệp mau sắm máy móc, thiết bị đổi mới công nghệ sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Sản xuất phát triển kéo theo lợi ích kinh tế xã hội tăng lên như: giảm thất nghiệp, tăng tổng sản phẩm quốc dân, tăng vị thế hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế....qua đó góp phần tăng cường mối quan hệ thương mại quốc tế giữa các quốc gia. - Bảo lãnh ngân hàng còn tác động đến chiến lược phát triển của nền kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng thúc đẩy các ngành kinh tế mũi nhọn và các khu vực trọng điểm phát triển. Việc quy định các quyền lợi của các chủ thể khi tham gia bảo lãnh đặc biệt là chủ thể được bảo lãnh về việc ưu tiên bảo lãnh vay vốn và các bảo lãnh khác làm ngành được ưu đãi phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Ngoài ra các chủ thể bảo lãnh còn bảo lãnh cho các ngành kinh tế kém phát triển qua việc ưu đãi về tỷ lệ phí bảo lãnh bảo đảm cho các doanh nghiệp này có khả năng đứng vững trên thị trường. - Việc quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể còn đảm bảo sự lành mạnh trong kinh doanh. Nhờ đó các doanh nghiệp yên tâm hơn khi thực hiện hợp đồng và hơn nữa thhúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện hợp đồng một cách nhanh chóng và có hiệu quả, trên cơ sở đó giảm các rủi ro đối với các doanh nghiệp nói riêng và với nền kinh tế nói chung. Từ đó tác động tới sự phát triển của nền kinh tế qua việc tăng cường chế độ hoạch toán kinh doanh. 2. Ý nghĩa của việc quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong bảo lãnh ngân hàng. * Đối với bên bảo lãnh Việc quy định quyền của bên tổ chức tín dụng có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo an toàn về phương diện quyền lợi cho tổ chức tín dụng chính là nhằm mục đích đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh, đồng thời cũng nhằm mục đích bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong nền kinh tế và nâng cao ý thức trách nhiệm hợp đồng cho bên khách hàng đề nghị bảo lãnh. Việc trao quyền năng này đã giúp cho tổ chức tín dụng bảo lãnh có phương diện pháp lý để tự bảo vệ mình khi tham gia quan hệ hợp đồng cấp bảo lãnh. Khi có các quy định này, hoạt động của các tổ chức tín dụng bảo lãnh sẽ trở nên dễ dàng hơn, thuận tiện cho công tác nghiệp vụ hơn. Ngoài ra việc trao các quyền năng như trên đã góp phần đảm bảo nguyên tắc tự do trong kinh doanh của tổ chức tín dụng, đồng thời đề cao tính tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh trên thương trường đòi hỏi bên bảo lãnh không những phải có khả năng tài chính mạnh để thực hiện tốt nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh mà còn đòi hỏi bên bảo lãnh phải có khả năng, trình độ chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ và kinh doanh trên thương trường để thực hiện laọi hoạt động bảo lãnh đặc thù này. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định các nghĩa vụ cho bên tổ chức tín dụng cấp bảo lãnh, việc quy định này có ý nghĩa đảm bảo cho quyền lợi của khách hàng bảo lãnh và đề cao tính kỹ luật hợp đồng cho các bên tham gia giao dịch. Việc quy định nghĩa vụ của bên bảo lãnh sẽ là yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền và các lợi ích chính đáng cho bên nhận bảo lãnh, khi bên được bảo lãnh không có khả năng để thanh toán khoản nợ đối với bên nhận bảo lãnh thì đây chính là cơ sở để bên nhận bảo lãnh có thể yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết. * Đối với khách hàng được bảo lãnh (bên được bảo lãnh) Pháp luật quy định bên được bảo lãnh có quyền yêu cầu bên cung ứng dịch vụ bảo lãnh phải phát hành thư bảo lãnh hoặc ký hợp đồng bảo lãnh với bên có quyền. Việc quy định này có ý nghĩa ràng buộc về trách nhiệm đối với bên bảo lãnh đối nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của bện được bảo lãnh. Pháp luật cũng quy định rõ ràng các nghĩa vụ của bên được bảo lãnh. Việc quy định các nghĩa vụ này nhằm đảm bảo sự an toàn về quyền lợi cho tổ chức tín dụng khi họ chấp thuận đóng vai trò là người bảo lãnh. Khi bên được bảo lãnh thực hiện các cam kết trong hợp đồng chính là việc đáp ứng quyền và lợi ích cho bên bảo lãnh. Với chức năng đôn đốc hoàn thành hợp đồng thì bảo lãnh thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc hơn, có trách nhiệm hơn và thực hiện hợp đồng đúng quy định hơn. Mặt khác đối với các doanh nghiệp khi được ngân hàng bảo lãnh thì phải chịu chi phí bảo lãnh, đó là một kỏan chi phí của doanh nghiệp do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn một cách tối đa từ đó sẽ nâng cao hiệu quả haọt động chung của doanh nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. * Đối với bên nhận bảo lãnh Ngày nay, bảo lãnh ngân hàng ngày càng trở nên mạnh mẽ và được chủ thể kinh doanh sử dụng rất phổ biến như một dịch vụ tài chính quan trọng nhằm bảo đảm khả năng xác lập và thực hiện các giao dịch của mình trong kinh doanh. Tương tự như đối với bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh, việc quy định quyền đối với bên nhận bảo lãnh cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể này. Ngay cả khi có sự vi phạm nghĩa vụ của bên được bảo lãnh với bên bảo lãnh thì bên bảo lãnh cũng không thể vì thế mà có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh. Việc quy định quyền này chính là cơ sở pháp lý để yêu cầu bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thực hiện các nghĩa vụ của mình. Bên cạnh đó pháp luật cũng quy định bên nhận bảo lãnh phải chứng minh quyền chủ nợ của mình, việc quy định như vậy đã loại trừ trường hợp việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ đối với bên được bảo lãnh và bên được bảo lãnh mà không có căn cứ pháp luật. 3. Ý nghĩa đối với hoạt động quản lý nhà nước: Trong xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay ở nước ta, thì bảo lãnh ngân hàng luôn được xem như tấm Giấy thông hành cho các tổ chức, cá nhân trong các hoạt động mua bán, thương mại trả chậm. Hoạt động bảo lãnh ngân hàng đang dần trở nên phổ biến trong cơ chế nền kinh tế hiện nay. Bên cạnh những lợi ích của nó mang lại thì cũng không ít khó khăn đối với công tác quản lý. Việc quy định rõ ràng các quyền và nghĩa vụ của các bên giúp cho hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước được dễ dàng hơn. Việc quy định các bên chủ thể có quyền thỏa thuận về phạm vi bảo lãnh (bảo lãnh một phần hoặc bảo lãnh toàn bộ) sẽ không chỉ đảm bảo quyền lợi hợp pjáp cho các chủ thể có liên quan mà còn tạo tiền đề cho việc giải quyết tranh chấp sau này giữa các bên được thuận lợi, rõ ràng. Qua đó, các doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định về hoạt động, quản lý tài chính, kế toán, kiểm toán theo quy định. Chính vì vậy, thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ với các chủ thể, các cơ quan quản lý có cơ sở để giải quyết các vụ việc nhanh gọn và chính xác hơn. Các cơ quan nhà nước sẽ căn cứ vào các quy định đó để đưa ra các biện pháp quản lý tốt hơn, chặt chẽ hơn đối với các cá nhân, tổ chức này. Khi xảy ra sai phạm giữa các bên trong hợp đồng bảo lãnh, các nhà làm luật sẽ căn cứ vào các quy định nêu trên để xử lí đối với từng đối tượng, góp phần đảm bảo trật tự quản lý. Qua đó giúp các cơ quan quản lý của nhà nước có thể nắm bắt tình hình tài chính của các tổ chức kinh tế trên cả nước. IV. Đánh giá, nhận xét các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên trong bảo lãnh ngân hàng. Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay. Những kết quả đạt được khi áp dụng pháp luật bảo lãnh ngân hàng: Trong thời gian vừa qua, với môi trường pháp lí rộng mở, hoạt động bảo lãnh ngân hàng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ và đã phát huy được những ưu điểm của mình như: - Doanh số bảo lãnh ngày càng tăng và cùng với nó là chất lượng các khoản bảo lãnh cũng ngày càng được nâng cao. Số lượng khách hàng đến bảo lãnh ngày càng nhiều, phong phú về loại hình các thành phần kinh tế. Các loại hình bảo lãnh ngân hàng ngày càng được nâng cao, mở rộng và phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. - Bảo lãnh ngân hàng cũng đem lại cho các tổ chức tín dụng bảo lãnh nguồn thu phí dịch vụ chủ yếu, tạo ra nguồn thu ổn định. - Cùng với sự phát triển của ngiệp vụ bảo lãnh là trình độ của các cán bộ về nghiệp vụ này cũng đã được nâng cao, để đưa ra những quyết định đúng đắn lựa chọn các dự án có tính khả thi. Chính điều này đã nâng cao uy tín của tổ chức tín dụng bảo lãnh , giúp các tổ chức tín dụng tang khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo mối quan hệ tốt với các khách hàng truyền thống và thu hút them lượng khách hàng mới. - Các tổ chức tín dụng đã không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng quy trình nghiệp vụ, ứng dụng công nghệ tin học,...nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng nghiệp vụ khác như thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm,…nhằm hỗ trợ bổ sung để giúp cho nghiệp vụ bảo lãnh càng có điều kiện phát triển. - Thông qua hoạt động bảo lãnh ngân hàng nhiều doanh nghiệp đã tìm kiếm được sự tin tưởng từ phía đối tác để qua đó tận dụng được cơ hội kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh và tang sức cạnh tranh trên thị trường. b) Những khó khăn còn tồn tại khi áp dụng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh những kết quả đạt được thì thực trạng bảo lãnh ngân hàng vẫn còn một số tồn tại sau: Thủ tục bảo lãnh ngân hàng và giải tỏa bảo lãnh vẫn còn khá phức tạp, gây khó khan cho nhiều doanh nghiệp khiến cho nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cận được với bảo lãnh ngân hàng, làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp mà ngân hàng cũng mất đi hiệu quả kinh doanh từ nghiệp vụ bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh tập trung chủ yếu vào một số ngân hàng quốc doanh, nghiệp vụ bảo lãnh vẫn chỉ được coi là một dịch vụ hạch toán ngoại bảng. Hiện nay, ngoài các ngân hàng quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng lien doanh, ngân hàng nước ngoài..,nhưng tỉ trọng bảo lãnh chủ yếu tại nghiêng về các ngân hàng quốc doanh. Các loại hình bảo lãnh chưa được phong phú và đa dạng. Mặc dù hệ thống pháp luật đã thay đổi theo hướng mở rộng và tạo điều kiện khuyến khích các loại hình bảo lãnh phát triển nhưng các tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay vẫn thiên về bảo lãnh trong nước như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Còn các loại bảo lãnh có liên quan đến yếu tố nước ngoài như bảo lãnh vay vốn nước ngoài, bảo lãnh đối ứng vẫn chưa được phổ biến. Bảo lãnh ngân hàng ngày nay luôn được xem là “tấm giấy thông hành” cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, với tình trạng hiện nay, bảo lãnh chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn cũng như đổi mới trang thiết bị của nền kinh tế. Ví dụ: các ngân hàng Việt Nam chưa thể tham gia những hợp đồng bảo lãnh với khách hàng quốc tế một phần vì giới hạn bảo lãnh của Việt Nam hiện nay đó là mỗi tổ chức tín dụng không được bảo lãnh quá 15% vốn tự có, mà với số vốn hiện nay thì việc bảo lãnh ngân hàng cho những hợp đồng có giá trị lớn là rất khó. Chính vì quy định của pháp luật không cho bảo lãnh quá 15% vốn tự có của mỗi tổ chức tín dụng cho một khách hàng mà có những khách hàng tiềm năng với những hợp đồng giá trị thì các tổ chức tín dụng lại phải nhờ đến sự chỉ đạo của Trung ươn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoạt động bảo lãnh ngân hàng.doc
Tài liệu liên quan