Tiểu luận Vật chất, ý thức và mối quan hệ vật chất -ý thức

 

MỤC LỤC

Lời mở đầu. 1

Chương I: Sự hình thành và phát triển về quan điểm vật chất, ý thức và

mối quan hệ giữa vật chất- ý thức. 2

A. Cơ sở lí luận. 2

I. Vật chất. 2

1. Sự hình thành các quan niệm về vật chất. 2

2. Triết học Mác-Lênin, khái niệm về vật chất.5

II. Ý thức.6

III. Mối quan hệ giữa vật chất- ý thức. . 7

B. Cơ sở thực tiễn. .10

I. Sự cần thiết phải có triết học khoa học. 10

II. Triết học tự nhiên.10

III. Triết học tư duy.11

IV. Triết học với các vấn đề đạo đức nghệ thuật, tôn giáo.11

V. Thực tiễn cách mạng Việt Nam.12

Chương II: Biện chứng về mối quan hệ vật chất - ý thức trong

sự nghiệp cách mạng hiện nay.14

I. Mối quan hệ vật chất -ý thức trong sự nghiệp cách mạng hiện nay,

quan điểm triết học Mac-Lênin. .15

1. Sự thay đổi mới của các vấn đề trong thời đại hiện nay.15

2. Đặc điểm hiện nay của thời đại.16

3. Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thời đại mới.17

II. Ý nghĩa và kiến nghị.23

Chương III. Kết luận.25

Danh mục tài liệu.26

Mục lục.27

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14222 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vật chất, ý thức và mối quan hệ vật chất -ý thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hất có trước, ý thức có sau là sản phẩm của vật chất là phản ánh của giới tự nhiên khách quan, nhưng không hề coi đó là sự phản ánh thụ động, tiêu cực. Vì ý thức được hình thành trong quá trình con người tác động tích cực đến tự nhiên, thay đổi bộ mặt tự nhiên làm cho nó thích ứng với nhu cầu của mình, nó trở nên tích cực với cải tạo tự nhiên. Là sản phẩm của thựctiễn, nó tác động trở lại thực tiễn. Việc xem ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào là vấn đề vĩnh viễn của triết học, nó là sự phân chia của hai phái. Những người quả quyết rằng tinh thần có trước tự nhiên, và do đó cuối cùng thừa nhận sáng tạo ra thế giới chỉ thuộc về chủ nghĩa duy tâm. Ngược lại, những người cho thế giới tự nhiên có trước chỉ thuộc về trường phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mà đã giải quyết được vấn đề thứ hai của triết học, đó là tư duy của chúng ta nhận thức được thế giới hiện thực. Sự đối lập về quan điểm giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm quanh khái niệm về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng luôn là vấn đề không bao giờ cũ. Nó là vấn đề lớn về mặt nhận thức và thực tiễn. Thật vậy lần đầu tiên trong lịch sử triết học những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác coi vật chất là cái có trước, vật chất quyết định ý thức, ý thức do tồn tại xã hội do vật chất quyết định và phản ánh thế giới vật chất. Tồn tại vật chất trong đó tồn tại xã hội là đời sống vật chất của xã hội với tất cả tính chất phức tạp và mâu thuẫn của nó. Cơ sở vật chất của đời sống xã hội là phương thức sản xuất, mỗi phương thức sản xuất sẽ sinh ra một ý thức xã hội nhất định. ý thức xã hội là tổng hợp những lí luận chính trị và pháp luật, những quan điểm tôn giáo triết học và đạo đức của một xã hội ... nó gồm tất cả các quan niệm tồn tại xã hội trên cơ sở phương thức sản xuất nhất định. Nói ý thức xã hội không có nghĩa là nói ý thức chung. Giữa chúng giống nhau là chúng đều là thuộc tính của bộ óc con người, đều là sự phản ánh của tồn tại khách quan vào đầu óc của con người nhưngý thức xã hội chỉ phản ánh xã hội còn ý thức nói chung là phản ánh về thế giới khách quan. ý thức nói chung phản ánh dưới dạng khái niệm, suy lý, phán đoán thì ý thức xã hội lại phản ánh tồn tại xã hội qua những hình thái đặc thù như triết học, tôn giáo... Tóm lại chúng giống nhau nguồn gốc nhưng khác nhau về nội dung, hình thức và phương thức phản ánh. Tóm lại quan niệm về vật chất, ý thức và quan hệ với vật chất mà chủ nghĩa duy vật biện chứng thuộc phái triết học Macxit. Lý luận triết học MácLênin đã làm sáng tỏ được ba vấn đề đó. Nó quan niệm về thế giới tồn tại khách quan, tất cả những đang tồn tại khách quan đang vận động đều nói chung là vật chất. Được con người chúng ta cảm giác được, nó tác động vào bộ não của con người và tại bộ óc của con người nó đựoc phân tích mổ xẻ, nghĩa là ta nhận thức được đó là ý thức của con người. Trên cơ sở đó nhận thấy rõ được mối quan hệ vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Vật chất là cái thứ nhất, là cái có trước, là cái quyết định, ý thức là cái có sau, là cái phản ánh thế giới vật chất đang tồn tại khách quan. B. Cơ sở thực tiễn. I. Sự cần thiết phải có triết học khoa học. Vào thời Hy Lạp cổ đại, triết học có nghĩa là mọi tư tưởng duy lý về con người và tự nhiên là như vậy, nó bao gồm cả khoa học. Vào thời cận đại do tình trạng lý trí được chế tạo hoá nhanh chóng và khoa học, trở thành độc lập triết học phương Tây thấy mình bó hẹp vào sự phân tích cái khái niệm, ngôn ngữ và ý thức. Nhiều vấn đề triết học cổ đại bàn đến nay bị bỏ quên vì bị chê bai của triết học cổ đại. Những nhà khoa học bậc nhất đặc biệt ngày càng trở thành có tính chất triết học hơn, việc ranh giới giữa triết học và khoa học cụ thể là ngày càng rõ. Nhưng nhờ những thành tựu của khoa học mà triết học càng chứng minh tính đúng đắn của mình về quan niệm vật chất, ý thức và mối quan hệ vật chất về một thế giới thống nhất tồn tại khách quan chúng ta, mà chúng ta cảm nhận được nó thông cảm giác, chúng ta nhận thức được thế giới. II. Triết học tự nhiên. Triết học các hệ thống không thừa nhận một ranh giới tuyệt đối nào đó trong các lĩnh vực phức tạp có tổ chức đã được tổ chức lại thành tôn ti. Lĩnh vực vô cơ và lĩnh vực hữu cơ, cũng như lĩnh vực cá nhân và lĩnh vực xã hội đều là những mặt có quan hệ về mặt khái niệm. Những đặc tính không thể giản lược được với tính cách những tổng thể những tiếp đoạn về không gian và thời gian của một trật tự lặp đi lặp lại của sự tồn tại ổn định có tính chất điều khiển học và những mặt liên quan với nhau có tính chất tôn ti trong việc thích nghi. Nhờ tình trạng các khoa học kinh nghiệm và các mô hình trong hệ thống phát triển nhanh chóng, ngay các mô hình này có thể được xác lập một cách chặt chẽ và cải tiến những cách nhìn tiêu biểu của các nhà triết học tự nhiên qua các thời đại. III. Triết học tư duy. Nếu như triết học về các hệ thống không thừa nhận một ranh giới tuyệt đối nào giữa các hiện tượng có tính chất phức tạp và có tổ chức ở các cấp độ tôn ti khác nhau, khi triết học này không thể tư duy vào bất kỳ cấp độ nào. Triết học các hệ thống quan niệm “tư duy là ý thức khả năng suy nghĩ về bản thân mình, mặc dầu những khat năng như vậy chỉ có thể phát triển oqr một vài tư duy. Mỗi khi những tác động từ bên ngoài ảnh hưởng đến hệ thống và phù hợp với những lực bên trong vẫn duy trì, hệ thống trình độ ổn định năng động của nó thì hệ thống có những cảm giác tương tự như những cảm giác thích thú và thoả mãn của chúng ta. Vởy chúng ta đi đến hai triển vọng của triết học các hệ thống. Nó cho phép triết học xác lập những biểu hiện nhiều mặt của tư duy con người trong mối quan hệ với những hiện tượng tự điều chỉnh có tính chất điều khiển học trong cơ thể của con người. Sự bộc lộ mặt nguồn gốc chủng loại của những khả năng tự điều chỉnh ở trong sinh thành của chủng loaị cũng như sự tóm tắt và xây dựng của chúng trong sự sinh thành cá thể cấp cho ta khảo sát về triết học. IV. Triết học với các vấn đề đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo: Con người là một hệ thống năng động trong cấu trúc đang phát triển của tự nhiên. Con người dễ bị tổn thương về mặt cấu trúc qua những quá trình liên hệ phản hồi, nhờ đó các thế giới hình thức của tri giác được tạo thành với các đặc điểm bất biến của nó là hình dáng, kích thước và vận động, để đến biểu hiện cao nhất của con người là tư duy. Con người là một bộ phận khăng khít của các tôn ti bao gồm toàn thế giới của những hệ thống năng lượng làm cho sự ổn định một cách điều khiển học. Sự phối hợp nhau của tất cả những hệ thống như vậy trong các hệ thống ở cấp độ cao nhất cung cấp những tiêu chuẩn thích nghi và do đó cung cấp những tiêu chuẩn đánh giá cho tất cả mọi hệ thống. Các nhà triết học về hệ thống có thể rút ra những khái niệm về tốt và xấu, tốt hơn và xấu hơn và lấy chất liệu thông tin khoa học có tính chất kinh nghiệm khác cho các sườn những khái niệm đạo đức. Theo quan điểm hệ thống, con người là một hệ thống năng động nhất quán được phân tích, ở hai hướng về mặt tinh thần và thể xác. Các biến cố xảy ra trong hệ thống này là những kiểu xuất hiện đặc biệt tương đối tách rời, đó là những kinh nghiệm mỹ học và kinh nghiệm tôn giáo. Các cấu trúc ý nghĩa là lệ thuộc vào tổ chức của hệ thống này và cảm giác của nó với môi trường xung quanh. Triết học và những vấn đề xung quanh triết học, đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, biện chứng cho nhau cùng giải quyết một vấn đề chung nào đó về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mà mọi thời đại đều nhắc đến trên những quan điểm riêng. Thời đại ngày nay khi mà nhân loại đang tiến lên những bước cao của tiến trình lịch sử của thời đại, thời đại của văn minh, tri thức và khoa học là bước đo tiêu chuẩn. Thế giới văn minh mà ở đó lượng vật chất đã được sản xuất ra rất lớn, nhờ thành tựu to lớn của khoa học kỹ thuật, người ta càng thấy rõ tính đúng đắn của quan niệm chủ nghĩa Mác Lênin về thế giới vật chất. Thế giới đang tồn tại, xã hội thì đang vận động một cách có quy luật, xã hội tiến tới phương thức sản xuất mới với lực lượng sản xuất phát triển mạnh chưa từng thấy, tạo ra quan hệ sản xuất mới. V. Thực tiễn cách mạng Việt Nam: Thời đại hậu công nghiệp và những thành tựu khoa học đã đạt được tới đỉnh cao kỳ diệu. Nổi bật trong thời đại ngày nay là xu thế toàn cầu hoá ngày càng mở rộng và phát triển theo nhiều hướng, đa dạng và phong phú diễn ra trên tất cả các lĩnh vực. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi nhận thức được thực tiễn của những thay đổi của cách mạng thế giới trong những thập kỷ 80, đặc biệt là ở các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và Đông Âu; sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản và thành tựu khoa học lớn đã áp dụng vào cuộc sống. Cũng như thực trạng cách mạng Việt Nam, Đảng đã sớm giác ngộ và thực hiện khởi xướng đổi mới tại Đại hội VI và tiếp tục công cuộc đổi mới trong những kỳ Đại hội tiếp theo, đặc biệt là đến Đại hội lần thứ VII và VIII với chiến lược xác định xây dựng Công nghiệp hoá - HIện đại hoá, phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Thành tựu mà toàn Đảng, toàn dân ta đạt được trong 15 năm đổi mới và 10 năm thực hiện CNH-HĐH là những tiền đề cơ bản cho cách mạng Việt Nam. Tiếp tục phát huy sức mạnh, đồng thời bắt nhịp và đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới, đưa nhân dân thoát khỏi nghèo đói với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng cơ sở cho cách mạng chủ nghĩa xã hội Chương II: Biện chứng về mới quan hệ giữa vật chất và ý thức trong sự nghiệp cách mạng hiện nay. I. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin. 1. Sự thay đổi mới các vấn đề trong thời đại ngày nay. Thế giới đã và đang có sự thay đổi to lớn về nhiều mặt. Đặc biệt với việc tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, với thành tựu hết sức rực rỡ, nó mở ra cho thế giới quanh ta một kỷ nguyên mới về cách nhìn nhận, cách đánh giá và cách luận. Khoa học hiện đại đã có những bước nhảy vọt, những phát minh mới khẳng định tính khoa học của thế giới vật chất và sự vận động của nó. Chúng ta đang tiến tới một thế giới văn minh mới, ở đó khoa học kỹ thuật phát triển rất hiện đại, lực lượng sản xuất cũng phát triển rất nhanh và làm tạo ra nhiều mối quan hệ chung và riêng của xã hội, tạo ra một lượng vật chất lớn, đa dạng và phong phú. Con người ngày càng có nhu cầu nhiều hơn, đặc biệt là nhu cầu về các hoạt động xã hội, chính trị, văn hoá, tôn giáo. Tờt cả đều dần được hiện đại hoá, thông tin liên lạc nhanh chóng. Với thành tựu của công nghệ thông tin, về điện tử. ĐâY là thành tựu hết sức kỳ diệu của con người, nó nâng cao sức mạnh trí óc, nó giúp chúng ta suy nghĩ sâu hơn về chúng ta và cả về thế giới. Thành tựu của khoa học kỹ thuật trong những thập niên qua là hết sức rực rỡ, người ta càng ngày càng khám phá ra thế giới này. Thật đa dạng và phong phú, con người còn tự tạo ra được các loại chất liệu mới. Tất nhiên nó phải là vật chất của các vật chất khác. Khoa học đánh dấu bởi những mốc son lịch sử, loài người chúng ta tiến qua những giai đoạn lịch sử khác nhau với những nền văn minh khác nhau, con người nhận thức về thế giới ngày một sâu sắc hơn. Thế giới tồn tại và vận động một cách khách quan theo những quy luật chung, riêng khác nhau. Ngày nay con người càng hiểu biết về nguồn gốc của mình hơn. Bước đột phá của khoa học về chứng minh cấu tạo chất của cơ thể vật chất chúng ta, thời đại của công nghệ sinh học đang chiếm ưu thế trong khoa học hiện đại ngày nay. Về việc tìm ra chất mới, cấu tạo của cơ thể sống với quy luật tồn tại của chúng. Con người càng hiểu về chính mình hơn. Nó mở ra cho con người những hy vọng lớn, đồng thời nó cũng chứa đựng những lo ngại về sinh thái, đạo đức nhân văn và pháp luật. Nhân loại còn chứng kiến một thành tựu kỳ diệu về thế giới, về sự tồn tại của thế giới. Cuộc chinh phục vũ trụ đã cho con người nhìn về thế giới từ góc độ xa hơn, rộng hơn, sự tồn tại của thế giới cũng như vận động của nó là một quy luật khách quan, vốn sinh ra đã là vậy. Người ta có thể sờ mó, nắm bắt ... được sự vật cụ thể, nó không phải là một cái gì đó siêu nhiên, vô thần như những quan điểm của thần học, tôn giáo ... về sự tồn tại một lực lượng siêu nhiên, một cái vô thức ban đầu. Tóm lại, thành tựu của khoa học kỹ thuật đã thu được thành tựu to lớn, nó làm tăng của cải vật chất xã hội và làm cho cuộc sống của con người ngày càng văn minh hơn. Con người ngày càng nhận thức đúng đắn, chính xác hơn về thế giới. Thành tựu khoa học mới cũng tạo ra lực lượng sản xuất mới lớn hơn, mạnh hơn tạo ra những mối quan hệ xã hội mới, quan hệ sản xuất mới, phát triển thiết lập phương thức sản xuất mới. Nhân loại đã và đang bước vào thời kỳ văn minh mới, nhưng nhìn nhận về thế giới vẫn chưa phải là thống nhất. Đặc biệt là quan điểm về chính trị, kinh tế, tôn giáo, văn hoá, xã hội... trên quan điểm của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản luôn luôn muốn thủ tiêu chủ nghĩa xã hội , phủ nhận tất cả những gì vốn có của chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi mà chủ nghĩa xã hội đang ở trong giai đoạn hết sức khó khăn thì chủ nghĩa tư bản càng lấn át, muốn tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, chủ nghĩa xã hội không cho rằng chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội ưu việt, mà nó chỉ là một trong những chế độ xã hội trong tiến hoá lịch sử. Trong chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn cố hữu của nó về tư bản, tư liệu sản xuất với lực lượng sản xuất mới thấy được sự vận động có tính quy luật của chủ nghĩa tư bản mà xu thế của nó là sẽ bị xoá bỏ. ĐâY được xem là một vấn đề tất yếu khách quan. 2. Đặc điểm hiện nay của thời đại: Thời đại mới của xã hội loài người- mở đầu bằng cuộc cách mạng Tháng 10 Nga vĩ đại và sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên và sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới là nòng cốt cho cách mạng thế giới đánh đổ chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản đế quốc thế kỷ 19 bị phá vỡ từ đó xuất hiện hai hệ thống đối lập là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc. Trong giai đoạn này, khi chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng, hình thành lại sự thống trị hành tinh của chủ nghĩa đế quốc trên cở sở điều kiện của thế giới trong thế kỷ 20. Quan điểm chủ nghĩa duy vật Mác xít thấy được đặc điểm tình hình trên, diễn ra trong hoàn cảnh lực lượng sản xuất đã phát triển lên một trình độ mới về chất: trong khoa học công nghệ mới, đưa nhân loại vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên về công nghệ thông tin. Trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất đã vượt quá ranh giới quốc gia, dân tộc và phát triển trên quy mô hành tinh. Thế giới trở thành một tổng thể trong đó các mối quan hệ phụ thuộc khăng khít trong sự phát triển. đây chính là các tiền đề mà từ đó xu thế toàn cầu hoá gắn liền với xu thế hoá khu vực, xu thế hoà bình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tăng tính độc lập quốc gia dân tộc, thích ứng nhằm mục đích phát triển . Khi lực lượng sản xuất phát triển lên trình độ mới thì quan hệ sản xuất giữ vị trí chi phối ngày càng mạnh do thoái trào của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, và là vấn đề quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, do đó mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lỗi thời trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết và hiện nay mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản (cũ) và chủ nghĩa đế quốc đã bước sang giai đoạn mới, đồng thời trong chủ nghĩa xã hội đang thoái trào. Chủ nghĩa đế quốc đang tìm cách xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn thống trị trong điều kiện lực lượng sản xuất phát triển cao mà biểu hiện là sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Ngoài ra còn có mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển và chậm phát triển. Những mâu thuẫn rất sâu sắc đó lại đan xen lại liên quan đến nhau nhưng trong quan hệ quốc tế là biêủ hiện hình thái mới: vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chính vì vậy đã gây ra ảo tưởng về xu thế hoà bình và phát triển chỉ thấy thống nhất không thấy mâu thuẫn, thấy hợp tác chứ không thấy đấu tranh, đối thoại chứ không thấy đối đầu. Cần phân biệt đặc điểm liên quan của chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới. Xu thế mới cải cách những nước xã hội chủ nghĩa cũ đưa chủ nghĩa xã hội thoát khỏi khủng hoảng tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội theo tư duy mới về chủ nghĩa Mác Lê nin phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của thời đại thế giới hiện đại. Cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội ở khắp mọi nơi trên thế giới chắc chắn sẽ diễn ra theo quy luật khách quan của nó. Dù theo những con đường khác nhau về đưa chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống thống nhất theo phương thức sản xuất mơí - phương thực sản xuất cộng sản chủ nghĩa. 3. Vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào thời đại mới: Vận dụng triết học duy vật Mác Lênin vào sự nghiệp cách mạng hiện nay, nên nắm vững nguyên lý tồn tại xã hội có trước, ý thức xã hội có sau là sự phản ánh một cách khách quan. Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trước đây, đặc biệt là công cuộc đấu tranh của nhân dân Liên xô với thắng lợi Cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại, xây dựng Nhà nước Xô viết đầu tiên trên thế giới rồi đến phong trào cách mạng dân tộc, phong trào giải phóng các nước khác, vận dụng một cách triệt để triết học Mác Lê nin vào quá trình đấu tranh đã đưa nhân dân các dân tộc, các quốc gia không rơi vào thuyết định mệnh, nhờ trời, thuyết mà bon thống trị gieo rắc buộc nhân dân lao động, nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, phải gánh chịu làm nô lệ, làm tay sai cho chúng, nó còn trách cho những quan điểm sai lầm, những tư tưởng mang tính ảo tưởng, cải lương cho rằng chỉ cần "chỉ có ý thức" là chấm dứt được áp bức bóc lột mà bọn đế quốc tay sai áp đặt, xoá bỏ được nghèo khổ. Đó là cơ sở lý luận rất cơ bản vận dụng vào thực tiễn từng nước, từng quốc gia, từng dân tộc, từng phong trào đấu tranh. Nó ý thức cho nhân dân tự mình đấu tranh và chỉ có đấu tranh tiêu diệt đánh đổ bọn thống trị đàn áp, áp bức bóc lột thì mới giải phóng được mình, mới có độc lập dân tộc, mới có cuộc sống hạnh phúc ấm no. Đến giai đoạn sau, các nước trong hệ thống XHCN đẵ nhận thức được rõ việc cần thiết có tính quyết định đối với sự tồn tại xẵ hội đó là cần xây dựng cơ sở vật chất ,tạo ra càng nhiêù của cải vật chất .Đảm bảo đầy đủ vật chất cho cuộc sống trước mắt đồng thời xây dựng cơ sở vât chất cho CNXH . Cũng như trong bất cứ thời đại nào , thời đại ngày nay khi mà nhân loại đang bước vào thờ đại mới công nghệ hiện đại , lượng sản xuất vật chất ra ngày càng nhiều . Thế giơí đang chuyển sang giai đoạn mới ,sự nghiệp cách mạng mới đang chuyển mình cho phù hợp với xu thế mới .Nhìn nhận thế giới từ nhiều góc độ trên cơ sở lý luận chủ nghĩa duy vật Mac-Lênin . *Quan hệ vật chất và ý thức trong cách mạng hiện nay: Chúng ta thuộc thế hệ sau được thừa hưỏng thành tựu lớn của thế hệ trước -thế hệ gắn với cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì hoà bình chung của thế giới. Thừa hưởng thành quả của cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước, xây dựng cơ sở vậ chất CNXH chúng ta không được phủ nhận lịch sử.Nhưng cũng đừng quá nặng nhấn mạnh lịch sử,cần nhìn nhận thế giới dưới một góc độ mới. Xhcn đang thoái trào ,cntb đang chiếm ưu thế, đang tìm mọi âm mưu thủ đoạn để tiêu diệt CNXH. Chúng tìm mọi hình thức, đặc biệt là lợi dụng thành tựu khoa học, vào sự phát triển nhanh của hệ thống thông tin liên lạc má chúng truyền bá tư tưởng, đề cao CNTB cho rằng CNTB là vô địch là bất diệt và ngược lại chúng hạ thậm chí còn phủ định hết sạch về những thành tựu cũng như ý nghìa của CNXH, chúng boi nhọ CNXH bằng cách tưyền bá những tin sai, bóp méo sự thật , lợi dụng vào ý chí nguyện vọng của dân nghèo lao động để gieo rắc, bôi nhọ . Chúng cho rằng chỉ cần có ý thưc xã hội , ngồi chờ rồi cũng có đày đủ . Đặc biệt chúng lợi dụng vấn đề nhân quyền, vấn đề con người, vấn đề tôn giáo để truyền bá tư tưởng phản động. Cho rằng con người chỉ cần cầu nguyện, mơ ươc rồi sẽ có . Chính từ đó , chúng đặt cho nhân dân lao động, người nghèo khổ vào vị trí nhất định mà họ chỉ có thể làm được. Phản bác lại những quan điểm sai trái của CNTB, CNXH đấu tranh lại những tư tưởng đó của CNTB . Cho rằng con người trong xã hội phải là ai cũng như ai, có quyền ngang nhau. Đưẻc sống, được tự do, được lầm việc, được hưởng mọi ưu đãi. Hiện nay, phương thức sản xuất CNTB đang chiêm ưu thế, quan hệ sản xuất TBCN phát triển trên cơ sở LLSX hiện đại đã tạo ra lượng của cải vật chất hết sức đa dạng, phong phú. Con người ngày càng đáp ứng được nhu cầu đầy đủ của mình. Mổc dù CNXH đang lâm vào giai đoạn khủng hoảng thoái hoá, những QHSX XHCN vẫn cồn tòn tại và phát triển. Chúng ta cần xác định đúng hướng và mục tiêu cho phù hợp giữa QHSX XHCN với LLSX tiên tiến hiện đại. Cần có chính sách, đổi mới kinh tế, phù hợp với tình hình chung của thế giới như ng vẫn đảm bảo bản chất CNXH. Chẳng hạn như, phát triển kinh tế nhiều thành phần vận đọng theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN . Cỗn đảm bảo được sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, quản lí của nhà nước, và nhân dân lầm chủ. Nhằm tạo ra lượng vật chất đáp ứng nhu cầu của cuộc sống, tăng mức sống của nhân dân đồng thời xây dựng cơ sở vật chất cho CNHX. Nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế tri thức, với việc thu thập thông tin nhanh nhạy qua mạng thông tin trên toàn thế giới. Xu thế hội nhập là rất lớn, thế giới xúc tiến toàn cầu hoá đời sống nhân dân, đòi hỏi các nước chậm phát triển và đang phát triển cần có biện pháp để bắt nhịp với nền kinh tế của các nước phát triển. Việc xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại qua việc thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá là rất cần thiết. Các nước XHCN, đang bị khủng hoảng cũng như lực lượng tiến bộ thế giới cần nhận thức rõ việc xây dựng cơ sở vật chất cho chính mình, cho chủ nghĩa xã hội là hết sức quan trọng có tính chất quyết định.Chúng ta muốn xoá bỏ CNTB, thiết lập CNXH tạo ra phương thức sản xuất mới- phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa thì trước hết cần có cơ sở vật chất cho CNXH. Quá trình đấu tranh tiến lên CNCS là quá trình lâu dài. Nên không thẻ chỉ nói chỉ hô hào, chỉ là trên giấy tờ mà phải được thực tế hoá. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà CNTB đang chiếm ưu thế, lượng của cải vật chất do tư bản sản xuất ra là rất lớn. Chúng ta cũng không phải phủ nhận sạch trơn hết thành tựu của CNTB, mà ngược lại cần học tập, rút kinh nghiệm về cách thức tổ chức quản lý của CNTB trong công việc tổ chức sản xuất ra của caỉ vật chất. Xem CNTB cũng là một giai đoạn tất yếu trong quá trình tiến hoá xã hội, Tư bản tạo ra lượng của cải vật chất cũng là cơ sở vật chất cho CNXH, tất yếu CNTB rồi sẽ bị tiêu vong dần tiến lên CNXH được xem như là một quy luật khách quan. Tạo cơ sở vật chất xây dựng CNXH là cái quyết định cho mọi hoạt động về chính trị, văn hoá, tôn giáo,... Nghĩa là trước khi thực hiện các hoạt động xã hội cần giải quyết vấn đề vật chất, cái thứ yếu cho đời sống bình thường hàng ngày như: ăn, mặc, ở ... tóm lại là phải tổ chức sản xuất vật chất.. Khoa học hiện đại ngày càng chứng minh tính chất vật chất là đúng đắn. Con người ngày càng biết thêm nhiều chất, càng thấy nhiều hiện tượng diễn ra theo quy luật chung nhất, khách quan của thế giới vật chất. Càng khẳng định đúng đắn về quan niệm quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vốn thế giới sinh ra đã là có sẵn; tồn tại, vận động theo quy luật khách quan chứ không phải do ý thức tạo nên.ý thức không thể điều khiển được thế giới vật chất. Chẳng hạn, con người sinh ra vốn là một thực thể sinh vật được cấu tạo từ nhiều chất, nhiều bộ phận, qua quá trình lao động, tiếp xúc giao lưu và hình thành nhận thức, hình thành ý thức. ý thức ở đây là phản ánh thế giới khách quan. Thừa nhận tính quy luật khách quan về thế giới vật chất nghĩa là vật chất là những gì tồn tại khách quan. Những qui luật chung trong đó có quy luật xã hội, xét về phạm trù xã hội ta cũng thấy tồn tại những quy luật khách quan. Chẳng hạn quy luật về kinh tế của sản xuất hàng hoá (quy luật giá trị) nói yêu cầu về sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên lượng giá trị hàng hoá theo thời gian lao động xã hội cần thiết. Có một quy luật tất yếu mang chủ nghĩa Mác - Lênin nói đến chính là tính tất yếu về sự xoá bỏ xã hội CNTB tiến lên xã hội, xã hội chủ nghĩa và tiến tới xã hội CNCS. Đây chính là tính tất yếu sẽ xảy ra, chúng ta hãy đấu tranh cho tiến bộ xã hội loài người, tiến lên nền văn minh mới - văn minh cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện không phải lúc nào cũng thuận lợi, mà khó khăn cũng lớn. Quá trình thực hiện còn thiếu kinh nghiệm nên việc thiếu sót cũng là không thể không có. Chẳng hạn trong những năm thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu và các nước khác. Chúng ta đã áp dụng một cách áp đặt về khuôn khổ mô hình CNXH, trong những trường hợp cụ thể của mỗi nước khác nhau. Với việc phát triển công nghiệp nặng nhưng các yếu tố làm cơ sở dẫn đến kìm hãm phát triển. Một trong những nguyên nhân lớn của CNXH đi vào thoái trào đó là do CNXH nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60131.DOC
Tài liệu liên quan