Yêu cầu rà soát, đánh giá văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đất

Theo Nghị định 182/2004/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai nhưng các hành vi gây ô nhiễm môi trường đất chưa được quy định rõ ràng cụ thể mà chỉ quy định chung chung là gây ô nhiễm môi trường đất. Ngòai ra, mức xử phạt cao nhất theo quy định của Nghị định 182/2004/NĐ-CP chỉ là 30.000.000 đồng là mức quá thấp trong khi Nghị định 81/2006/NĐ-CP quy định mức xử phạt cao nhất là 500.000.000 đồng.

Mặt khác, quy định hạn mức trong văn bản Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2008 thì : Phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: bảo vệ môi trường; chứng khoán; xây dựng; đất đai; ngân hàng; sở hữu trí tuệ; quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; nghiên cứu, thăm dò và khai thác nguồn lợi hải sản, dầu khí và các loại khoáng sản khác. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là biện pháp khắc phục hậu quả, khôi phục hiện trạng ban đầu là vấn đề đang được xác hội quan tâm. Trong khi đó vấn đề này chưa được quy định cụ thể về cách thức, biện pháp, giám sát, nghiệm thu đối với lĩnh vực môi trường.

 

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1919 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Yêu cầu rà soát, đánh giá văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thi hành Luật Khoáng sản và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản. Điều 35 Nghị định này quy định: “Tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản phải ký quỹ phục hồi môi trường và đất đai tại Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam. Mức tiền ký quỹ để phục hồi môi trường và đất đai căn cứ vào quy trình, tiến độ khai thác, phục hồi và dự toán chi phí phục hồi môi trường và đất đai xác định trong báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế mỏ và báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hoặc xác nhận theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Tiền ký quỹ được tính lãi suất như đối với tiền gửi không kỳ hạn của Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thủ tục đăng ký, quản lý, sử dụng tiền ký quỹ để phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản”. Hiện nay, Quy định về môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản - Ngày 29/5/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg về ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản. Theo đó, số tiền kỹ quỹ tối thiểu phải bằng chi phí thực tế để cải tạo, phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản. Việc nhận ký quỹ của các tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản sẽ do Quỹ bảo vệ môi trường đảm trách. Khoản tiền ký quỹ được tính toán căn cứ vào quy mô khai thác, tác động xấu đến môi trường, đặc thù của vùng mỏ sau khai thác, chi phí cần thiết để cải tạo, phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản. Nguyên tắc tính toán số tiền ký quỹ là dựa trên cơ sở dự báo tác động xấu nhất tới môi trường sinh thái do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra. Trường hợp giấy phép khai thác khoáng sản có thời hạn khai thác dưới 3 năm phải thực hiện ký quỹ 1 lần. Mức tiền ký quỹ bằng 100% dự toán tổng chi phí phục hồi môi trường. Đối với giấy phép khai thác khoáng sản có thời hạn từ 3 năm trở lên thì được phép ký quỹ nhiều lần. Trong trường hợp được ký quỹ nhiều lần, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản có thể lựa chọn việc ký quỹ 1 lần toàn bộ số tiền ký quỹ cho suốt thời hạn khai thác khoáng sản. Tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản phải thực hiện ký quỹ lần đầu tiên 30 ngày trước khi bắt đầu tiến hành hoạt động khai thác khoáng sản . Các tổ chức, cá nhân đang khai thác khoáng sản mà chưa ký quỹ phải hoàn thành việc này trước 31/12/2008. Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản không thực hiện việc ký quỹ sẽ bị đình chỉ hoạt động hoặc thu hồi giấy phép, đồng thời tiến hành xử phạt vi phạm hành chính và tổ chức, cá nhân này phải chịu trách nhiệm khắc phục các hậu quả gây ra đối với môi trường theo quy định của pháp luật. Bãi bỏ Thông tư số 126/1999/TTLT/BTC-BCN-BKHCNMT ngày 22/10/1999 hướng dẫn việc ký quỹ để phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản (vốn được ban hành dựa trên Nghị định 68/CP ngày 1/11/1996 đã bị thay thế bởi Nghị định 160/2005/NĐ-CP). Tuy nhiên, đây chỉ là văn bản quy định về ký quỹ trong hoạt động khai thác khoáng sản, còn các loại tài nguyên khác chưa quy định mà Đất cũng là tài nguyên khi các chủ đầu tư sử dụng cũng phải ký quỹ để đảm bảo sử dụng đúng mục đích hiệu quả và không hủy hoại ô nhiễm đất. 4. Giữa các văn bản về bảo vệ môi trường đất còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo 4.1. Pháp luật hiện hành quan niệm về đất có mặt nước được sử dụng vào mục đích nuôi trồng thuỷ sản cũng chưa có sự thống nhất trong các văn bản. Theo công ước Ramsar ngày 02/02/1971thì đất vùng ngập mặn được hiểu là những vùng đất ngập nước, sình lầy, đất than bùn hoặc vùng nước tự nhiên hoặc nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, nước đọng hay nước chảy, nước ngọt hay lợ hay mặn, kể cả vùng nước biển có độ sâu không quá 6 mét khi thuỷ triều thấp và như vậy nó bao gồm cả đất nuôi trồng thuỷ sản. Nhưng theo Điều 13 Luật Đất đai năm 2003 thì căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, đất đai được phân thành ba nhóm: Nhóm đất nông nghiệp Bao gồm các loại đất: a) Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác; b) Đất trồng cây lâu năm; c) Đất rừng sản xuất; d) Đất rừng phòng hộ; đ) Đất rừng đặc dụng; e) Đất nuôi trồng thủy sản; g) Đất làm muối; h) Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ; ; Nhóm đất phi nông nghiệp và Nhóm đất chưa sử dụng. Theo đó, đất có mặt nước sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản thuộc loại đất nông nghiệp và theo Điều 78 và Điều 79 Luật đất đai năm 2003 thì có hai loại đất được sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản là đất có mặt nước nội địa và đất có mặt nước ven biển. Về điều kiện tự nhiên, đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản thường nằm ở vị trí gắn liền với vấn đề quốc phòng, an ninh như biên giới biển, về sinh thái môi trường, du lịch, giao thông đường thuỷ, khai thác khoáng sản,dầu khí... Tuy nhiên,pháp luật hiện hành lại chưa có các quy định cụ thể về việc sử dụng loại đất này nhằm đảm bảo khai thác giá trị kinh tế của loại đất này mang lại, vừa không gây ô nhiễm môi trường. 4.2. Quy định về thủ tục cho thuê đất để khai thác khoáng sản có sự mâu thuẫn: Điều 89 Khoản 3 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP quy định UBND cấp có thẩm quyền cho thuê đất và có thẩm quyền cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản, việc cấp phép được thực hiện đồng thời với quyết định cho thuê đất Điều 89 khoản 3 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP "Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho thuê đất và có thẩm quyền cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản thì việc cấp phép được thực hiện đồng thời với việc quyết định cho thuê đất.Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho thuê đất mà không có thẩm quyền cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản thì việc quyết định cho thuê đất được thực hiện sau khi người có nhu cầu sử dụng đất đã được cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản". . Nhưng tại Điều 125 về trình tự, thủ tục san lấp cho thuê đất lại quy định: Dự án thăm dò khai thác khoáng sản phải có giấy phép kèm theo bản đồ thăm dò khai thác mỏ. Có nghĩa là giấy phép thăm dò khai thác khoáng sản phải có trước quyết định cho thuê đất là điều kiện bắt buộc để cho thuê đất Điều 125 khoản 2 điểm d Nghị định số 181/2004/NĐ-CP: "Sau khi có văn bản thoả thuận địa điểm hoặc văn bản cho phép đầu tư hoặc văn bản đồng ý cho xây dựng công trình của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên địa điểm đã được xác định, người xin giao đất, thuê đất nộp hai (02) bộ hồ sơ tại Sở Tài nguyên và Môi trường nơi có đất; hồ sơ gồm có:... ; d) Trường hợp dự án thăm dò, khai thác khoáng sản phải có giấy phép kèm theo bản đồ thăm dò, khai thác mỏ; trường hợp sử dụng đất vào mục đích sản xuất gạch ngói, làm đồ gốm phải có quyết định hoặc đăng ký kinh doanh sản xuất gạch ngói hoặc dự án đầu tư được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt"; . 4.3. Quy định về tiêu chuẩn môi trường đất chưa thống nhất Quyết định số 35/2002/QĐ-BKHCNMT ngày 25/6/2002 của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường về việc công bố Danh mục tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường bắt buộc áp dụng có phân các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam thành 5 nhóm trong đó Nhóm 4 là Tiêu chuẩn về chất lượng đất, gồm có 1 tiêu chuẩn: Giới hạn tối đa cho phép của dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật trong đất.(Hiện nay Bộ Tài nguyên đã ban hành Quyết định 22/2006/QĐ-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc bắt buộc áp dụng tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường. Tuy nhiên, Quyết định này chưa quy định về tiêu chuẩn trong môi trường đất). Trong khi đó, Điều 10 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định hệ thống tiêu chuẩn môi trường quốc gia gồm có tiêu chuẩn về chất lượng môi trường xung quanh và tiêu chuẩn về chất thải. Nhóm tiêu chuẩn về chất lượng môi trường xung quanh bao gồm có 5 loại tron đó c ótiêu chuẩn môi trường đối với đất phục vụ cho các mục đích về sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và mục đích khác. Như vậy, cách phân loại và thiết kế hệ thống tiêu chuẩn về môi trường trong Luật Bảo vệ môi trường có nhiều điểm khác biệt với cách phân loại và thiết kế hệ thống tiêu chuẩn môi trường đã Quyết định 35/2002/QĐ-BKHCNMT. Chính vì thế, khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có hiệu lực, các quy định về tiêu chuẩn môi trường trong Quyết định 35/2002/QĐ-BKHCNMT cần có sự sửa đổi, bổ sung cho đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. 4.4. Cùng hành vi tương tự nhau nhưng mức xử phạt quy định khác nhau trong các văn bản khác nhau: Theo Nghị định 182/2004/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai nhưng các hành vi gây ô nhiễm môi trường đất chưa được quy định rõ ràng cụ thể mà chỉ quy định chung chung là gây ô nhiễm môi trường đất. Ngòai ra, mức xử phạt cao nhất theo quy định của Nghị định 182/2004/NĐ-CP chỉ là 30.000.000 đồng là mức quá thấp trong khi Nghị định 81/2006/NĐ-CP quy định mức xử phạt cao nhất là 500.000.000 đồng. Mặt khác, quy định hạn mức trong văn bản Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2008 thì : Phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: bảo vệ môi trường; chứng khoán; xây dựng; đất đai; ngân hàng; sở hữu trí tuệ; quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; nghiên cứu, thăm dò và khai thác nguồn lợi hải sản, dầu khí và các loại khoáng sản khác. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là biện pháp khắc phục hậu quả, khôi phục hiện trạng ban đầu là vấn đề đang được xác hội quan tâm. Trong khi đó vấn đề này chưa được quy định cụ thể về cách thức, biện pháp, giám sát, nghiệm thu đối với lĩnh vực môi trường. 5. Các văn bản về bảo vệ môi trường đất còn chưa phù hợp dẫn đến những khó khăn trong quá trình áp dụng * Điều 89, Điều 90 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003 quy định: Mọi dự án khai thác khoáng sản, khai thác nguyên liệu cho sản xuất gạch ngói, làm đồ gốm đều phải thuê đất Điều 89 Khoản 1 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP "Tổ chức, cá nhân được phép thăm dò, khai thác khoáng sản được Nhà nước cho thuê đất; trường hợp thăm dò khoáng sản không ảnh hưởng đến việc sử dụng đất hoặc khai thác khoáng sản mà không ảnh hưởng lớp đất mặt hoặc không ảnh hưởng đến mặt đất thì không phải thuê đất" . Trên thực tế, nhà đầu tư đã phải chi trả một khoản tiền để bồi thường giải phóng mặt bằng, hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người sử dụng đất hợp pháp, nhưng sau đó đất này trở thành đất Nhà nước và doanh nghiệp phải thuê lại. Nếu ở khu vực đất này có những loại khoáng sản có giá trị kinh tế cao, thời gian khai thác lâu dài, doanh nghiệp mới dám bỏ vốn đầu tư khai thác. Đối với những loại khoáng sản có giá trị thấp như vật liệu san lấp hoặc có trữ lượng ít và thời gian khai thác ngắn, không doanh nghiệp nào dám bỏ tiền ra đầu tư khai thác các mỏ trong quy hoạch, vì sẽ dẫn đến thua lỗ. * Về ký quỹ phục hồi môi trường được quy định tại Điều 15 Luật Khoáng sản, điều 30 Nghị định 76/2000/NĐ-CP của Chính phủ, nay là Điều 35 Nghị định số 160/2005/NĐ-CP ngày 27-12-2005 "Điều 35. Ký quỹ phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản 1. Tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản phải ký quỹ phục hồi môi trường và đất đai tại Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam. 2. Mức tiền ký quỹ để phục hồi môi trường và đất đai căn cứ vào quy trình, tiến độ khai thác, phục hồi và dự toán chi phí phục hồi môi trường và đất đai xác định trong báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế mỏ và báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hoặc xác nhận theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. 3. Tiền ký quỹ được tính lãi suất như đối với tiền gửi không kỳ hạn của Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam. 4. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thủ tục đăng ký, quản lý, sử dụng tiền ký quỹ để phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản". , khó khăn trong việc ký quỹ là xác định chính xác số tiền ký quỹ đối với từng loại hình khai thác. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường đã có công văn số 832 ngày 8/4/2002 về việc tính chi phí phục hồi môi trường trong khai thác mỏ lộ thiên, nhưng nhiều định mức, nhiều công thức tính theo hướng dẫn của công văn 832 chưa được ban hành hoặc không có các định mức tương tự để vận dụng. Vì vậy nhiều ý kiến cho rằng để việc kỹ quỹ phục hồi môi trường được thực thi, cần sớm ban hành các quy định và cách tính đơn giản, thuận lợi phù hợp với thực tế, góp phần làm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra. * Quy định về chi phí thăm dò trong nội dung đề án thăm dò khoáng sản không phù hợp với cơ chế thị trường và quyền tự chủ về tài chính của doanh nghiệp; quy định về việc tổ chức được phép thăm dò trong trường hợp chi phí thực tế thấp hơn mức chi phí tối thiểu do Chính phủ quy định thì phải nộp phần chênh lệch đó vào ngân sách nhà nước là không còn phù hợp. Điều 28 Luật Khoáng sản cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định về đề án thăm dò khoáng sản; bỏ quy định về chi phí thăm dò tối thiểu vì không phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và quyền tự chủ về tài chính của các doanh nghiệp. * Chính sách thuế tài nguyên chưa khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mặt hàng và làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Trong quy định về thuế tài nguyên khoáng sản chỉ mới quy định về nguyên tắc tính thuế, chưa có quy định về chính sách miễn giảm thúê tài nguyên khoáng sản. Điều 34 Luật Khoáng sản cần được bổ sung quy định về việc ưu đãi, miễn giảm thuế tài nguyên khoáng sản. * Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn chưa thực sự đồng bộ giữa các cấp, chưa gắn với quy hoạch chi tiết của các ngành việc lập quy hoạch cấp huyện, cấp xã còn chậm, chưa bảo đảm chất lượng phân cấp trách nhiệm quản lý quy hoạch chưa rõ ràng. Công tác lập hồ sơ địa chính, đặc biệt công tác chỉnh lý biến động chưa được quan tâm ở một số tỉnh việc theo dõi, cập nhật biến động về đất đai chưa được thực hiện thường xuyên việc kiểm tra, nghiệm thu hồ sơ địa chính chưa được coi trọng, chất lượng hồ sơ còn thấp. Công tác ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý hệ thống hồ sơ địa chính ở nhiều tỉnh còn yếu. * Trong quá trình thực thi Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc di dời các cơ sở gây ô nhiễm gặp rất nhiều khó khăn đối với doanh nghiệp như thiếu vốn, thiếu mặt bằng sản xuất... Một số vấn đề còn chưa được quy định cụ thể như: khu vực nào là khu dân cư mà cần phải có khoảng cách với các cơ sở nói trên và khoảng cách cụ thể đối với từng loại cơ sở; hướng dẫn việc hỗ trợ việc giao đất, cho thuê đất đối với các cơ sở thuộc diện phải di dời để đảm bảo khoảng cách an toàn đối với khu vực dân cư theo quy định nói trên. Như vậy, đất đai với nhiều loại khác nhau, có những đòi hỏi về mức độ bảo vệ khác nhau. Pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường đất chưa phải là công cụ hữu hiệu để bảo vệ đất với tư cách là một thành phần quan trọng không thể thiếu của môi trường. III. Đánh giá về chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước về chống tình trạng thoái hóa đất Bảo vệ môi trường, xây dựng cuộc sống bền vững trên trái đất đã trở thành nghĩa vụ của tất cả các nước trên thế giới. Vì vậy, Luật Bảo vệ môi trường đã xác định: “Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường” (khoản 1 Điều 5 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005). Mặt khác, nước ta về cơ bản vẫn là nước nông nghiệp số lao động và tổng thu nhập GDP từ ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao. Trong đó, tình trạng tha hóa đất do nước mặn xâm lấn, do xói mòn rửa trôi, rác thải chôn lấp xuống đất, các loại thuốc bảo vệ thực vật, khai thác liên tục dẫn đến tình trạng tha hóa đất có xu hướng từ đất “sống” sang đất không có khả năng canh tác ngày càng nhiều. Qua nghiên cứu pháp luật bảo vệ môi trường, chúng ta dễ dàng nhận thấy chính sách của Nhà nước ta về về chống tình trạng thoái hóa đất: Một là, rất coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhằm trước hết nâng cao ý thức bảo vệ môi trường từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và của nhân dân. Vì vậy, pháp luật bảo vệ môi trường của nước ta thể hiện rõ phương thức đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục, vận động, kết hợp áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng ý thức tự giác, kỷ cương trong hoạt động bảo vệ môi trường. Việc tuyên truyền sẽ giúp nâng cao ý thức của người dân không chỉ bảo vệ môi trường đất mà còn liên quan đến các bộ phận khác như tài nguyên nước, rừng,... trong tổng thể mối quan hệ về môi trường Hai là, ưu tiên đầu tư vốn để cải thiện, bồi bổ cho đất, nhất là những diện tích bị xói mòn, bạc màu, rửa trôi và bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Trước hết, Nhà nước tăng cường đầu tư cho chương trình cấp thoát nước, quản lý và xử lý có hiệu quả nước thải, rác thải, chất thải rắn và chất thải nguy hại trong các thành phố lớn, chương trình cấp nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn, bảo vệ tài nguyên rừng. Nhà nước cũng quan tâm đến việc đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường và bố trí các khoản chi riêng cho sự nghiệp môi trường trong ngân sách nhà nước hàng năm. Ba là, sử dụng có hiệu quả các công cụ điều tiết vĩ mô để khuyến khích bảo vệ môi trường, thúc đẩy việc phát triển xã hội bền vững. Nhà nước đã từng bước điều chinh các chính sách tài chính (thuế, phí và các chính sách khác) nhằm khuyến khích và nâng đỡ các hoạt động kinh tế có lợi cho môi trường, nâng cao chất lượng môi trường, đồng thời thu hẹp, hạn chế tiến tới xoá bỏ các hoạt động kinh tế, ngành nghề, mặt hàng gây ô nhiễm, huỷ hoại, tàn phá môi trường. Sử dụng tốt công cụ thuế, phí và các chính sách khác sẽ đảm bảo hướng dẫn, khuyến khích, bảo vệ các hoạt động giữ gìn, tăng cường chất lượng môi trường. Các biện pháp hỗ trợ về tài chính cũng có vai trò khuyến khích để người gây ô nhiễm thay đổi, điều chỉnh hành vi, thói quen gây hại đến môi trường, trợ giúp cho các đối tượng đang gặp khó khăn nhằm mục tiêu giúp họ tuân thủ tốt hơn các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường. Nhà nước cũng xây dựng các chính sách ưu đãi về đất đai khi di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi khu vực dân cư, ưu tiền giao đất, cho thuê đất đối với những cơ sở sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường. Bốn là, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, khuyến khích nghiên cứu, áp dụng và chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ về bảo vệ môi trường; hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường; phát triển kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường; tăng cường nâng cao năng lực quốc gia về bảo vệ môi trường theo hướng chính quy, hiện đại. Năm là, Nhà nước rất coi trọng việc xây dựng một hệ thống chế tài đầy đủ với cơ chế phát hiện, xử lý nghiêm đối với những hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Các biện pháp chế tài về dân sự, hành chính và hình sự cần được thiết kế một cách đồng bộ. Trong đó phải ưu tiên nghiên cứu để hình thành cho được cơ chế bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ra, coi đây là một yêu cầu bức xúc của xã hội hiện nay cần được tập trung giải quyết. Sáu là, Thực hiện các Chương trình như 134, 135 về phủ xanh đất trống đồi núi trọc, Chương trình trồng 5 triệu ha rừng, các chương trình thủy lợi xây đắp ngăn chặn thau chua rửa mặn. Thông qua hệ thống công cụ thuế để giảm các loại thuế nhập khẩu đối với máy móc nông nghiệp, phân hữu cơ, thực hiện việc sử lý rác thải phân loại trong việc sản xuất phân lân vi sinh từ phế phẩm thải. IV. ĐÁNH GIÁ VỀ HIỆU QUẢ THI HÀNH CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VỀ LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐẤT 1. Những mặt đã đạt được Kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 và sau này là Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 được ban hành, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường đã được liên tục bổ sung, hoàn thiện. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã được Chính phủ, các bộ, ngành, các địa phương nhanh chóng cụ thể hoá, tạo ra hành lang pháp lý khá thống nhất, đồng bộ về bảo vệ môi trường đất. Đặc biệt, sau khi Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập (tháng 8 năm 2002), thì hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường được quan tâm nhiều hơn, trong đó có môi trường Đất. Nhờ vậy, pháp luật bảo vệ môi trường Đất đã đạt được những bước phát triển đáng kể, thể hiện cụ thể như sau: Thứ nhất, hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường ở nước ta từ năm 1993 đến nay nói chung các văn bản pháp luật đặc thù về bảo vệ tài nguyên Đất đã có bước phát triển về chất cả về nội dung và hình thức, điều chỉnh tương đối đầy đủ các hành vi, mối quan hệ phát sinh trong quá trình bảo vệ môi trường; các thành tố tạo nên môi trường được đặt trong phạm vi, đối tượng điều chỉnh của pháp luật bảo vệ môi trường. Các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đã quy định từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của mỗi cá nhân, tổ chức trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường. Hệ thống các tiêu chuẩn môi trường cũng đã từng bước được ban hành mới, hoặc sửa đổi, bổ sung để làm cơ sở pháp lý cho việc xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể trong việc bảo vệ môi trường. Các quy định pháp luật đã chú trọng tới khía cạnh toàn cầu của vấn đề môi trường; xác định rõ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân chứ không phải chỉ là trách nhiệm riêng của Nhà nước. Thứ hai, trong pháp luật bảo vệ môi trường Đất ở nước ta đã thể hiện khá rõ nét nguyên tắc đặc thù của sự nghiệp bảo vệ môi trường lấy thuyết phục, giáo dục, răn đe, phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái môi trường làm biện pháp chính ưu tiên áp dụng. Để thực hiện tốt định hướng này, Nhà nước đã đề cao trách nhiệm không những của các cơ quan nhà nước, mà còn của các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và mỗi công dân trong việc bảo vệ môi trường. Đồng thời, Nhà nước cũng thiết kế một hệ thống các biện pháp về trách nhiệm pháp lý mà các chủ thể phải gánh chịu khi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Thứ ba, pháp luật bảo vệ môi trường Đất ở nước ta đã giải quyết tương đối tốt mối quan hệ giữa Luật Bảo vệ môi trường nói chung và các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường Đất, về cơ bản đã bảo đảm sự thống nhất trong đa dạng, trong sự liên kết khá chặt chẽ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành đã giữ được vai trò là trung tâm, là hạt nhân của hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường đã quy định bao quát việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và các thành tố của môi trường nói chung mà không phụ thuộc vào các thành tố đó là loại tài nguyên thiên nhiên nào, do ai sử dụng và mục đích sử dụng của từng thành tố môi trường. Bảo vệ môi trường được xác định là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi cá nhân, tổ chức và theo phương châm phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường, duy trì môi trường ở trạng thái cân bằng, bền vững. Các luật, pháp lệnh chuyên ngành khác như Luật Đất đai năm 2003, Luật Tài nguyên nước (1998), Luật Dầu khí năm 1993 (sửa đổi năm 2000, 2008), Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Khoáng sản năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2005), Luật Thủy sản năm 2003... quy định chế độ pháp lý về khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên phục vụ cho mục dích phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, các văn bản pháp luật này cũng quy định bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên với tư cách là bảo vệ các giá trị sinh thái (bảo vệ môi trường). Cũng tương tự như vậy, trong các hoạt động phục vụ đời sống hàng ngày hoặc trong các hoạt động sản xuất kinh doanh khác, ngoài việc quy định về trật tự an toàn xã hội, đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được hiệu quả, các văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động này đều có quy định nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Như vậy, giá trị kinh tế khi sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên hay khi tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh được đảm bảo, nhưng không phải vì thế mà có thể làm giảm sút chất lượng môi trường. Khi đề cập đến khía cạnh bảo vệ môi trường, các văn bản pháp luật chuyên ngành thường dẫn chiếu áp dụng các biện pháp phòng, chống, khắc phục ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, gây sự cố môi trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường, hay áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng môi trường, đánh giá tác động môi trường trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường. Thứ tư, bên cạnh việc tích cực ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường, Việt Nam đã từng bước tham gia vào các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường. Trong đó phải kể đến: Công ước về Luật biển, Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn; Công ước về kiểm soát, vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy hiểm và tiêu hủy chúng (Công ước BASEL), Công ước về buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng (Công ước CITES), Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt như là nơi cư trú của loài chim nước (Công ước RA

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBáo cáo rà soát, đánh giá pháp luật môi trường đất.doc
Tài liệu liên quan