i.Chiến tranh chống quân Thanh xâm lược (1788-
1789)
Mượn cớ cầu cứu của Lê Chiêu Thống. 11.1788,
29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy
theo 4 đường thuỷ, bộ: Lạng Sơn, Cao Bằng,
Tuyên Quang và Quảng Ninh tiến vào nước ta
Quân ta do Ngô Văn Sở chỉ huy từng bước chặn
địch, sau đó rút khỏi Thăng Long lui về Tam
Điệp, Biện Sơn phòng thủ.
Ngày 22.12.1788 Nguyễn Huệ nên ngôi Hoàng
Đế, thống lĩnh đại quân tiến ra Bắc. 26.12 đến
Nghệ An dừng 10 ngày tuyển thêm quân.
Ngày 15.1.1789 Quang trung hội quân với
Ngô Văn Sở tại Tam Điệp.Quang Trung thực hiện tiến công thần tốc, táo
bạo các vị trí xung yếu ở nam Thăng Long. Các
đạo quân khác đánh địch ở Đại Áng, Khương
Thượng, Hải Dương, chặn địch ở Lạng Giang.
Ngày 30 tết ta bắt đầu công thành Thăng Long.
Trong vòng 5 ngày đêm ta đã toàn thắng, tiêu
diệt và quét sạch quân Thanh ra ngoài bờ cõi.
Thời gian đầu do thế giặc mạnh, ta tạm thời rút
bỏ Thăng Long, tạo chuyển hoá chiến lược có
lợi cho ta. Nguyễn Huệ hành quân thần tốc,
thực hiện tác chiến táo bạo, chọn hướng tiến
công chiến lược chính xác, tiến công nhiều
hướng, tiến công kiên quyết, táo bạo.4. Một số đặc điểm của các cuộc khởi nghĩa và
chiến tranh chống ngoại xâm trong lịch sử.
a. Trong lịch sử dân tộc, khởi nghĩa và chiến
tranh chống ngoại xâm diễn ra liên tục.
Nước ta có tài nguyên phong phú, ở vị trí địa lý
quan trọng của vùng Đông Nam Á, vì thế
nhiều nước âm mưu thôn tính nước ta để vơ
vét tài nguyên và còn là bàn đạp bành trướng
khắp vùng Đông Nam Á.
Ngay buổi đầu dựng nước, nhân dân ta đã phải
chống Tần và chống Triệu. Trong hơn 1 000
năm Bắc thuộc, nhân dân ta đã liên tục khởi
nghĩa chống kẻ thù.
41 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 522 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Chiến tranh và nghệ thuật quân sự Việt Nam từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XVIII - Phạm Quốc Văn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHIẾN TRANH VÀ NGHỆ THUẬT
QUÂN SỰ ViỆT NAM TỪ THẾ KỶ X
ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XVIII
Giảng viên chính
Đại tá TS. Phạm Quốc Văn
CHIẾN TRANH VÀ NGHỆ THUẬT
QUÂN SỰ ViỆT NAM TỪ THẾ KỶ X
ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XVIII
NỘI DUNG
I. Các cuộc chiến tranh chống xâm lược từ cuối
thế kỷ X đến thế kỷ XVIII
II. Nghệ thuật quân sự Việt Nam giai đoạn cuối
thế kỷ X đến thế kỷ XVIII
Trọng tâm: Mục II
CHIẾN TRANH VÀ NGHỆ THUẬT
QUÂN SỰ ViỆT NAM TỪ THẾ KỶ X
ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XVIII
*****
I. Các cuộc chiến tranh chống xâm lược từ cuối thế
kỷ X đến thế kỷ XVIII
a.Cuộc chiến tranh chống Tống lần 1 (981)
Sau chiến thắng Bạch Đằng 938, Ngô Quyền lên làm
vua, đóng đô ở Cổ Loa mở ra kỷ nguyên mới trong
lịch sử dân tộc, kỷ nguyên phát triển của quốc gia
phong kiến độc lập tự chủ. Sau khi Ngô Quyền mất
xảy ra loạn 12 sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh nhanh chóng
dẹp loạn thống nhất đất nước và đóng đô ở Hoa
Lư, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt
a.Cuộc chiến tranh chống Tống lần 1 (981)
Sau thắng lợi của Ngô Quyền, đất nước ta được
hoà bình 36 năm. Năm 965 xẩy ra loạn 12 sứ
quân. Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất
nước. Nhà Đinh tổ chức thập đạo quân, cả
nước có 10 đạo, mỗi đạo có 10 quân, mỗi
quân 10 lữ, mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi
ngũ 10 người. Đồng thời thay phiên nhau làm
quân thường trực.
Sau khi thống trị toàn Trung Quốc, tháng 4 năm
981 quân Tống chia làm 3 đường thuỷ, bộ
sang đánh nước ta, quân bộ tiến theo đường
Cao Bằng và Lạng Sơn, quân thuỷ tiến vào
sông Bạch Đằng.
Quân, dân Đại Cồ Việt dưới sự lãnh đạo của Lê
Hoàn đã chặn đánh quân địch ở Hoa Bộ (Lạng
Giang), sau đó tổ chức mai phục tiêu diệt gọn đạo
quân của Hầu Nhân Bảo tại Đồ Lỗ (Sóc Sơn). Đạo
thuỷ binh của địch bị chặn đánh ở cửa sông Bạch
Đằng lại được tin thất trận của Hầu Nhân Bảo nên
đã phải rút lui. Đạo quân của Tôn Toàn Hưng
hoảng sợ rút chạy về nước. Quân ta truy kích tiêu
diệt hơn nửa quân địch. Kết thúc thắng lợi chiến
tranh.
Về nghệ thuật, triều đình nhà Đinh và Tiền Lê đã có
sự chuẩn bị đất nước, xây dựng quân đội. Đã xác
định đúng chiến lược cuộc kháng chiến là đánh
địch ngay trên tuyến đầu, biết dựa vào địa hình
chọn thế có lợi, vận dụng hình thức đánh địch sở
trường để diệt địch (phục kích, truy kích)
b.Cuộc kháng chiến chống Tống lần2(1075-1077)
Sau khi giành thắng lợi, Nhà Lê lên ngôi được
gần 30 năm. Năm 1009, vương triều chuyển
sang họ Lý. Nhà lý có nhiều chính sách tiến bộ
xây dựng và phòng thủ đất nước như “ngụ binh
ư nông”.
Vào những năm bảy mươi, biết được âm mưu
xâm lược của Nhà Tống, Lý Thường Kiệt đề ra
kế hoạch “Tiên phát chế nhân”, chủ động tiến
công trước sang đất giặc, đánh phá các căn cứ
xuất phát xâm lược của chúng. Tháng 10.1075-
3.1076) Lý Thường Kiệt chỉ huy quân thuỷ, bộ
tiến công Châu Ung, châu Khâm và Châu Liêm
Tháng 8.1076, 30 vạn quân Tống, tiến công thuỷ, bộ
xâm lược nước ta. Đạo quân chủ lực do Quách
Quỳ chỉ huy bị chặn đứng trước phòng tuyến nam
sông Như Nguyệt, thuỷ binh địch bị ta chặn đánh
tại Đông Kênh. Cuối 2.1077 quân ta tổ chức hai
trận tiến công lớn vào các cụm quân địch ở bắc
sông Như Nguyệt tiêu diệt hơn nửa quân địch.
Tháng 3.1077 hai bên bàn hoà, quân địch phải rút
về nước.
Trong cuộc chiến tranh này, Nhà Lý giành quyền chủ
động ngay từ đầu và suốt quá trình chiến tranh.
Mở đầu là chủ động tiến công phá thế chuẩn bị
của địch, chủ động rút về tổ chức tuyến phòng thủ
nam sông Như Nguyệt, chủ động tiến công cụm
quân địch, chủ động bàn hoà, buộc địch rút về
nước
c. Chiến tranh chống Mông Cổ Xâm lược lần 1
(1258)
Năm 1226 triều Trần thay triều Lý và có nhiều
chủ trương tiến bộ xây dựng và bảo vệ đất
nước, như “ngụ binh ư nông”, tổ chức quân
Triều đình, quân địa phương, quân của các
vương hầu, dân binh. Thực hiện phương châm
“binh cốt tinh không cốt nhiều”. Tới năm 1246
quân đội được tổ chức rất chặt chẽ, gồm BB
và thuỷ binh.
Đầu năm 1258, ba vạn quân kỵ binh Mông Cổ,
theo lưu vực sông Hồng tiến vào nước ta
Quân ta chặn đánh địch từng chặng, trận thứ
nhất ở Bạch Hạc (Phú Thọ) gây tổn thất cho
địch, trận thứ hai ở Bình Lệ Nguyên (Hương
Canh, Vĩnh Phúc), trận thứ ba ở Phù Lỗ (Sóc
Sơn) rồi bỏ Thăng Long rút về Thiên Mạc
(Khoái Châu). Chỉ sau 9 ngày địch vào Thăng
Long. Ngày 29.1.1258, quân ta tập kích quân
địch ở Đông Bộ Đầu. Quân địch bị tổn thất
nặng phải tháo chạy về nước.
Sau trận giao chiến đầu tiên, NHà Trần đã kịp
thời thay đổi phương thức tác chiến, rút lui từng
bước bảo toàn lực lượng, thực hiện vườn
không nhà trống, đẩy địch vào thế bất lợi. Mặt
khác gấp rút chuẩn bị, nắm thời cơ phản công
địch ở Đông Bộ Đầu, kết thúc chiến tranh
d. Cuộc chiến tranh chống quân Mông-Nguyên
xâm lược lần thứ 2 (1285)
Sau khi thôn tính toàn bộ lãnh thổ TQ, lập nên
triều Nguyên. Quân Mông-Nguyên chuẩn bị
xâm lược nước ta, chúng chủ trương đánh
chiếm Chiêm Thành rồi vu hồi từ phía nam vào
nước ta.
Cuối 1.1285, sáu mươi vạn quân Nguyên chia
làm 3 cánh tiến vào nước ta. Hướng thứ nhất từ
Quảng Tây tiến vào Lạng Sơn, hướng thứ hai
từ Vân Nam tiến theo lưu vực sông Lô, đạo
quân thứ ba của Toa Đô từ phía Nam đánh ra
Trên mặt trận phía bắc, ta từng bước chặn địch, sau
đó chủ động rút về Trường Yên (Ninh Bình) và
Thiên Trường (Nam Định).
Ở hướng Nam, địch chiếm được Nghệ An, Thanh
Hoá và hợp vây đại quân ta.
Trần Quốc Tuấn cho một bộ phận cơ động ra vùng
biển Đông Bắc nghi binh địch, đại quân rút về tây
Thanh hoá củng cố lực lượng, chuẩn bị phảncông.
Quân và dân ta ở vùng sau lưng địch nổi dậy đánh
chúng khắp nơi làm cho địch khốn đốn. Nắm thời
cơ thuận lợi, tháng 4.1285, quân ta tiến công địch
ở A lỗ (bên bờ sông Luộc), Tây Kết, Hàm Tử,
Chương Dương (Thường Tín) sau đó tiến vào
Thăng Long. Tướng địch, Thoát Hoan chui ống
đồng cùng tàn quân rút chạy về nước. Quân Toa
Đô bị tiêu diệt tại Tây Kết (24.6.1285). Cuộc kháng
chiến giành thắng lợi hoàn toàn.
Nhà Trần đã đánh giá đúng so sánh tương quan
lực lượng, có phương thức tác chiến phù hợp
bảo toàn lực lượng; Sự phối hợp có hiệu quả
hoạt động của quân dân vùng sau lưng địch;
Nắm thời cơ phản công bằng những trận đánh
lớn tiêu diệt địch; khi địch rút chạy ta đã chặn
đánh và truy kích địch để giành thắng lợi triệt
để.
e. Cuộc chiến tranh chống quân Mông-Nguyên
xâm lược lần 3 (1287-1288)
Tháng 12.1287, khoảng 50 vạn quân nguyên do
Thoát Hoan chỉ huy xâm lược nước ta lần ba,
địch tiến vào nước ta theo ba đường: Lạng
Sơn, lưu vực sông Hồng và sông Bạch Đằng
Dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn, quân ta
vừa đánh kiềm chế, tiêu hao địch vừa rút về hạ
lưu sông Hồng.
Trên hướng ven biển Đông Bắc, đạo quân của
Trần Khánh Dư đã tiêu diệt toàn bộ đoàn
thuyền lương của Trương Văn Hổ tại Vân Đồn.
Phần vì thiếu lương thảo, phần vì lo sợ bị tiến
công bất ngờ, Thoát Hoan lệnh cho quân rút về
nước bằng đường bộ qua Lạng Sơn và đường
thuỷ theo sông Bạch Đằng. Bằng một trận phục
kích tài tình, với trận địa cọc ngầm, ngày
9.4.1288 ta đã tiêu diệt gọn đạo quân thuỷ của
Ô Mã Nhi trên sông Bạch Đằng. Đạo quân bộ
cũng bị chặn đánh gây nhiều thiệt hại. Chiến
tranh kết thúc ta đại thắng.
Trong cuộc kháng chiến này, Nhà Trần thực hiện kế
hoạch tác chiến đã định sẵn, làm cho địch không
phát huy được sở trường, bị động đối phó và phải
lui quân; Ta đã đánh tan đoàn thuyền vận chuyển
hậu cần làm đảo lộn kế họach của địch; Trần
Hưng Đạo rất tài tình lựa chọn đoạn phục kích
hiểm yếu trên sông, xây dựng trận địa cọc ngầm
kết hợp bố trí quân mai phục tiêu diệt lớn quân
địch kết thúc chiến tranh.
d. Cuộc kháng chiến của Nhà Hồ chống quân Minh
xâm lược (1406-1407)
Năm 1400 Hồ Quý Ly phế truất Nhà trần, lập triều
Nhà Hồ. Hồ Quý Ly tăng cường phòng thủ đất
nước, tăng thêm nhiều quân, xây dựng tuyến
phòng thủ, đóng thuyền chiến lớn, sáng chế súng
thần cơ trang bị cho quân đội.
Tháng 11.1406, năm mươi vạn quân Minh theo
hai đường đánh vào nước ta. Một từ Quảng
Tây vào Lạng Sơn, hai theo sông Lô đánh
xuống. Các tuyến phòng ngự của Nhà Hồ lần
lượt bị phá vỡ. Hồ Quý ly cũng tổ chức phản
công nhưng thất bại và phải rút lui về Thanh
hoá, sau về Nghệ An và sa vào tay giặc.
Trong cuộc chiến chống quân Minh, Nhà Hồ đã
sớm phòng thủ đất nước, nhưng Nhà hồ chỉ
chú trọng về mặt quân sự đơn thuần, chưa cố
kết lòng dân. Khi quân Minh tràn sang thì chỉ lo
tác chiến chính quy mà không động viên được
toàn dân đánh giặc nên thất bại. Lần thứ hai
trong lịch sử dân tộc ta lại bị mất nước.
e. Cuộc kháng chiến chống quân Minh (1418-1427)
Dưới ách thống trị của Nhà Minh, nhân dân ta không
ngừng nổi dậy chống quân xâm lược, tiêu biểu là
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Từ
năm 1418-1423 nghĩa quân dựa vào rừng núi
đánh du kích, xây dựng lực lượng, mở rộng địa
bàn. Từ tháng 10.1424-8.1426 nghĩa quân tiến
công vào phía nam, giải phóng Nghệ An, Diễn
Châu, Thanh hoá, Tân Bình, Thuận hoá. Nghĩa
quân phát triển về lực lượng, trang bị vũ khí, huấn
luyện về quân sự, chính trị tinh thần. Tháng 9.1426
ta phục kích diệt 6 vạn quân địch ở Tốt Động,
Chúc Động (Chương Mỹ). Quân của Vương Thông
trong thành Đông Quan hoảng loạn.
Tháng .1427, nghĩa quân tiêu diệt 10 vạn viện
binh của Liễu Thăng ở Chi Lăng-Xương Giang.
Đánh tan 5 vạn viện binh của Mộc Thạnh sát
biên giới Vân Nam. Một mặt ta vừa chuẩn bị
tiến công Đông Quan, mặt khác ta tiến hành
địch vận, đánh vào lòng người, buộc Vương
Thông phải đầu hàng dưới hình thức “hội thề”
cam kết rút quân về nước ngày 10.12.1427.
Thời gian đầu chọn rừng núi làm căn cứ, đánh du
kích, lấy ít đánh nhiều, yếu chống mạnh . Với
chọn hướng chiến lược đúng đắn ta đã giải
phóng nhiều vùng rộng lớn, thay đổi cục diện
chiến trường. Ta nắm thời cơ tiến công Đông
Đô, vây thành diệt viện. Kết hợp tiến công quân
sự với địch vận. Buộc địch đầu hàng.
h. Cuộc chiến tranh chống quân Xiêm (1784-
1785)
Thế kỷ XVIII chế độ phong kiến nước ta khủng
hoảng, nông dân nổi dậy khắp nơi, cuộc khởi
nghĩa do Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn
Huệ lãnh đạo phát triển mạnh về mọi mặt. Sau
lần tiến công thứ 5 vào Gia Định, quân Nguyễn
bị đánh bại hoàn toàn. Nguyễn Ánh chạy sang
Xiêm cầu cứu.
Tháng 7.1784, năm vạn quân Xiêm chia làm hai
đường thuỷ, bộ tiến vào nước ta. Quân ta vừa
đánh tiêu hao địch vừa rút về Mỹ Tho tổ chức
trận địa phòng thủ. Chờ đại quân từ Quy Nhơn.
Tháng 12.1784 Nguyễn Huệ xuất quân từ Quy
Nhơn. Đêm 18 rạng 19.1.1785, bằng một
trận phục kích lớn đoạn Rạch Gầm-Xoài Mút
trên sông Mỹ Tho, quân ta đã tiêu diệt gần 4
vạn quân Xiêm, số tàn quân tháo chạy về
nước.
Giai đoạn đầu CT, do lực lượng ta ít hơn địch,
ta đã tổ chức nhiều trận đánh nhỏ, tiêu hao,
kìm chân địch, tạo điều kiện cho đại quân cơ
động.
Nguyễn Huệ đã tạo được thế trận có lợi , tiêu
diệt gần 4 vạn quân địch trong thời gian ngắn
i.Chiến tranh chống quân Thanh xâm lược (1788-
1789)
Mượn cớ cầu cứu của Lê Chiêu Thống. 11.1788,
29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy
theo 4 đường thuỷ, bộ: Lạng Sơn, Cao Bằng,
Tuyên Quang và Quảng Ninh tiến vào nước ta
Quân ta do Ngô Văn Sở chỉ huy từng bước chặn
địch, sau đó rút khỏi Thăng Long lui về Tam
Điệp, Biện Sơn phòng thủ.
Ngày 22.12.1788 Nguyễn Huệ nên ngôi Hoàng
Đế, thống lĩnh đại quân tiến ra Bắc. 26.12 đến
Nghệ An dừng 10 ngày tuyển thêm quân.
Ngày 15.1.1789 Quang trung hội quân với
Ngô Văn Sở tại Tam Điệp.
Quang Trung thực hiện tiến công thần tốc, táo
bạo các vị trí xung yếu ở nam Thăng Long. Các
đạo quân khác đánh địch ở Đại Áng, Khương
Thượng, Hải Dương, chặn địch ở Lạng Giang.
Ngày 30 tết ta bắt đầu công thành Thăng Long.
Trong vòng 5 ngày đêm ta đã toàn thắng, tiêu
diệt và quét sạch quân Thanh ra ngoài bờ cõi.
Thời gian đầu do thế giặc mạnh, ta tạm thời rút
bỏ Thăng Long, tạo chuyển hoá chiến lược có
lợi cho ta. Nguyễn Huệ hành quân thần tốc,
thực hiện tác chiến táo bạo, chọn hướng tiến
công chiến lược chính xác, tiến công nhiều
hướng, tiến công kiên quyết, táo bạo.
4. Một số đặc điểm của các cuộc khởi nghĩa và
chiến tranh chống ngoại xâm trong lịch sử.
a. Trong lịch sử dân tộc, khởi nghĩa và chiến
tranh chống ngoại xâm diễn ra liên tục.
Nước ta có tài nguyên phong phú, ở vị trí địa lý
quan trọng của vùng Đông Nam Á, vì thế
nhiều nước âm mưu thôn tính nước ta để vơ
vét tài nguyên và còn là bàn đạp bành trướng
khắp vùng Đông Nam Á.
Ngay buổi đầu dựng nước, nhân dân ta đã phải
chống Tần và chống Triệu. Trong hơn 1 000
năm Bắc thuộc, nhân dân ta đã liên tục khởi
nghĩa chống kẻ thù.
Trong giai đoạn hình thành và phát triển của phong
kiến Việt Nam, từ thế kỷ X-XV nhân dân ta phải 2
lần chống Tống; 3 lần chống Mông-Nguyên, 2 lần
chống Minh, nhiều lần chống xâm phạm biên giới,
xâm lược của Chiêm Thành; nửa cuối thế kỷ XVIII
nhân dân ta chống Xiêm và chống quân Thanh.
Tính từ thế kỷ III tr.CN đến thế kỷ XVIII nhân dân ta
đã tiến hành 15 cuộc CT bảo vệ Tổ quốc và hàng
trăm cuộc khởi nghĩa và CT giải phóng, tính ra thời
gian kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống đô
hộ lên tới 12 thế kỷ. Độ dài thời gian và số lượng
cuộc khởi nghĩa, kháng chiến và chiến tranh giải
phóng quá lớn so với các nước khác trên thế giới.
Vì vậy dựng nước gắn jiền với giữ nước là quy
luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta.
2. Phần lớn trong các cuộc CT, kẻ thù thường có
thế lực lớn, có quân đông gấp nhiều lần quân
ta, dân tộc ta luôn phải “lấy nhỏ đánh lớn, ít
địch nhiều, yếu chống mạnh”.
Trong lịch sử dân tộc, kẻ thù của chúng ta là
phong kiến phương Bắc và biên giới phía nam.
Điểm chung xuyên suốt của các cuộc chiến là;
một nước nhỏ, dân ít phải thường xuyên
đương đầu và đánh thắng các thế lực xâm lược
đất rộng, dân đông, quân nhiều, từng trinh phục
nhiều quốc gia lại ở liền kề biên giới nước ta.
Nhà Tống cuộc xâm lược lần 2, quân số hơn 30
vạn, dân số Đại Việt 4 triệu, quân số 5-7 vạn
Nguyên-Mông xâm lược lần 2 (1285) quân số 60
vạn, dân ta khoảng 5-6 triệu, quân thường trực
khoảng 30 vạn; Quân Thanh sử dụng 29 vạn
quân, Nguyễn Huệ chừng 10 vạn.
Đặc điểm nhỏ đánh lớn, ít địch nhiều, yếu chống
mạnh trở thành quy luật của CT chống xâm lược
trong lịch sử Việt Nam.
3. Lịch sử chống ngoại xâm có thể phân thành hai
loại đó là: Các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải
phóng; các cuộc CT bảo vệ Tổ quốc.
Hai loại hình trên có tính chất khác nhau:CT bảo vệ
Tổ quốc diễn ra khi ta có chính quyền, chống quân
XL từ ngoài vào; CT giải phóng tiến hành khi nước
ta đang bị đô hộ, phải đi từ không đến có, từ yếu
đến mạnh, phải đánh thắng kẻ thù từng bước.
4. Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, ý chí
quật cường, quyết chiến quyết thắng và tài thao
lược kiệt xuất.
Trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc ta
thường xuyên chiến đấu và chiến thắng những
kẻ thù cường bạo, đã tôi luyện truyền thống
yêu nước, ý chí độc lập tự chủ, đó là tư tưởng
tình cảm thiêng liêng nhất của dân tộc.
Dân tộc ta chiến thắng kẻ thù bằng ý chí và trí tuệ
VN, tài dùng binh, mưu cao mẹo giỏi dám đánh,
biết đánh và biết thắng là nội dung bao quát
của nghệ thuật quân sự VN, nền nghệ thuật
truyền thống nhỏ thắng lớn, yếu chống mạnh
B. Sự hình thành và phát triển của nghệ thuật quân
sự Việt Nam thời cổ-trung đại.
I.Một số đặc điểm của đặc điểm quân sự.
1.Chiến tranh chính nghĩa, tự vệ chống ngoại xâm
a. Mục đích CT của nhân dân ta nhằm bảo vệ độc
lập dân tộc, chủ quyền đất nước.
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng”
hay: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Mục đích đó còn được thể hiện trong hịch tướng
sĩ của Trần Hưng Đạo hoặc tư tưởng của
Nguyễn Trãi: “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn,
lấy chí nhân để thay cường bạo”. Đối với
Quang Trung là: “đánh cho sử tri Nam quốc
sơn hà tri hữu chủ” vv
b. Nghệ thuật quân sự của tổ tiên ta hoàn toàn
đối lập với nghệ thuật quân sự của phong kiến
phương bắc.
Do mục đích chi phối, nghệ thuật quân sự của ta
là nghệ thuật quân sự CT giải phóng, giữ nước
Nghệ thuật quân sự của phong kiến phương bắc
là nghệ thuật của CT xâm lược, “Bình thiên hạ”
2. Nghệ thuật quân sự “cả nước chung sức, toàn
dân đánh giặc.
a. Trước hoạ xâm lăng, tổ tiên ta biết đoàn kết để
giữ nước, gắn quyền lợi gia đình và bản thân
với quyền lợi tổ quốc.
Trong CT tổ tiên ta đã nhận thức được “nước mất
thì nhà tan; “quốc gia hưng vong, thất phu hữu
trách”; từ đó xác định “giặc đến nhà, đàn bà
cũng đánh” . Thời Trần sau kháng chiến chống
Mông-Nguyên, cả nước chỉ có 2 thôn giặc đến
không đánh, còn tất cả mọi nơi nhân dân đều
chủ động đứng lên đánh giặc bằng mọi lực
lượng, mọi hình thức, mọi vũ khí có trong tay.
b.Tổ tiên ta sớm nhận thức được sức mạnh của toàn
dân và biết dựa vào dân đánh giặc.
Tổ tiên ta nhân thức được vai trò của nhân dân, biết
dựa vào dân để đánh giặc như Trần Hưng Đạo
tổng kết: Sở dĩ nước ta thắng được giặc ngoại
xâm qua các thời đại là do “ vua tôi đồng lòng ,
anh em hoà mục, cả nước chung sức, giặc tự bị
bắt” và “ khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc
bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước”. Nguyễn
Trãi thì coi sức dân mạnh như nước “phúc chu
thuỷ, tín dân do thuỷ” vv
Thời Nhà Hồ tuy có quân đông, thành quách kiên cố
nhưng bị thất bại. Hồ Nguyên Trừng đã thấy:
“Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân không
theo mà thôi”
c. Tổ tiên ta giương cao ngọn cờ đại nghĩa để
phát huy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và
sức mạnh của toàn dân đánh giặc.
Tổ tiên ta hiểu sâu sắc của chiến tranh chính
nghĩa, đánh giặc để cứu mình, cứu người, đó là
cơ sở tập họp toàn dân chống ngoại xâm : “làm
cho địch thế lớn mà rỗng, quân nhiều mà tản,
lúc ta đánh chỗ này, lúc ta đánh chỗ khác, làm
cho địch hợp thì khó tụ được, chia thì khó giữ
được”, quân địch luôn bị động đối phó và thất
bại.
3. Nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy yếu
chống mạnh
a. Trong chiến tranh tổ tiên ta luôn chủ động đánh
theo cách đánh của ta.
Trong các cuộc CT ta thường phải lấy ít đánh
nhiều, nhỏ đánh lớn.
Trong CT chống Mông-Nguyên cách đánh của ta
là “dĩ đoản chế trường”. Khi quân địch mạnh, ta
không dàn trận để quyết chiến với địch, khi địch
đã bị dàn mỏng, phân tán, khó ứng cứu được
cho nhau là lúc ta phản công.
Trong kháng chiến chống quân Minh, Nguyễn
Trãi đã tổng kết cách đánh “ Lấy yếu chống
mạnh thường đánh bất ngờ, lấy ít địch nhiều
thường dùng mai phục”
b. Tổ tiên ta đã biết kết hợp chặt chẽ các phương
thức và thủ đoạn tác chiến.
Trong CT chống Tống lần 2, Lý Thường Kiệt kết
hợp các phương thức, cách đánh: thuỷ chiến,
công thành, rút lui, phòng ngự, phản công và
tiến công để đánh bại quân địch.
Ba lần đánh Mông-Nguyên ta đều rút lui, sau đó
phản công, tiến công.
Trong chống quân Thanh, Quang Trung đề ra
phương châm: “đánh nhanh, thắng nhanh, giải
quyết nhanh”, ông đã chỉ huy bí mật, thần tốc
táo bạo, bất ngờ, tiến công trên nhiều hướng,
thực hiện bao vây chia cắt, tiến công chính diện
với vu hồi bên sườn tiêu diệt địch.
c. Tổ tiên ta giỏi tạo thời cơ và lập thế trận.
Ông cha ta đã giải quyết xuất sắc hai vấn đề là
mưu lừa địch và kế điều địch, dụ địch vào thế
trận ta đã chuẩn bị sẵn để tiêu diệt.
Trần Hưng Đạo chỉ rõ: phải xem xét quyền biến
như đánh vờ, tuỳ thời mà làm”.
Nguyễn Trãi thì: “Biết địch, biết ta, biết mạnh, biết
yếu” phải lấy xưa mà nghiệm nay, phải tạo thời,
lập thế để vận dụng đúng chỗ.
Quang Trung xác định: “Người khéo thắng là ở
chổ rất mềm dẻo, chứ không phải lấy mạnh để
đè yếu, lấy nhiều mà hiếp ít vv
4. Nghệ thuật quân sự của ta luôn mang tư tưởng
tiến công, giành thế chủ động trong phản công
và tiến công tiêu diệt địch.
a. Tư tưởng chỉ đạo tác chiến của tổ tiên ta là
tích cực tiến công tiêu diệt địch.
Trong các cuộc CT ta luôn chủ động tiến công,
tiến công liên tục, dồn dập, tiến công từ nhỏ
đến lớn, từ cục bộ đến toàn cục trong suốt quá
trình chiến tranh.
Trong giai đoạn đầu các cuộc chiến tranh, mặc
dù quân địch rất mạnh, ta vẫn tích cực TC nhỏ
và vừa, nhằm tiêu hao địch làm thay đổi
tương quan lực lượng có lợi cho ta, tạo thời
cơ phản công, tiến công quét sạch quân địch.
b. Vận dụng sáng tạo nghệ thuật phản công và tiến
công.
Phản công và tiến công là phương châm chỉ đạo tác
chiến của tổ tiên ta. Tuy vậy phải căn cứ vào từng
đối tượng, điều kiện cụ thể vận dụng cho phù hợp.
Ngô Quyền, Lê hoàn phản công, tiến công lớn ngay
từ đầu giành thắng lợi.
Trong chiến tranh chống Tống lần thứ 2, Lý Thường
Kiệt tiến công phá thế chuẩn bị của địch, sau đó
phản công, tiến công địch ở Bắc sông Như Nguyệt
giành thắng lợi.
Trong cuộc CT chống quân Minh, ta đã TC từ nhỏ
đến lớn, khi có thời cơ, TC lớn giành thắng lợi.
Đặc biệt, Quang Trung đã TC liên tục, tốc chiến, tốc
thắng, diệt 4 vạn quân Xiêm, 29 vạn quânThanh
II. Sự hình thành và phát triển chiến thuật.
1. Tập kích và phục kích
Tập kích và phục kích là cách đánh sở trường
của quân sự VN từ xưa đến nay và trở thành
nguyên tắc tác chiến của nghĩa quân Lam Sơn
“Lấy ít địch nhiều thường dùng mai phục, lấy
yếu chống mạnh thường đánh bất ngờ”
Cách đánh tập kích, phục kích diễn ra ở mọi quy
mô: nhỏ, vừa, lớn. Tiêu biểu là phục kích trên
sông Bạch Đằng, diệt quân Nam Hán (938),
diệt thuỷ binh của Ô Mã Nhi (1288); kết hợp
tập ích với phục kích diệt địch ở Tốt Động,
Chúc Động (1426), Chi Lăng-Xương Giang
(1427); phục kích diệt 4 vạn quân Xiêm (1785)
2.Thuỷ chiến
Tác chiến trên sông biển trở thành cách đánh
truyền thống của quân sự VN, tiêu biểu: Trận
Bạch Đằng (938), trận Vân Đồn của Trần
Khánh Dư diệt đoàn thuyền lương của địch,
trận Bạch Đằng diệt đạo quân thuỷ của Ô mã
Nhi 91288), trận Rạch Gầm-Xoài Mút (1785)
Trong thuỷ chiến, ông cha ta đã biết chọn địa bàn
có nhiều lợi thế, tận dụng thiên nhiên, quy luật
thuỷ văn để thiết lập thế trận, cơ động và thực
hành tác chiến nhanh tiêu diệt quân địch, đã
kết hợp các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà
giành thắng lợi; hiệp đồng giữa BB với thuỷ
binh trong chiến đấu
3. Công thành
Trong chiến tranh ông cha ta không chủ trương công
thành và cho rằng “đánh thành là hạ sách” nhưng
do yêu cầu và khi có điều kiện chúng ta cũng vận
dụng như trận công thành Ung Châu-một thành
kiên cố có 6 vạn quân địch. Ta đã dùng nhiều biện
pháp như thang mây nối dài, dùng tên độc, máy
bắn đá, đào đường hầm, chất hàng vạn bao đất
thành bậc cao sát tường sau 42 ngày đêm hãm
thành đến 1.3.1076 ta hạ thành.
Chiến thuật đánh thành thời Quang Trung đã được
hoàn thiện một bước, tiêu biểu như trận Ngọc Hồi,
ta đã tập trung ưu thế lực lượng, đột kích chính
diện, kết hợp đánh bên sườn phía sau điệt địch
4. Phòng ngự
Mục đích PN của ta làm chậm bước tiến của
địch, tiêu hao địch, tạo điều kiện tiến công,
phản công.
Phòng ngự trên sông Như nguyệt là trận PN có
quy mô lớn, dài gần 100km từ chân núi Tam
Đảo đến Vạn Xuân, trọng điểm từ bến đò Như
Nguyệt (Yên Phong) đến bến đò Thị Cầu (Tiên
Sơn) khoảng 30km, được xây dựng chiến luỹ
kiên cố. Phía sau có đại quân của Lý thường
Kiệt sẵn sàng đánh bại các mũi đột nhập của
địch, ngoài ra còn có 2 vạn quân và 400 chiến
thuyền bố trí ở sông Lục Đầu sẵn sàng tiếp ứng
KẾT LUẬN
Nghiên cứu về chiến tranh và nghệ thuật quân sự
VN từ thế kỷ III tr.CN đến thế kỷ XVIII. Dân tộc
ta luôn phải đương đầu với các thế lực xâm
lược mạnh hơn ta nhiều lần. Ông cha ta đã
dám đánh, biết đánh và biết thắng.
Truyền thống và những kinh nghiệm quí của tổ
tiên ta là những bài học được dân tộc ta vận
dụng, kế thừa, phát triển trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ. Những bài học
đó ngày nay vẫn được Đảng ta vận dụng vào
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân ngày càng vững mạnh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_giang_chien_tranh_va_nghe_thuat_quan_su_viet_nam_tu_the.pdf