Báo cáo Đánh giá giao rừng tự nhiên cho các đối tượng hưởng lợi

Tính khác biệt giữa giao cho cộng đồng và nhóm hộ so với hộ gia đình là quy mô diện tích giao nhỏ hơn nhiều, gần nơi sinh sống nên công tác quản lý bảo vệ rừng có phần tốt hơn nhóm hộ. Tính tự chủ, tự giác cao hơn để thực hiện kế hoạch quản lý rừng. Đối tượng rừng được giao cho hộ gia đình ở xã Hương Lộc nói riêng và hộ gia đình nói chung là rừng nghèo kiệt nhưng các biện pháp tác động vào rừng để nâng cao chất lượng rừng chưa có do người dân nghèo, đời sống còn nhiều khó khăn trong khi sự đầu tư hỗ trợ từ các ban ngành, tổ chức khác không có. Việc kiểm tra bảo vệ rừng khá tốt vì họ xác định trách nhiệm và nghĩa vụ khi nhận rừng tuy nhiên vần còn tình trạng người dân trong thôn vào rừng của họ lấy củi, thu hái lâm sản, thậm chí chặt gỗ do nhu cầu người dân trong thôn nhiều trong khi rừng tự nhiên chỉ giao còn đủ cho 60 hộ. Song vụ việc xảy ra không nhiều, với mức độ nhỏ hơn trước đây khi rừng vô chủ ai muốn vào lấy gì cũng được. Điều đáng nói là một số hộ có nhu cầu tận thu lâm sản có xin phép chủ rừng trước khi vào rừng không như trước đây họ tự ý muốn đi lúc nào cũng được

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2478 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Đánh giá giao rừng tự nhiên cho các đối tượng hưởng lợi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hước so màu, với cách này người dân dễ tiếp cận và nắm bắt kỹ đối tượng rừng được giao. Cách này đã triển khai ở Thôn 4 (Thượng Quảng), Thôn A Pat (Thượng Long), Thôn 1, 2, 3, 4 (Bắc Sơn). 2.2.3 Thực hiện kế hoạch quản lý rừng được giao của từng đối tượng. Nội dung chính có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của công tác giao rừng tự nhiên cho các đối tượng hưởng lợi chính là việc triển khai thực hiện kế hoạch quản lý rừng. Do phương pháp tiếp cận khác nhau nên kế hoạch quản lý được hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Nếu sử dụng phương pháp chuyên gia thì dùng từ phương án bảo vệ và phát triển rừng, nếu sử dụng phương pháp CFM thì gọi là kế hoạch quản lý rừng. Về nội dung và phương pháp cụ thể không khác biệt nhiều, nên có thể gọi chung là kế hoạch quản lý rừng sau khi giao. Quản lý rừng cộng đồng sau khi giao đất giao rừng là một vấn đề cần thiết và quan trọng để bảo vệ và phát triển rừng, thoã mãn nhu cầu lâm sản của cộng đồng, tạo ra thu nhập cho người quản lý rừng dựa trên cơ sở cân đối nhu cầu và khả năng cung cấp của các lô rừng được giao. 2.2.3.1 Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch quản lý rừng của cộng đồng. Nội dung chủ yếu của kế hoạch quản lý rừng là việc tổ chức bảo vệ và phát triển rừng sau khi giao. Trước đây rừng chưa giao cho Cộng đồng dân cư thôn thì rừng vô chủ, ai cũng có quyền chặt phá tự do. Cộng đồng thực sự khẳng định, vai trò của mình thông qua phương án QLBVR và hương ước BV&PTR của Thôn, nên mọi người dân trong Thôn đã ý thức chấp hành pháp luật BVR để mong muốn có được hưởng lợi 1 cách hợp pháp các sản phẩm từ rừng thông qua việc QLBVR của chính từng người dân trong Thôn. Theo kết quả tổng hợp từ phiếu phỏng vấn, nguyên nhân làm cho rừng ổn định chính là nhờ nhận thức của nguời dân trong cộng đồng được nâng lên, luôn có sự tuyên truyền vận động của các ban quản lý thôn, tổ bảo vệ rừng và của toàn dân. Việc triển khai tuần tra bảo vệ rừng tiến hành thường xuyên theo định kỳ do tổ bảo vệ chuyên trách 10-15 người chịu trách nhiệm chính, còn toàn bộ cộng đồng có nhiệm vụ cung cấp thông tin, tai mắt cho ban quản lý thôn và tổ bảo vệ rừng. Theo đánh giá của cộng đồng thôn Thuỷ Dương, Thuỷ Yên Thượng, những năm đầu sau khi giao công việc này tiến triển khá tốt, tình trạng chặt phá rừng trái phép giảm đi rất nhiều từ 20-30 vụ/năm xuống còn 2-3 vụ/năm, công tác đầu tư phát triển rừng bằng các biện pháp tác động lâm sinh chưa triển khai. Trong khi đó ở cộng đồng Thôn 4 Thượng Quảng, Thôn 3 Bắc Sơn, bên cạnh người dân bảo vệ tốt còn có kế hoạch phát triển rừng như trồng bổ sung cây bản địa vào các vùng khoanh nuôi, trồng keo vào các đám trống trong rừng. Bên cạnh đó công tác bảo vệ rừng vẫn còn một số hạn chế nhất định đó là tình trạng chặt phá trái phép còn xảy ra, 2-3 vụ/năm với quy mô nhỏ và đều bị phát hiện và lập biên bản, nguyên nhân do tính chủ quan từ phía cộng đồng và động lực có phần giảm sút do hưởng lợi từ rừng hầu như không có gì, kinh phí tuần tra không có trong khi đời sống người dân còn rất nghèo. Ban quản lý Thôn tự ý linh hoạt cho phép người dân trong cộng đồng vào rừng chặt cây gỗ nhỏ làm nhà nhưng chưa có ý kiến của kiểm lâm, ban thôn cho rằng đây là việc làm sai, nhưng người dân thực sự rất có nhu cầu, cụ thể như trường hợp thôn Thuỷ Dương (Lộc Tiến), Thôn 3(Bắc Sơn), Thôn 4 (Thượng Quảng). Qua điều tra, phỏng vấn hộ gia đình và chính quyền địa phương sở tại đều có quan điểm chung cho rằng giao rừng cho dân chắc chắn tốt hơn khi rừng vô chủ, ngay cả trong trường hợp bản thân cộng đồng có tự ý vào chặt gỗ để sử dụng vào mục đích gia dụng với quy mô nhỏ lẻ và ít nhiều cũng có sự đồng ý của ban thôn. Tất cả hộ gia đình trong CĐDC được giao rừng tự nhiên đều thật sự có niềm tin và ý thức được đó sẽ là tài sản của chính mình, do cộng đồng làm chủ và có khả năng hưởng lợi, nếu quản lý và bảo vệ tốt (dĩ nhiên, đó chỉ là quyền sử dụng rừng và đất rừng). Từ ý thức nói trên và sự ràng buộc của hương ước BV&PTR do chính họ xây dựng đã làm cho hoạt động quản lý và BVR bước đầu thật sự có hiệu quả. Hầu như các thôn được giao rừng đều chấm dứt hẳn hiện tượng người dân trong thôn vào rừng khai thác trái phép. Các trường hợp cá biệt, do dân ngoài thôn vào khai thác gỗ, lâm sản, săn bắt, bẫy trái phép thú rừng, CĐDC đã tích cực, chủ động phối hợp cùng lực lượng Kiểm lâm sở tại truy quét, ngăn chặn. Chấm dứt được hiện tượng người dân trong thôn bàng quan, đứng ngoài cuộc trong việc BVR trên địa bàn như từng xảy ra trước đây. Các thôn đã chủ động tổ chức lực lượng BVR trực tiếp hoặc phối hợp với lực lượng kiểm lâm sở tại tuần tra kiểm tra rừng theo định kỳ hoặc đột xuất. Ban quản lý thôn cùng các tổ bảo vệ rừng vận động thêm nhân dân kết hợp với trạm kiểm lâm sở tại kiểm tra rừng theo định kỳ 2-3 tháng một lần, nhiều lúc còn kiểm tra đột xuất tại các điểm nóng về chặt phá rừng. Hiện nay các tuyến đường dùng trâu kéo gỗ trước đây được xoá sạch không còn dấu vết hiện đang bị cây bụi phủ dần. Cộng đồng coi trọng công tác bảo vệ rừng tự nhiên như bảo vệ tài sản của cộng đồng, của mỗi người dân. Nhờ vậy người dân trong thôn không chỉ là tai mắt của ban thôn, của trạm kiểm lâm mà tự họ đấu tranh với kẻ xấu để bảo vệ rừng, bảo vệ quyền lợi của họ và chính cũng là bảo vệ công sức của tập thể đã bỏ ra trong đó có bản thân mỗi người dân. 2.2.3.2 Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch quản lý rừng của nhóm hộ. Theo đánh giá của nhóm hộ Thanh Tân, Sơn Quả, nhóm 1 thôn 4, nhóm 1 thôn 3, Thượng Quảngranh giới giao các nhóm không rõ ràng, không có mốc ranh giới, do đó thậm chí thành viên nhóm hộ không nắm được khu vực đã giao, đối tượng rừng được giao chủ yếu là rừng nghèo, có kế hoạch quản lý phát triển rừng, nhưng việc triển khai thực hiện chưa đồng bộ chủ yếu tập trung quản lý bảo vệ rừng. Việc triển khai tuần tra bảo vệ rừng của tổ bảo vệ chuyên trách tiến hành không thường xuyên (3lần/năm như ở nhóm 1 thôn 4), riêng ở nhóm 1 thôn 3 trên danh nghĩa giao cho nhóm hộ (6 người) nhưng thực tế cả cộng đồng thôn đều tham gia QLBVR vì chỉ riêng nhóm hộ không thể quản lý được khu rừng được giao. Việc thực hiện kế hoạch quản lý rừng ở nhóm hộ rất khó do các mâu thuẫn thường xảy ra giữa nhóm hộ và người dân trong thôn, nhóm hộ và người ngoài thôn về khai thác lâm sản ngoài gỗ thậm chí khai thác trái phép gỗ và tình trạng lấn chiếm đất rừng. Hơn nữa tính cộng đồng trong nhóm hộ chưa cao, với một tập thể chưa đủ mạnh nhưng phải quản lý trên một diện tích lớn (khoảng 100 ha) nên không thể tạo ra sức mạnh để thực hiện tốt công tác bảo vệ và phát triển rừng. 2.2.3.3 Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch quản lý rừng của hộ gia đình. Tính khác biệt giữa giao cho cộng đồng và nhóm hộ so với hộ gia đình là quy mô diện tích giao nhỏ hơn nhiều, gần nơi sinh sống nên công tác quản lý bảo vệ rừng có phần tốt hơn nhóm hộ. Tính tự chủ, tự giác cao hơn để thực hiện kế hoạch quản lý rừng. Đối tượng rừng được giao cho hộ gia đình ở xã Hương Lộc nói riêng và hộ gia đình nói chung là rừng nghèo kiệt nhưng các biện pháp tác động vào rừng để nâng cao chất lượng rừng chưa có do người dân nghèo, đời sống còn nhiều khó khăn trong khi sự đầu tư hỗ trợ từ các ban ngành, tổ chức khác không có. Việc kiểm tra bảo vệ rừng khá tốt vì họ xác định trách nhiệm và nghĩa vụ khi nhận rừng tuy nhiên vần còn tình trạng người dân trong thôn vào rừng của họ lấy củi, thu hái lâm sản, thậm chí chặt gỗ do nhu cầu người dân trong thôn nhiều trong khi rừng tự nhiên chỉ giao còn đủ cho 60 hộ. Song vụ việc xảy ra không nhiều, với mức độ nhỏ hơn trước đây khi rừng vô chủ ai muốn vào lấy gì cũng được. Điều đáng nói là một số hộ có nhu cầu tận thu lâm sản có xin phép chủ rừng trước khi vào rừng không như trước đây họ tự ý muốn đi lúc nào cũng được Một nghịch lý đang tồn tại trong khi thực hiện kế hoạch lý rừng của hộ gia đình xã Hương Lộc và nhiều xã khác là những diện tích đất trống cây bụi nằm trong diện tích được giao, hộ gia đình có nguyện vọng đầu tư trồng rừng kinh tế để kết hợp lấy ngắn nuôi dài thì không được phép của kiểm lâm sở tại mặc dù đơn xin phép được gửi đi 2-3 lần, bởi lẽ chính quyền sở tại lo ngại rằng khi cho họ phát để trồng rừng sẽ có nguy cơ xâm hại đến diện tích rừng tự nhiên đã giao. Nguyên nhân dẫn đến vấn đề này đó là do công tác điều tra khảo sát ban đầu không kỹ do đó không bóc tách được những diện tích đất không có rừng trong tổng thể giao cho hộ để cho phép hộ gia đình được phép tác động mà đáng ra điều đó thuộc quyền của người sử dụng đất và rừng khi được nhà nước cấp thẻ đỏ. 2.2.4 Hưởng lợi/ cơ chế chia sẻ lợi ích: 2.2.4.1 Cơ chế phân chia lợi ích của các hình thức QLRCĐ. Tuy nhiên do phương pháp tiếp cận khác nhau nên cơ chế hưởng lợi có sự khác biệt cơ bản giữa các thôn, cụ thể như sau: Nhóm 1: Ở thôn 4 (Thượng Quảng), Thôn A Pát (Thượng long), Thôn 3 (Bắc Sơn) dựa vào mô hình rừng ổn định để xây dựng kế hoạch phát triển rừng 5 năm, trên cơ sở đó xác định số lượng cây gỗ được phép khai thác và dựa vào mục đích khai thác gỗ (sử dụng hay thương mại) đế xây dựng cơ chế phân chia lợi ích. Nhóm 2: Ở các thôn còn lại thì dựa vào lượng tăng trưởng hàng năm của rừng (2%/năm/ha) để xác đinh lượng khai thác. Tuỳ vào lượng tăng trưởng hàng năm để có cơ chế phân chia sản phẩm hưởng lợi được quy định trong phương án của từng cộng đồng. Tuy nhiên ở cả 2 nhóm này đều có một số bất cập như: chỉ mới dựa vào số lượng cây được khai thác mà chưa chú trọng đến loài cây và mô hình rừng ổn định vẫn chưa có tính pháp lý của nó (trường hợp nhóm 1). Đối với trường hợp của nhóm 2 cơ sở của việc tạm ứng gỗ của cộng đồng trong 10 năm đầu (khai thác tối đa 50m3 gỗ/năm) chỉ mới dựa vào lượng tăng trưởng hàng năm của rừng chung cho toàn tỉnh (2%) mà chưa có điều tra cụ thể lượng tăng trưởng cho khu rừng đã giao cho cộng đồng. Nhưng trên thực tế các đối tượng nhận rừng hưởng lợi chính từ rừng chủ yếu là lâm sản ngoài gỗ (LSNG). Người dân trong các cộng đồng cho rằng LSNG là sản phẩm được tiếp cận tự do, nên tất cả mọi người trong thôn nhận rừng đều được thu hái LSNG trong phạm vi rừng được giao. Ở đây chúng tôi muốn đi sâu phân tích hai cộng đồng có hưởng lợi từ rừng sau khi giao như sau: * Cộng đồng thôn Thuỷ Yên Thượng/Lộc Thuỷ: Hưởng lợi trực tiếp từ gỗ RTN. Cơ sở của việc tạm ứng gỗ để hưởng lợi từ rừng theo tỷ lệ gỗ tăng trưởng hàng năm của rừng, cụ thể trong năm 2004 UBND tỉnh đã ký quyết định cho phép cộng đồng thôn Thuỷ Yên Thượng được phép khai thác 91,2 m3 (nếu quy ra giá trị sau khi trừ các khoản chi phí khai thác thôn thu về 119 triệu đồng). Trên cơ sở phương án phân chia sản phẩm được thôn xây dựng có sự tham gia của chính quyền địa phương và giám sát của Kiểm lâm, sản phẩm gỗ dùng cho các hoạt động của thôn và người dân cụ thể như phân chia sản phẩm hượng lợi theo thứ tự ưu tiên như sau: + Gỗ dùng làm quan tài cho người già yếu, bệnh tật trong thôn. + Gỗ dùng làm tư liệu sản xuất như cày, bừa. + Gỗ gia dụng cho người dân trong thôn được cộng đồng người dân cùng ban thôn xét duyệt, đối tượng được ưu tiên hưởng lợi là những người có công đóng góp nhiều cho cộng đồng thôn trong công tác BV và PTR. Giá gỗ bán được công khai cho toàn thôn, phần thu lại sau khi trừ các khoản đóng góp của người dân để làm quỹ bảo vệ phát triển rừng của thôn. Ngoài ra thôn còn tổ chức khai thác cảnh quang môi trường để phát triển kinh doanh du lịch tạo nguồn thu cho cộng đồng, cụ thể như ở khu vực suối tiên. Nguồn lợi vô hình khác nữa đối với Nhà nước không phải bỏ ra 50.000 đ/ha để bảo vệ mà tài nguyên rừng vẫn được bảo tồn thậm chí được nâng lên thông qua các hoạt động quản lý bảo vệ rừng và tác động lâm sinh làm giàu rừng. Về trình tự thủ tục rất phức tạp cụ thể như sau: Ban thôn lập tờ trình xác định kế hoạch khai thác gỗ từ rừng theo nguyên tắc hưởng lợi nói trên có UBND xã xác nhận và Kiểm lâm sở tại cùng thôn kiểm tra tại rừng xác định vị trí, số lượng cây khai thác, phương pháp khai thác và vận xuất gỗ bảo đảm ít tổn hại đến tính năng phòng hộ của khu rừng, lập biên bản thống nhất, mời cơ quan có trách nhiệm tiến hành đóng búa bài cây và trình UBND tỉnh cấp giấy phép khai thác thông qua đề nghị của Sở Nông nghiệp và PTNT. Khi khai thác thôn báo cho Kiểm lâm sở tại nghiệm thu đóng búa Kiểm lâm trước khi vận chuyển sử dụng và tiêu thụ. Đồng thời, phải hoàn thành các nghĩa vụ theo quy định hiện hành của Nhà nước. * Cộng đồng thôn Thuỷ Dương (Lộc Tiến): Hưởng lợi gián tiếp từ rừng thông qua kinh doanh du lịch sinh thái. Như chúng ta đã phân tích, quyền lợi của cộng đồng phù hợp với nghĩa vụ và trách nhiệm của cộng đồng. Sau một thời gian quản lý bảo vệ rừng cộng đồng được hưởng lợi như thế nào và việc phân chia ra sao, qua thực tế trao đổi với cộng đồng, nhóm nghiên cứu chúng tôi đánh giá cụ thể như sau: Theo phương án được duyệt thì hàng năm, cộng đồng thôn được tạm ứng 50 m3 gỗ, tuy nhiên đến nay cộng đồng thôn chưa được tạm ứng gỗ, điều này làm giảm đi phần nào động lực bảo vệ rừng của cộng đồng. Nguyên nhân do đối tượng rừng được giao nghèo, cây đủ tiêu chuẩn khai thác theo quy chế khai thác gỗ của Bộ NN và PTNT chiếm tỷ lệ rất thấp, phải đi vào tận vùng sâu của khu rừng mới mới đến địa điểm khai thác nên chi phí nhiều không bù nổi. Mặt khác thủ tục khai thác gỗ rất phức tạp, qua nhiều khâu từ bài cây, lập hồ sơ, thẩm định, phê duyệt và các thủ tục khác về kiểm soát lâm sản trong khi nhận thức người dân còn hạn hẹp. Đối với lâm sản ngoài gỗ, Ban thôn cho phép người dân khai thác mây phục vụ mây tre đan, lá nón, củi khô nhằm tạo việc làm và nhu cầu chất đốt cho người dân trong thôn. Một số hộ gia đình còn làm thêm các nghề phụ để tăng thu nhập như: Mây tre đan... do Hợp tác xã Song Thuỷ tổ chức sản xuất và điều cơ bản đáng mừng là những hộ gia đình trước đây chuyên sinh sống vào nghề rừng thì hiện nay đã chuyển đổi ngành nghề hợp pháp này để tăng gia sản xuất. Bên cạnh đó, được sự giúp đỡ của Hạt Kiểm lâm Phú Lộc, Trạm Kiểm lâm Thừa Lưu, việc thực hiện các dự án trồng rừng, chăm sóc, gieo ươm, phát luỗng, trồng cây ăn quả, tuần tra bảo vệ rừng... Ban thôn và Trạm Kiểm lâm đã vận động lao động trong thôn tham gia để nâng cao thu nhập. Nhờ công tác bảo vệ rừng tự nhiên được làm tốt, bảo vệ nguồn nước không chỉ phục vụ cho đồng ruộng, hoa màu mà còn tạo ra cảnh quan du lịch kỳ thú Suối Voi, góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân trong Thôn, Xã từ khai thác du lịch sinh thái. Khác với hình thức hưởng lợi ở Thuỷ Yên Thượng, thôn Thuỷ Dương thu lợi từ kinh doanh du lịch sinh thái từ khu rừng đầu nguồn do thôn QLBVR. Theo đánh giá của ban chủ nhiệm HTX Song Thuỷ mỗi năm thu lãi ròng khoảng 300 triệu. Hình thức kinh doanh này đã thu hút khoảng 25 hộ trong thôn tham gia kinh doanh dich vụ, khoảng 50 người trong thôn là xã viên hợp tác xã. Hợp tác xã có các khoản chi không thường xuyên cho thôn như các buổi họp thôn, lễ hội của thôn, PCCCR, nhưng khoản chi thường xuyên cho tổ bảo vệ rừng chuyên trách thì không có, nên chăng cần dành riêng quỹ bảo bệ và phát triển cho thôn từ nguồn thu kinh doanh du lịch sinh thái. 2.2.4.2. Cơ chế phân chia lợi ích từ rừng được nhà nước giao cho nhóm hộ, hộ gia đình quản lý. Ở hai hình thức này, cơ chế hưởng lợi được áp dụng theo Quyết định 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng chính phủ về quyền hưởng lợi và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, hoặc được thuê, hoặc được khoán đất lâm nghiệp và rừng. Quyết định 178 không quan tâm đến lượng tăng trưởng của rừng và trình tự thủ tục khai thác hưởng lợi theo quyết định 40/2005/QĐ-BNN ngày 07/7/2005 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc ban hành quy chế khai thác gỗ và lâm sản. Khi rừng được giao đạt trữ lượng trên 110m3 gỗ/ha mới được phép khai thác chính với cường độ 18-23% với đối tượng gỗ đưa vào khai thác chính có cấp kính 40cm trở lên thuộc nhóm III-VIII. Nhưng nếu rừng có tăng trưởng nhưng trữ lượng <110m3 vẫn chưa được hưởng lợi mà trong quá trình triển khai phương án QLBVR không được tạm ứng gỗ như mô hình rừng cộng đồng. Do đó để người dân hưởng lợi từ rừng nhất là rừng nghèo phải mất hàng chục năm mới có thể khai thác chính được nếu quản lý bảo vệ tốt. Điều này nói lên tính bất cập của QĐ178/CP trong cơ chế hưởng lợi Đối với mô hình nhóm hộ, hộ gia đình chưa có một hưởng lợi gì ngoài khai thác song mây, lá nón, tre nứa, mật ong...với tỷ lệ rất thấp so với công sức họ bỏ ra kể từ khi nhận rừng, điều này đã làm cho động lực và sự nhiệt tình giảm sút nếu như không có sự tiếp sức từ các nhà quản lý vĩ mô trong việc hoạch định cơ chế chính sách phù hợp với đối tượng rừng được giao. 2.2.5 Hương ước/ quy ước bảo vệ rừng: Việc xây dựng hương ước BVR phải trên cơ sở rừng được giao cho CĐDC thì mới phù hợp với quy luật của cuộc sống và thật sự phát huy tác dụng (vì CĐDC bảo vệ chính tài sản của mình. Thử hỏi, CĐDC ban hành hương ước để bảo vệ tài sản của các chủ thể khác mà không có lợi ích gì trực tiếp cả thì liệu hương ước đó có khả thi hay không!?) Thực hiện thông tư số 56/1999/TT/BNN-KL của Bộ Nông nghiệp & PTNT về việc xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư, thôn bản, làng. Ban chỉ đạo Huyện đã tiến hành giúp đỡ cho Hội đồng nhân dân xã chỉ đạo triển khai xây dựng thí điểm quy ước bảo vệ và phát triển rừng của thôn. Quy ước BV và PTR là cụ thể hoá các văn bản pháp quy về rừng và đất rừng thành những hành động cụ thể. Theo đó các thôn bản đều phải xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng dù có được giao rừng hay không. Do đó loại quy ước này mang nặng tính hình thức. Trong tiến trình GĐGR cho cộng đồng phải xây dựng hương ước bảo vệ và phát triển rừng của cộng đồng. Do vậy cần phân biệt rõ 2 khái niệm Quy ước của thôn bản và Hương ước của cộng đồng. Về nguyên tắc Hương ước chứa đựng một cách cụ thể hoá nội dung của Quy ước nhưng có bổ sung thêm một số tục lệ mang tính chất của một số dòng tộc, lệ làng để nhằm mục đích bảo vệ rừng được giao một cách có hiệu quả. Sau khi xây dựng được dự thảo Hương ước bảo vệ rừng, họp dân thông qua dự thảo Hương ước bảo vệ và phát triển rừng, lấy ý kiến thống nhất từng phần, từng chương, từng điều khoản cụ thể. Hương ước bảo vệ và phát triển rừng là công cụ để đưa công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn thôn đi vào nề nếp, phát huy các truyền thống tốt đẹp trong cộng đồng dân cư, xây dựng nếp sống văn hóa mới ở thôn bản là tiền đề để thực hiện phương án giao rừng tự nhiên cho thôn bản quản lý. Trong qua trình điều tra phỏng vấn cộng đồng đa số cho rằng đã nắm bắt được hương ước vì hương ước do người dân trong tự thảo luận xây dựng thông qua sự giúp đỡ của tư vấn. Nội dung chính của quy ước bao gồm các điều khoản về khai thác lâm sản, chăn thả gia súc, săn bắt động vật, đốt nương làm rẫy, PCCCR... Bên cạnh đó còn quy định nghĩa vụ và quyền lợi của cộng đồng và các điều khoản xử phạt, khen thưởng. Do cách tiếp cận khác nhau nên nội dung các bản hương ước trình bày không như nhau, nhưng chủ yếu vẫn bao hàm các nội dung trên. Tuy nhiên trong quá trình triển khai hương ước vẫn còn một số bất cập, quy định chưa phù hợp ví dụ như nguồn lâm sản ngoài gỗ được quy định sử dụng chung, cấm người không có nhiệm vụ vào rừng trong mùa nắng cao điểm, cộng đồng dân cư và hộ gia đình không được tự ý khai thác gỗ để bán không theo kế hoạch được duyệt... Các quyền lợi nêu ra trong hương ước rất nhiều nhưng không thực hiện được do đối tượng rừng không đáp ứng được nhu cầu của người dân, một số người dân trong cộng đồng ý thức chấp hành chưa tốt. Do đó dẫn đến tình hình vi phạm hương ước vẫn còn xảy ra ở một số cộng đồng thôn như Thôn 4 (Thượng Quảng), Thủy Dương (Lộc Tiến). Kinh nghiệm tại cộng đồng cho thấy để hương ước thực sự có hiệu quả phải do người dân tự xây dựng, điều chỉnh và sự thống nhất cao của mỗi thành viên trong cộng đồng. Bên cạnh đó phải biết kế thừa tinh hoa các hương ước, tập tục trước đây của các dòng tộc, bản làng vì các tinh hoa này gắn sâu trở thành tập quán của người dân từ xa xưa, cần xoá bỏ các tục lệ lạc hậu. Hương ước bảo vệ và phát triển rừng phải thật rõ ràng cụ thể ngắn gọn nhưng đầy đủ để mỗi người trong thôn dễ hiểu, dễ thực hiện và mang tính quần chúng hơn là nặng về chi tiết, pháp luật của nhà nước. 2.2.6. Sự tham gia của người dân/ giới: Trong quá trình triển khai kế hoạch quản lý rừng, sự tham gia người dân trong mô hình giao rừng cho cộng đồng thôn rõ nét hơn so với nhóm hộ và hộ gia đình bởi tính chất sở hữu về rừng được giao khác nhau có thể tạm gọi theo ba hình thức sở hữu toàn dân, sở hữu nhóm và sở hữu hộ gia đình cá nhân. Vì thế trong phần này chỉ đề cập đến vai trò tham gia của người dân trong mô hình giao rừng cho cộng đồng. Cần nhấn mạnh phương pháp CFM là phương pháp luôn có sự tham gia nhiệt tình của người dân từ khâu đầu triển khai (họp thôn, phỏng vấn, lấy ý kiến tham gia của người dân trong thôn) đến khâu rà soát hiện trạng, đánh giá tài nguyên rừng được giao, thông qua các quy hoạch phương án đượcc duyệt... Các công đoạn trong tiến trình CFM luôn đòi hỏi có sự tham gia vì hơn ai hết người dân là động lực quyết định đến vần đề tổ chức là triển khai các hoạt động hậu giao rừng, nếu người dân đứng ngoài cuộc thì việc giao rừng cho cộng đồng dân cư không còn đúng với bản chất của nó. Đặc biệt người tham gia bảo vệ rừng chính là những người trước đây phá rừng, nên họ nắm chắc tình hình rừng của họ đang quản lý cũng như các điểm yếu, vùng xung yếu cần tăng cường bảo vệ chặt chẽ hơn Sự tham gia của cộng đồng chưa thật đúng mức, phần lớn nhiệm vụ tập trung vào tổ bảo vệ rừng, nguyên nhân là chủ yếu do đối tượng rừng đuợc giao quá nghèo chưa hưởng lợi gì từ rừng so với công sức bỏ ra do dó sự tham gia của người dân có phần giảm sút so với các năm sau khi nhận rừng do hết sự đầu tư của các dự án (như thôn Thuỷ dương). Bên cạnh đó năng lực và nhận thức của cộng đồng và tổ bảo vệ rừng còn hạn chế, còn nhiều thách thức phải đối mặt như đời sống dân cư nghèo, thiếu công việc làm... Vai trò của phụ nữ tham gia trong tiến trình là hết sức quan trọng. Đối với cộng đồng dân tộc ít người, tiếng nói của nữ giới có vai trò quan trọng trong việc tham gia tại các cuộc thảo luận, trao đổi, họp thôn, họp cụm dân cư và có tác dụng tích cực tạo động lực cho cộng đồng thôn tham gia. Tuy phụ nữ không trực tiếp tham gia tổ bảo vệ rừng nhưng họ có mặt trong Ban Quản lý rừng thôn như ở Thôn 4- Thượng Quảng 2.3. Sự tham gia các bên liên quan: Thực tiễn quản lý cho thấy, quản lý là nghệ thuật tạo ra sự ràng buộc các đối tượng liên quan với chủ thể quản lý. Do vậy, không thể có một chủ thể nào có thể độc lập giải quyết mọi vấn đề trong quản lý mà không có sự hợp tác, trợ giúp của các bên liên quan 2.3.1. Vai trò của chính quyền địa phương (Huyện, xã): UBND cấp huyện đóng vai trò quyết định trong việc khởi xướng thực hiện QLRCĐ và phê duyệt các thủ tục có liên quan đến QLRCĐ trên cơ sở tham mưu của các phòng ban chuyên môn. Theo ý kiến của hầu hết đại diện lãnh đạo UBND các huyện có giao rừng tự nhiên chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về giao rừng tự nhiên là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan. Trong khi Bộ ngành ban ngành đã ban hành nhiều hệ thông văn bản liên quan thì ở góc độ quản lý vi mô như UBND huyện thậm chí cả UBND tỉnh chưa ban hành một chính sách cụ thể nào tạo động lực cho các đối tượng giao rừng tự nhiên hưởng lợi. Ngoại trừ cho tạm ứng gỗ của thôn Thuỷ Yên Thượng nhưng cơ chế thủ tục vẫn còn quá phức tạp, nếu không có hướng dẫn tận tình của kiểm lâm thì tin chắc rằng khó có thể thực hiện được. Nguồn lợi thu được trước mắt từ kinh doanh du lịch sinh thái ở Suối Voi ở Thôn Thuỷ Dương (Lộc Tiến) huyện và xã cũng không có cơ chế rõ ràng trong việc chia sẽ hưởng lợi cho ban thôn để lập quỹ BV và PTR để chi cho tổ bảo vệ chuyên trách của thôn mà đáng ra họ phải được hưởng. Chính quyền UBND các xã đã đóng góp tích cực ngay từ khi triển khai mô hình thí điểm. Trong quá trình tổ chức của nhóm hộ luôn có sự động viên của chính quyền sở tại và các đoàn thể cụ thể trong các đợt kiểm tra rừng, xử lý vi phạm. Theo tinh thần Quyết định 245/CP, UBND cấp huyện, xã, một số vụ việc như giao khoán đất cho nhóm hộ ngoài địa bàn thôn, xã không can thiệp kịp thời làm cho ngươi dân sống gần rừng không nhận được đất để phát triển sản xuất. Thông qua xã, Ban thôn thường xuyên tuyên truyền thông qua lồng ghép các cuộc họp ở thôn, tổ, cụm dân cư, bằng các phương tiện thông tin quần chúng về công tác BVR và thông báo nội dung phòng cháy, chữa cháy rừng. Ban thôn phối hợp với Trạm Kiểm lâm sở tại tổ chức họp toàn dân trong thôn 2 đợt, Hội nghị sơ kết 1 năm, 2 cuộc họp chi bộ chủ chốt bàn chuyên đề bảo vệ rừng tự nhiên với nội dung không ngừng nâng cao công tác QLBVR và thực hiện hương ước mà ban thôn và cộng đồng dân cư đã xây dựng. Thông qua lồng ghép các chương trình xã hội, Ban thôn đã tuyên truyền về công tác bảo vệ rừng. Đồng thời mạnh dạn phê bình kiểm điểm trước thôn các đối tượng vị phạm có tính hệ thống để giáo dục họ trở thành người tốt, người lao động chính đáng. Điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là triển khai thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở trong các cuộc họp thôn, lắng nghe ý kiến đề xuất từ thành viên trong cộng đồng bảo vệ rừng để thực hiện bảo vệ rừng tốt hơn. T

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbao_cao_giao_rung_tu_nhien_3796.doc
Tài liệu liên quan