Báo cáo Tập tục sinh đẻ, Nghi lễ đặt tên cho trẻ dân tộc Thái, ngành Thái đen bản Che Căn, xã Mường Phăng

PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI VÀ XÃ MƯỜNG PHĂNG.

I. DÂN TỘC THÁI.

1. Lịch sử dân tộc.

2. Tên gọi.

3. Dân cư và sự phân bố.

II.TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA XÃ MƯỜNG PHĂNG.

1. Tình hình chung.

2. Công tác lãnh đạo chỉ đạo điều hành.

3. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ trên như sau:

a. Lĩnh vực phát triển kinh tế.

b. Về Văn hóa xã hội.

c. Quốc phòng an ninh.

III. KHÁI QUÁT CÁC HÌNH THÁI VĂN HÓA, TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI THÁI.

1. Hoạt động kinh tế.

a. Nông nghiệp trồng trọt.

b. Chăn nuôi.

c. Thủ công gia đình.

d. Hái lượm và Săn bắt.

e. Trao đổi và buôn bán.

2. Thiết chế làng bản.

3. Quan hệ gia đình dòng họ.

4. Hôn nhân gia đình.

5. Sinh đẻ và nuôi con.

6. Tang ma.

7. Trang phục.

 

PHẦN II: TẬP TỤC SINH ĐẺ, NGHI LỄ ĐẶT TÊN CHO TRẺ

DÂN TỘC THÁI.

A- TẬP TỤC SINH ĐẺ.

I- Mục đích, ý nghĩa.

II- Thời gian và địa điểm tổ chức.

III- Các bước chuẩn bị cho lễ.

IV. Trình tự trong Tập tục sinh đẻ.

B- NGHI LỄ ĐẶT TÊN CHO TRẺ.

I- Mục đích, ý nghĩa.

II- Thời gian và địa điểm tổ chức.

III- Các bước chuẩn bị cho lễ.

IV. Trình tự trong Nghi lễ đặt tên cho trẻ.

C- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2722 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tập tục sinh đẻ, Nghi lễ đặt tên cho trẻ dân tộc Thái, ngành Thái đen bản Che Căn, xã Mường Phăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng, bằng gạo, củi, rượu... Ngày nay ngoài các hình thức trên nếu có điều kiện họ có thể giúp đỡ bằng tiền. Quan hệ tương trợ trong dòng họ còn thể hiện ở việc đổi công trong lúc mùa vụ, dựng nhà mới hoặc giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, rủi ro... Người Thái ở Điên Biên chủ yếu là các Họ Lò, Lường, Vì, Khoàng, Quàng, Cầm...trong đó họ Lò Được chia làm 3 họ (Lò nọi, Lò căm, Lò Ngân). Mỗi dòng họ có những quan niệm quy định khác nhau. 4. Hôn nhân gia đình. Trước đây, trong hôn nhân của người Thái thường làm rườm rà, mất thời gian, gây tốn kém tiền của cho gia đình tổ chức lễ thành hôn cho đôi vợ chồng trẻ. Ngày nay, xã hội phát triển, nhận thức được những điều đó, nên việc tổ chức hôn nhân cho đôi vợ chồng trẻ cũng được giản tiện đi rất nhiều, nhưng vẫn giữ được các sắc thái truyền thống riêng của dân tộc mình. Để đôi bạn trẻ từ khi quen biết, nẩy sinh tình cảm cho tới lúc thành vợ thành chồng phải trải qua các bước như sau: - Các bước ăn hỏi: Sang thăm dò (pay trám); sang ướm hỏi (pay mai); sang ăn hỏi đứt giá trầu cau (pay báy). Đặc biệt có nghi lễ gửi rể là nghi lễ rất quan trọng để gia đình nhà gái thử thách chàng rể tương lai, sau khi chàng rể trải qua các bước thử thách của gia đình nhà gái (chàng rể đã được gia đình nhà gái ưng ý), các bước tiếp theo sẽ được tiến hành tiếp. - Các bước trong lễ thành hôn: Lễ trải chăn đệm (pù phả pù sứa); lễ búi tóc ngược (tẳng cảu); xướng lễ báo ma nhà (lau phi hướn). Trong lễ thành hôn, bước xướng lễ báo ma nhà là bước cuối cùng, sau khi thủ tục báo các tổ tiên đã hoàn tất, cả hai bên gia đình nội ngoại, tất cả những khách mời tới dự lễ cùng nhau uống rượu mừng, chúc cho đôi bạn trẻ hạnh phúc, tới đây coi như lễ thành hôn đã hoàn tất các thủ tục và kết thúc lễ. Trong tổ chức hôn nhân của dân tộc Thái đen đều phải trải qua các bước nghi lễ như trên, mỗi một bước đều có những nghi thức hát đối đáp giữa đại diện gia đình nhà trai và đại diện gia đình nhà gái, nội dung hát đối đáp chủ yếu là để thăm dò đi tới sự thống nhất cuối cùng là gia đình nhà gái có nhất trí hay không. Đối với trường hợp gia đình nhà gái không nhất trí, mọi công việc sẽ phải dừng lại ở bước sang ướm hỏi. Trong trường hợp còn lại mọi bước tiến hành vẫn diễn ra bình thường, Mỗi một bước lễ đều có những lời khấn, bùa chú do thầy mo được gia đình mời tới chủ trì. 5. Tang ma. Từ xa xưa, dân tộc Thái đã có sự phân chia thứ bậc trong họ tộc gồm 02 họ chính: họ "Lò luông" và họ "Lò nọi". Trong đó, họ Lò luông gồm các họ như: Bạc; cầm...họ Lò nọi gồm các họ như: Lò; Lường... Trong nghi thức tang ma phần lớn các thủ tục, nghi thức, nghi lễ gần giống nhau gồm các bước như: - Túc trực khi hấp hối: trong nhà khi có người hấp hối, anh em ruột luôn túc trực ở bên cạnh. Lúc này, theo suy đoán của gia đình có thể người đang hấp hối sẽ không qua khỏi, người nhà sẽ lấy các loại lá thơm như lá khế, lá bưởi về đun nước để phòng khi người đó nhắm mắt, xuôi tay còn có nước thơm để lau chùi cho sạch sẽ. - Sau khi tắt thở, lấy khăn mặt của người quá cố nhúng vào nước lá thơm, lau chùi thân thể, chải đầu tóc vừa chải tóc vừa nói vài câu với nội dung đại loại như: " tắm rửa cho sạch, tắm sạch đi theo ma, chải tóc mượt đi về với tổ tiên dòng họ". Tiếp đến là mặc quần (váy), áo cho người quá cố, sau đó tiến hành các bước tiếp theo như khâm liệm, chuẩn bị vải vóc, áo quan, tiến hành báo trời đất, báo tổ tiên và cử người đi xem này giờ để mở tang, chôn cất. - trong việc chôn cất nhất thiết không được trùng những ngày như: ngày thờ cúng tổ tiên (vến túng), ngày sinh của những người trong gia đình (vến ók),ngày lên nhà mới của gia đình (xanh pháy hướn). Trong tang lễ của người Thái còn có rất nhiều các nghi thức, thủ tục, nghi lễ liên quan như: làm nhà mồ cho người chết, làm cây cao, các vật dụng chia cho người chết, các con vật hiến tế... Mỗi một tang lễ đều có sự đóng góp của anh em, họ hàng trong làng bản, thể hiện tính đoàn kết, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong lúc khó khăn. Trong gia đình có tang lễ sẽ cử người đi nhờ thầy mo, là người biết xướng lễ, biết chỉ đường dẫn lối cho hồn người chết lên mường trời, về với tổ tiên. Bài xướng lễ để tiễn đưa hồn người chết về mường trời trước đây thường rất dài, có thể kéo dài tới 5-6 ngày. Ngày nay trình độ nhận thức đã tiến bộ rất nhiều, các bài xướng lễ đã được cắt ngắn đi rất nhiều nhưng vẫn giữ được đầy đủ các bước chính của phần lễ. Đối với họ Lò nọi, bài xướng lễ của thầy mo chỉ tiễn hồn người chết tới " liến pán nọi" là kết thúc lễ xướng tức là nơi hội tụ, làm ăn của các linh hồn dòng họ Lò nọi. Đối với họ Lò luông, bài xướng dài hơn một chút, tức là lời xướng lễ sẽ trải qua "liến pán nọi" lên tới "liến pán luông" mới kết thúc lễ xướng và chuẩn bị các thủ tục khác để đưa linh cữu người chết về nơi an nghỉ cuối cùng. 6. Trang phục. Trang phục truyền thống của đồng bào Thái chứa đựng những nét văn hóa đặc trưng riêng của tộc người, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Gồm có trang phục nam và trang phục nữ, trong đó: + Trang phục nam dân tộc thái: Áo, quần, mũ, tất cả đều được làm bằng vải tự dệt nhuộm chàm của dân tộc Thái. Ngày nay, trong phong cách vận bộ đồ trang phục truyền thống nam dân tộc Thái gần như không còn nguyên vẹn, do phụ nữ đồng bào Thái đã không còn trú trọng tới việc thêu thùa, may vá nữa. Các trang phục nam ngày nay chủ yếu là mua các sản phẩm công nghiệp của dân tộc kinh có bán ngoài thị truờng. + Trang phục nữ dân tộc Thái: áo, váy, khăn piêu. Mỗi phụ nữ dân tộc Thái ngày nay gần như đều có một bộ áo, váy đầy đủ, đậm đà bản sắc văn hóa tộc người. PHẦN II: TẬP TỤC SINH ĐẺ, NGHI LỄ ĐẶT TÊN CHO TRẺ DÂN TỘC THÁI. A- TẬP TỤC SINH ĐẺ. I. Mục đích, ý nghĩa. Dân tộc Thái canh tác chủ yếu trên ruộng nương trong điều kiện, trình độ hiểu biết về khoa học kỹ thuật ít, kinh tế chậm phát triển. Cuộc sống chủ yếu dựa vào yếu tố tự nhiên, các hiện tượng tự nhiên diễn ra trong năm như: gió bão, mưa, lũ lụt, hạn hán, trăng khuyết, trăng tròn, nguyệt thực, dịch bệnh, ốm đau…tác động đến họ mà không lý giải được, làm cho họ sợ hãi. Do vậy, họ tìm kiếm sự che trở từ các thế lực siêu nhiên giúp họ chống lại những tác động xấu từ ngoại cảnh. Người Thái tin vào số phận, tin vào trời (Then); mọi sự vật hiện tượng dưới trần gian đều do trời sắp đặt, trời đứng cai quản loài người và vạn vật. Sinh đẻ của phụ nữ các dân tộc nói chung, dân tộc Thái nói riêng là theo quy luật phát triển của tự nhiên, đồng thời ở đó ta thấy được sự quan tâm của cộng đồng xã hội đối với một thành viên mới sắp ra đời như thế nào, từ lúc thai nghén, đến ở cữ, rồi hết ở cữ cho đến khi làm lễ nhập tổ tiên (nếp tạy). Việc tìm hiểu, nghiên cứu, bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái qua quá trình sinh đẻ của phụ nữ, nhằm tôn vinh những giá trị văn hóa tiêu biểu, góp phần làm phong phú hơn kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam. II. Thời gian và địa điểm tổ chức. Đối với dân tộc Thái, trước đây vấn đề sinh đẻ thường được diễn ra tại nhà, việc đỡ đẻ hoàn toàn phụ thuộc vào bà đỡ cùng những người trong gia đình. Ngày nay, sự hiểu biết của người dân cũng được nâng cao, khi trong gia đình có người sắp trở dạ sinh con, người nhà sẽ chuyển thai phụ đến bệnh viện hoặc các trạm Y tế gần nhất để đảm bảo an toàn cho cả mẹ và con. Trong quá trình điền dã Bảo tồn tập tục sinh đẻ dân tộc Thái ngành Thái đen bản Che Căn- xã Mường Phăng- huyện Điện Biên đoàn công tác Bảo tàng tỉnh tiến hành Bảo tồn tập tục sinh đẻ tại gia đình anh Lò Văn Định (sinh năm 1990) là chồng của thai phụ Lò Thị Thu (sinh năm 1992). III. Các bước chuẩn bị. Người phụ nữ Thái khi đã lập gia đình, sau một thời gian ngắn phát hiện ra mình đã có thai thông qua một số biểu hiện như: kén ăn, xanh xao, trạng thái không bình thường mệt mỏi đây là giai đoạn cần chú ý bồi bổ, dưỡng thai và giữ gìn sức khoẻ là chủ yếu. Người nhà ưu tiên không cho làm những công việc nặng nhọc như: Gánh vác, lên nương, cuốc rẫy…ưu tiên khẩu phần ăn uống, đảm bảo đầy đủ dưỡng chất cho thai nhi phát triển bình thường. Trong suốt quá trình mang thai, cùng sự quan tâm của gia đình, thai phụ cũng đã biết tự chuẩn bị những đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho bản thân và tã lót cùng một số vật dụng cần thiết để chờ đón đứa trẻ chào đời. *Người chồng của thai phụ chuẩn bị: Theo tính toán trước ngày thai phụ trở dạ khoảng một tuần, người chồng có trách nhiệm chuẩn bị cây tre hoặc cây nứa đem về để sẵn ở nhà, đến ngày vợ sinh con sẽ dựng nhà tắm cho vợ. IV. Trình tự trong Tập tục sinh đẻ. * Khi trở dạ sinh con: Khi thai phụ sắp đẻ thường đau bụng dồn dập, buồn đại tiện, tiểu tiện và muốn rặn, cơn đau thưa bà đỡ làm động tác xoa bụng kích thích cho tử cung co bóp để đẩy trẻ ra ngoài. Khi thấy đầu trẻ thập thò thì bà đỡ tiến hành như sau: - Nếu tay phải thuận thì tay trái bà đỡ giữ tầng sinh môn, tay phải bà đỡ ấn đầu trẻ cho trẻ cúi xuống tốt. - Khi đầu trẻ đã cúi bà đỡ tiếp tục: tay trái giữ cho chặt tầng sinh môn, tay phải đẩy trán và mặt của trẻ sao cho cằm trẻ ra khỏi sinh môn người mẹ. - Khi mặt đã ra khỏi tầng sinh môn bà đỡ lấy khăn sạch móc miệng trẻ cho nước ối ra hết khỏi miệng. Đồng thời đầu trẻ tự xoay nghiêng sau đó bà đỡ lấy 2 tay áp sát vào 2 má của trẻ kéo xuống phía hậu môn để cho vai trên của trẻ ra khỏi phía trên tầng sinh môn, sau đó tay phải của bà đỡ cho xuống dưới đỡ cổ và gáy của trẻ đẩy lên phía trên, tay trái bà đỡ giữ tầng sinh môn sao cho khỏi bị rách, khi vai sau đã ra khỏi tầng sinh môn, tay dưới bà đỡ ngửa lên trên để đón lấy mông và chân trẻ. * Khi đứa trẻ chào đời: Khi đứa bé lọt lòng "tốc phạk" bà đỡ nhanh tay đỡ trẻ, cắt rốn với những thao tác như sau: - Lấy chỉ thắt chặt rốn, cách cuống rốn khoảng 2cm. - Lấy cật thanh nứa nhỏ bằng hai ngón tay, lấy dao vót thật sắc rồi hơ qua lửa hoặc nhúng vào nước sôi để khử trùng cho cật nứa rồi cắt rốn trẻ, ngày nay chủ yếu là dùng kéo cắt. - Lấy nước ấm lau cho trẻ rồi đưa cho bà đón trẻ (me hặp), bà đón bế bé trên tay rồi quấn tã cẩn thận, đưa bé nằm vào một cái mẹt và đặt trong gian bên sàn rửa (chán). Để đầu bé quay ra hướng ngoài cửa, chân bé quay vào trong nhà. Bởi theo quan niệm: Giữa đứa trẻ và rau trong bụng người mẹ có liên quan đến nhau, khi rau trong bụng mẹ chưa ra thì có thể đe doạ đến tính mạng sản phụ bất cứ lúc nào. Đặt đứa trẻ như vậy có ý nghĩa như: - Một là: Theo tư thế xuôi lúc bé lọt lòng chân vẫn quay về hướng mẹ để đợi rau trong bụng mẹ ra hết. - Hai là: Để cho tổ tiên biết và phù hộ người mẹ thoát khỏi tai ương. Trong thời gian sinh đẻ, người nhà phải đun nước thuốc để tắm cho sản phụ. Theo quan niệm của người Thái sản phụ sau khi sinh từ 6-7 ngày, kiêng không được tắm nước lã sẽ hại, sức khoẻ lâu hồi phục. Do vậy người chồng phải lo đun nước tắm hàng ngày cho vợ con. Trong khoảng từ 6-7 ngày đầu, cả hai mẹ con phải tắm lá thuốc mỗi ngày từ 5-6 lần (nước lá thuốc đun sôi để âm ấm tắm, không được pha thêm nước lã). Lượt tắm trong ngày tiếp theo giảm dần đến khi một ngày chỉ cần tắm nước lá thuốc từ 1- 2 lần cho đến hết tháng. * Chăm sóc cho sản phụ: Sau khi sinh xong hai mẹ con sẽ được tắm nước thuốc do người chồng đun sẵn, cùng với đó người nhà khẩn trương kê sạp, chải đệm, gối kê đầu, chăn đắp cho hai mẹ con nằm, đặt hai sọt phía cuối giường, một sọt để đựng tã sạch cho trẻ và một sọt đựng tã bẩn. Người chồng mang củi to vào nhóm lửa bếp cho hai mẹ con sưởi (bếp đã chuẩn bị trước). Khi sản phụ được tắm rửa vệ sinh sạch sẽ, các bà đưa sản phụ đến ngồi nơi bếp lửa, phía trên sà nhà nơi sản phụ ngồi có buộc khăn piêu thõng xuống để sản phụ ngồi vịn. Ngồi như vậy sẽ có tác dụng cho máu bẩn dồn ra hết mới mau sạch người. Nếu cho sản phụ vào nằm ngay thì sẽ không được tốt, vì máu sẽ dồn lên phía đầu, sẽ đau đầu và choáng. Khi sản phụ vào ngồi ghế rồi, trước tiên là đưa cho sản phụ bát nước thuốc đun từ lá cây phang (là một loại cây thân thảo mọc trong rừng) còn nóng, để sản phụ uống ngay, vừa uống vừa thổi "pấu sột". Đây là loại thuốc có tác dụng để hồi phục sức khỏe. Bên cạnh sản phụ, đứa trẻ được chải chăn riêng (pái phả neo), mền bông chải xuống trước, lấy tã lót dầy phủ lên trên. Quấn tã cho bé rồi đặt bé nằm xuống, lấy chăn bông dầy đắp từ vai bé xuống. Lấy một chiếc chăn bông nữa quấn thành nửa vòng tròn từ vai bên phải của bé vòng qua đầu đến vai bên trái của bé, rồi lấy một mảnh vải xô đậy lên, đứa trẻ lúc nào cũng giữ được độ ấm, tránh con ruồi và bụi bay vào mắt trẻ. Cả hai mẹ con đều phải nằm quay đầu vào hướng trong nhà, chân quay ra ngoài cửa. Sản phụ chủ yếu ngồi ghế mây (tắng cắm bươn) trên mặt ghế lót váy cũ, dưới gầm ghế cho than nóng, lá thuốc phủ lên than để hơi thuốc bốc lên toả vào người sản phụ. ngồi mỏi thì vào nằm, nhưng vẫn phải quay lưng vào lửa hơ gọi là hơ người cho cứng cáp (xang tô xang kính, hẩư kính khanh) sưởi cho ấm đều khắp, kết hợp lá thuốc gầm ghế bốc lên và uống nước thuốc đun sôi (pấu sột) để khí huyết lưu thông chóng bình phục sức khoẻ. - Bếp lửa của sản phụ không được ai dẫm lên nhất là khi sắc thuốc. - Từ ngày đầu mới đẻ cho đến hết một tháng người sản phụ phải lấy khăn piêu thắt bụng, vì quá trình mang thai 8-9 tháng, bụng sản phụ đã bị giãn ra hết cỡ, do cho nên lấy khăn thắt bụng có tác dụng làm cho da bụng nhanh chóng co lại như trạng thái ban đầu, cũng chính việc thắt bụng đã giúp phụ nữ Thái sau khi sinh nở vẫn gọn gàng, cân đối không bị xồ xề . - Đầu sản phụ bao giờ cũng cuốn khăn cho ấm. Trong khoảng 6-7 ngày đầu người chồng không phải đi làm gì ngoài chăm lo cho vợ ăn, uống, đun nước cho vợ tắm. * Ăn uống của sản phụ: Ăn uống của sản phụ trong một, hai ngày đầu chủ yếu ăn cơm lam và uống nước thuốc. Uống nước lúc nóng vừa thổi vừa uống (pấu sột), đến ngày thứ ba sản phụ mới được ăn thêm xôi nếp (khẩu nửng). Thức ăn sản phụ chủ yếu là rau rừng, rau vả, rau sung, rau hoa ban, rau ngót, cỏ mần trầu và tất cả các loại rau có hoa trắng, là loại rau có tác dụng giải nhiệt, không hại bụng (pay tọng) còn giúp cho sản phụ có nhiều sữa. - Cá chủ yếu ăn cá trê (pa đúc), cá diếc (pa phé), cá trôi, pa mọm, pa khính; riêng cá mè cá chép (pa phé), thịt trâu trắng (nhứa quái đón) kiêng không được ăn vì có chất tanh. - Thịt và cá sát muối sấy khô, khi ăn đem ra rửa rồi cho vào gắp tre nướng kỹ (pỉng sang) cho thơm hoặc hấp trên chõ xôi. - Gà: gà bé từ 6- 7 lạng mỗi ngày ăn một con, bỏ hết bộ lòng ra, đập củ gừng vào, một nhánh nghệ (hản pháy) và một chén rượu mạnh, một ít muối, đem hầm nhừ để sản phụ ăn khi nóng. - Muối chấm của sản phụ cũng phải cho vào lá chuối nướng chín khử chất tanh mới được ăn. - Mỗi loại rau giống như một vị thuốc rất tốt cho sản phụ như: giúp sản phụ chóng hồi phục sức khoẻ, có sữa nhiều. Tóm lại: Thức ăn, uống của người mẹ có liên quan trực tiếp đến sữa mẹ và ảnh hưởng tốt hay xấu đến con bú, nên người mẹ phải ăn, uống đảm bảo đầy đủ dưỡng chất. * Bài gội đầu cho trẻ: Đối với bé vẫn tắm nước lá thuốc đun sôi để nguội, nhưng có nội dung gọi là lý: Mẹ vừa tắm gội cho con vừa có lời nói tình cảm thành bài với nội dung gạt bỏ những điều xấu xa bẩn thỉu, hôi tanh và cầu mong cho con mau lớn khôn: Ón nọi chắng mí Trái (nhính) đi chắng đảy Xam mự ếm chí nhá pang pộc Hốc mự ếm chí nhá pang pháy Nặm khẩu má xák xik hua Nặm bua ngấn, bua cắm xák xia cẩu Xák xia mát cái ai hại nhấư xung ộ ộc nớ Dịch Bé nhỏ mới có Trai (gái) nhỏ mới sinh Ba ngày mẹ sẽ thôi nằm cạnh bếp Sáu ngày mẹ sẽ thôi nằm cạnh lửa Gội nước gạo gạt bỏ điều xấu Nước hương bạc, hương vàng xoá bỏ hôi tanh dính trên đầu Gạt bỏ những điều xấu xa bẩn thỉu Để con mau lớn mau khôn . * Mẹ dậy con sau tắm gội: Tắm gội xong lấy tã lót quấn vào cho bé rồi lấy lược chải đầu cho bé, vừa chải vừa ngắm con vừa nói : " Bók…bók hók têm hua nhá chạn Pay qua bản qua mướng nhá lặc Nứa hay nhá lặc kin tẩu kin tanh Kin tẩu kin tanh ải ếm púk thoi . Dịch: Tóc bạc đầy đầu đừng lười Đi chu du thiên hạ đừng trộm Đừng trộm ăn trứng Lên nương đừng trộm ăn dưa ăn quả ăn quả ăn dưa cha mẹ trồng thôi nhé) * Tục cắm ta leo và ý nghĩa của nó: Từ ngày đầu gia đình có người sinh nở là phải cắm Taleo. Do vậy ông nội, ông ngoại khẩn trương lấy tre về đan Taleo để cắm: - Taleo một lớp cài thêm lá từ bi buộc vào cạnh cầu thang phía sàn (chán) nhằm xua đuổi, ngăn chặn không cho ma quỷ và hồn khách lạ vào quấy rối, làm hại đến sản phụ và đứa trẻ. - Ta leo chín lớp (ta leo cẩu chặn) được đan trùng lên nhau thành 9 lớp, cài thêm lá từ bi (cây từ bi là " bề trên " của các ma " phi" đến gần rừng từ bi ma rất nể và sợ). Buộc vào ngưỡng cửa trên phía chán để ngăn chặn ma để ma không dám qua và chui vào trong nhà. - " Ta leo cẩu chặn " cài lá từ bi buộc thêm tờ giấy, cái bút, vải vụn xanh đỏ, kim chỉ thành một chùm rồi buộc vào chỗ đầu dây thòng lọng phía trên, chỗ sản phụ ngồi vịn hơ lửa (Lụk nhính tắt phả khăn lái, lụk trái khiên sư san xấư mứ cằm vay, lả căm vạy mướng bản hắk hên) Tức là: là con gái phải thông thạo dệt cửi thêu thùa. - Ngay từ lúc mới sinh ra đã được ông bố viết những nét nghệch ngoặc tượng trưng vào lòng bàn tay, mong sao cho con mình lớn lên được bản mường quý, học hành chăm chỉ, thông minh, thành đạt. Bài bùa cắm "Ta leo" " Leo cu pắc Phi chí khảm pên heo Phi chí téo pên phắng Phí chí dắng hók cu téng Leo cu sắc Dịch: Leo ta cắm Ma muốn qua thành hố Ma định nhảy thành vực Ma thò chân xuống mác ta đâm . Leo ta chọc Lời ta chặn Mồm ta thiêng - Phong tục Thái và cả một số dân tộc khác cũng vậy, khi ta đi bất cứ nơi nào thấy nhà người ta đã cắm hoặc buộc Ta leo thì chớ nên vào, vì gia đình ấy đang có điều kiêng kỵ. - Bà nội, bà ngoại hoặc cô, dì phục vụ giặt tã, váy tắm rửa cho hai mẹ con (đàn ông kiêng không làm việc này). * Giai đoạn ở cữ (năng pháy) và những điều kiêng kỵ. Phụ nữ sau khi sinh nở được (mẹ tròn con vuông) phải nằm bên bếp lửa 4-5 ngày và được gọi là "tạm sạch sẽ" mới được chuyển lên nằm ngủ chỗ buồng của hai vợ chồng phía trên và ban ngày vẫn phải xuống ngồi sưởi lửa đến hết một tháng mới được làm thủ tục chuyển lên nhà chính vào nằm phòng hạnh phúc của vợ chồng. Sự quan tâm của gia đình và cộng đồng đối với sản phụ khi ở cữ trên tinh thần phấn khởi mừng cho sản phụ mẹ tròn con vuông, đồng thời để đảm bảo cho sức khoẻ sản phụ chóng hồi phục và đứa trẻ bú sữa mẹ tốt, do vậy sản phụ phải ăn kiêng khem nhiều, không được ăn uống theo ý muốn như thời kỳ thai nghén. Thức ăn, uống của sản phụ phải có chất bổ, có công thức chế biến riêng (có quy định lịch sử để lại), tắm gội cũng phải tắm gội bằng nước lá thuốc đun sôi để nguội và qua rất nhiều thủ tục nghi lễ, nhất là nghi lễ, nghi thức cầu mong đứa trẻ chóng lớn khoẻ mạnh, thông minh và chăm chỉ … Tháng sản phụ ở cữ gọi là tháng lửa, tháng kiêng (bươn pháy hay cắm bươn). Tháng sản phụ chưa được sạch sẽ và người yếu ( kính ón )nên sản phụ phải kiêng một số thứ sau: 1- Không được đi phía quản có bàn thờ (cọ lọ hóng) sản phụ chỉ được đi lại và sinh hoạt từ phạm vi gian ở cữ hất về phía chán (sàn ngoài phơi phóng). 2- Không được lên nhà người khác, kể cả gia đình bố mẹ, anh chị em ruột thịt .Nếu vi phạm vào 2 điều này coi như sai luật nghiêm trọng (vì sản phụ còn trong thời gian bẩn) gia đình sản phụ phải mất lợn, rượu đến cúng ma nhà người ta tạ tội và ngược lại khi thấy gia đình sản phụ đã cắm "ta leo" người ngoài muốn lên thì khi đến sân phải gọi hỏi chủ nhà: Khửn hướn bấu cắm xăng quá chẩu hướn hới ? (Chủ nhà ơi, gia đình không kiêng kỵ gì chứ ?) Nếu chủ nhà chả lời: Ơ…bấu cắm xăng khửn má í (Ơ…không kiêng kỵ gì đâu, xin mời cứ lên) Lúc bấy giờ khách mới được lên. Khách lên đến nhà đứng trước sản phụ và đứa trẻ khách lại nói: xấu xí đừng giống, đừng lây nhé (nhá chắp nhá pét nớ é nọi nớ). Người biết ăn, biết nói, biết cư xử như trên, chứng tỏ con người đó biết phong tục, phép tắc tối thiểu của dân tộc Thái. 3- Sản phụ không được dùng chung với gia đình: - Ăn uống riêng, ghế riêng, chậu giặt riêng, sào phơi tã lót, váy áo riêng. Riêng ghế khi sản phụ hết ở cữ không ngồi nữa thì mang cất đi hoặc vứt đi vì sợ khách ngồi (nhất là đàn ông không được ngồi vì ghế bẩn). Ngoài ra còn rất nhiều điều kiêng kỵ khác... * Lễ rời bếp lửa (nhá pháy): Sản phụ bên bếp lửa "năng pháy" 5, 6 ngày thì phải rời bếp lửa và sụm đẻ cũng là nơi để tắm thường ngày. Quan niệm của người Thái chỗ nào cũng có thần linh cai quản và phù trợ cho mình, do vậy trước khi rời bếp lửa gia đình phải làm mâm lễ nhỏ cho sản phụ để tạ ơn thần bếp, hay nói cách khác là lời xin rời bếp lửa. Gia đình đi mời thầy mo đến làm lễ rời bếp lửa (nhá pháy) và nơi đẻ, sau đó tận dụng để làm nơi tắm cho sản phụ (sụm đẻ). - Lễ nơi sụm đẻ và cách thức làm: Lấy đĩa rau đồ, ống cơm lam, ống nước thuốc cho vào một cái mâm nhỏ đến nơi (sụm) làm lễ. BÀI XƯỚNG LỄ Chẩu xửa nàng (x) Mốc luông mí lụk tạo tọng nọi mí lục cốn phủ mâứ Đảy xíp bươn tậu Cẩu bươn cóng Pộc khuẩm thương chứa hai Pộc lái thương chứa kê Tốc cỏng keng a khá Tốc cỏng kha ỏm xỏm Lụk phủ nhính đảy ngai Lụk phủ chái đảy đi Đảy nả lẹo đảy lăng Đảy xăng lẹo đảy nẳng Chắng pên cốn tan hụ Pên phủ tan hên Đảy kin lẹo bấu lứm thú Đảy dú bấu lứm công cánh ơn Chắng ngắm họt Po co lọ, me co lộc Xam mự nhá pang pộc Hốc mự nhá pang pháy kháy chắng mí nậm da Khẩu lam, phắc dố dá pai mạy má hẩư chẩu Po cang hao (phi luông) má phẩu Me dáo mók (me phi luông) má phẩu Mí nặm da, khẩu lam má xống hẩư chẩu kin chắng coi thúc mứa cứ bun quảng Nhang mứa cứ bun xung le nớ. Kháy ón noi hẩư mắn nhâứ hào hôn Pên tổn nhá hẩư mụt Pên thút pên co nhá huội Hẩư mí chư tậu liếng Hẩư mí xiêng tậu púa Dịch Chủ áo nàng (x) Bụng to đang có bầu Bụng nhỏ đang mang thai Đã qua chín tháng tròn Gần đủ mười tháng mong Bụng đẹp đến ngày sinh Bụng to đến lúc nở Rơi dưới đùi "a khá" Rơi dưới chân "ỏm xỏm" Là con gái dễ đẻ Là con trai dễ lọt Được cả trước lẫn sau Được cái gì được cùng Mới thành người mường bản cùng biết Mới có tiếng mường bản cùng hay Được ăn không quên đũa Được ở không quên công ơn Nghĩ đến Ông nơi sinh Bà nơi để Ba ngày thôi nằm cạnh bếp Sáu ngày thôi nằm cạnh lửa Có ống nước thuốc Ống cơm lam ,rau non đồ đến cho Ông ở trên trời (ông ma to) đến trông Bà ở tầng mây (bà ma to) đến gác Hôm nay có nước thuốc, cơm lam đến bếu ông, ông bà ăn xong Hãy bay lên tận trời cao Bay đến nơi mây mù Hãy phù hộ cho bé nhỏ cho chóng chóng khôn Thành chùm không héo Thành cây thành bụi không lụi Cho thành người mường bản cùng biết Để có tiếng mường bản cùng hay - Lễ xong đổ hết rau, nước thuốc, khẩu lam xuống lỗ sàn chỗ xụm đẻ, sau đó tháo dỡ xụm đẻ dọn sạch (cũng có gia đình tận dụng xụm để làm nơi tắm cho sản phụ). * Làm lễ nơi bếp sản phụ: Lấy một đĩa rau, một ống nước thuốc, một ống cơm lam cho vào mâm đặt xuống góc bếp sản phụ làm lễ. Bài xướng lễ Xam che xí chók Pên bók tắn cang Kháy cu bấu hiêm bấu cắm đảy lọ Xí mự cu chí mứa nón nả Hả mự cu chí mứa nón nưa Đảy kin bấu lứm thú Đảy dú bấu lứm công cánh ơn Kháy cu nhắng mí phắc nửng,nặm da, lam kháo xu Kin lẹo lọ Hẩư é nọi lắp nẳng mon Nón nẳng xứa Nhá tản na tá thí xăng nớ Dịch Ba cạnh bốn góc Hoa nở chính tâm Bay giờ ta không kiêng kỵ được nữa Bốn ngày ta sẽ lên ngủ trên gác Năm ngày ta sẽ lên ngủ trên sạp Được ăn không quên đũa Được ở không quên công ơn Bay giờ ta có rau đồ, nước thuốc, đến biếu Ăn xong hãy phù hộ cho bé Cho bé luôn ngủ ngon nơi gối . Luôn ngủ say nơi đệm Đừng phật ý giận hờn Lễ xong đổ cả mâm xuống sàn bếp, quét dọn bếp lửa sạch sẽ, phơi đệm, giặt chăn, chuyển chỗ cho sản phụ lên nằm gian buồng cũ của hai vợ chồng. Đối với người Thái sau khi sản phụ làm nghi thức rời bếp lửa là coi như kết thúc tập tục sinh đẻ, tiếp đến ra đình sẽ làm thêm một chút thủ tục khác với mong muốn cho trẻ nhỏ ngoan, ăn nhiều và mau lớn... Theo tục lệ dân tộc Thái sau khi chuyển hai mẹ con lên nằm ở gian buồng của vợ chồng thì việc sinh đẻ đến đây là kết thúc. Gia đình sẽ làm thêm một số thủ tục mới cầu mong cho đứa trẻ ngoan, không quấy mẹ và ăn nhiều mau lớn. Một số nghi lễ như: Cúng vía chăn vía đệm, cũng vía võng vía địu và vía vú... B-NGHI LỄ ĐẶT TÊN CHO TRẺ. I- Mục đích, ý nghĩa. Dân tộc Thái cũng giống như nhiều tộc người khác, cũng theo qui luật tự nhiên trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng, tạo dựng cuộc sống mới sinh sôi phát triển. Người phụ nữ sau khi thành lập gia đình sẽ thực hiện thiên chức làm mẹ và chăm lo cuộc sống gia đình. Việc nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn các thủ tục trong nghi lễ đặt tên cho trẻ em của dân tộc Thái nhằm mục đích giữ gìn những yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc. Ngoài ra còn làm sáng tỏ những quan niệm sống phát sinh trong quá trình đấu tranh, sinh tồn giữa một bên là chủ thể sống- con người, với một bên là các thế lực ngoại cảnh như: mưa, gió, bão, sấm, sét, cho đến các loại ma tà...Theo họ con người muốn tồn tại và phát triển được phải biết chế ngự các yếu tố tự nhiên và điều hòa mối quan hệ với các thế lực ma quỉ. Thông qua công tác tìm hiểu, nghiên cứu Nghi lễ đặt tên cho trẻ của dân tộc Thái đen bản che Căn xã Mường Phăng, huyện Điện Biên thể hiện được nhi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTập tục sinh đẻ và Nghi lễ đặt tên cho trẻ (dân tộc Thái, Ngành Thái đen tỉnh Điện Biên).doc
Tài liệu liên quan