Mục lục
I. Giới thiệu
II. Lời cám ơn
III. Tóm tắt kết quả nghiên cứu
IV. Mục tiêu của đề tài
V. Phƣơng pháp nghiên cứu
VI. Báo cáo kết quả và phân tích dữ liệu
VII. Kiến nghị
VIII. Kết luận
IX. Phụ lục
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4366 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tìm hiểu nhận thức và thái độ của học sinh/sinh viên về định hướng tương lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thức và thái độ của học sinh/sinh viên về
định hướng tương lai”
15
_____________________________________________________________________
Những động cơ thúc đẩy HS/SV
học tập
Rất đồng ý
5
Đồng ý
4
Không đồng ý cũng không
phản đối
3
Không đồng ý
2
Hoàn toàn không đồng ý
1
4 .4 9
3 .9 2
4
4 .18
3 .8
2 .8 7
3 .3 5
3 .6 7
4 .6 2
3 .4 5
3 .57
3 .9 7
1.00 2.00 3.00 4.00 5.00
Có hi ểu bi ết r ộng
T r ở nên gi àu có
P hục vụ cho đất nước
T ự khẳng định mình
Làm vui l òng gi a đình
T r ở nên nổi t i ếng
T hoả mãn ý t hích cá nhân
Không t hua kém bạn bè
Có vi ệc l àm tốt t r ong tương l ai
Có t hể đi du học
T r ở t hành l ãnh đạo
Được mọi người k ính t r ọng
Sơ đồ 4: Động cơ thúc đẩy học sinh-sinh viên học tập (N=2000)
Thực trạng này đã hằn sâu vào nếp nghĩ và khó thay đổi trong tư duy xã hội.
Trong khi đó, xu hướng của chương trình dạy học hiện đại trên thế giới từ lâu
đã coi trọng kỹ năng, năng lực thực tiễn hơn là kiến thức. Chúng tôi cho rằng
mục tiêu giáo dục là một vấn đề rất “động”, luôn luôn là vấn đề cần nghiên cứu
đổi mới, nhưng hiện không được quan tâm nghiên cứu thoả đáng.
Cũng trong các nghiên cứu trước đây của chúng tôi, trên quan điểm cho rằng
động cơ học tập cần thể hiện rõ tính định hướng nghề nghiệp, chúng tôi nghĩ
rằng trở nên giàu có (tất nhiên là một cách chính đáng) hay làm lãnh đạo là
những động cơ rất xứng đáng để phấn đấu. Trở nên giàu có một cách chính
đáng hay là làm lãnh đạo một cách sáng suốt thì có thể tạo ra việc làm tốt
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu” Tìm hiểu nhận thức và thái độ của học sinh/sinh viên về
định hướng tương lai”
16
_____________________________________________________________________
không chỉ cho bản thân mà còn cho cả người khác nữa. Kết quả khảo sát trước
đây của chúng tôi cho thấy các bậc phụ huynh, các giáo viên và cán bộ quản lý
cũng xếp các động cơ này ở thứ bậc khá thấp. Trong nghiên cứu này của chúng
tôi, học sinh-sinh viên cũng không đặt nặng vấn đề này. Chúng tôi cho rằng
cách nghĩ này sẽ không cổ vũ học sinh phấn đấu học tập với các động cơ chính
đáng. Chính sự chung chung, mơ hồ về sự hiểu biết đã không giúp sinh viên
học sinh trong việc có được những kế hoạch tập trung và cụ thể cho tương lai
của mình.
Cũng trên quan điểm cho rằng động cơ học tập cần thể hiện rõ tính định hướng
nghề nghiệp, chúng tôi nghĩ rằng trở nên giàu có (tất nhiên là một cách chính
đáng) hay làm lãnh đạo là những động cơ rất xứng đáng để phấn đấu. Trở nên
giàu có một cách chính đáng hay là làm lãnh đạo một cách sáng suốt thì có thể
tạo ra việc làm tốt không chỉ cho bản thân mà còn cho cả người khác nữa. Kết
quả khảo sát cho thấy các bậc phụ huynh, các giáo viên và cán bộ quản lý cũng
xếp các động cơ này ở thứ bậc khá thấp. Chúng tôi cho rằng cách nghĩ này sẽ
không cổ vũ học sinh phấn đấu học tập với các động cơ chính đáng.
Qua kết quả trả lời các câu hỏi mở của học sinh-sinh viên trong nghiên cứu này
và các nghiên cứu trước đây, có thể thấy cách dạy và học hiện nay rất hạn chế
khả năng cá nhân hoá việc học tập. Các hoạt động đồng loạt trên lớp với cùng
một chương trình, tài liệu, nhịp điệu học tập,… được tổ chức giống nhau cho
tất cả học sinh trong lớp chỉ thích hợp cho một mục đích chủ yếu là cung cấp
kiến thức. Nếu học sinh tự đặt cho mình mục tiêu rèn luyện các phẩm chất của
nhà lãnh đạo, nhà kinh doanh,… họ cũng khó có cơ hội được rèn luyện các
phẩm chất đó trong lớp học chính khoá.
Học sinh-sinh viên còn có nhiều suy nghĩ lệch lạc, lý thuyết và một số còn ngại
biểu lộ động cơ thực sự thúc đẩy hoạt động học tập của mình. Điều này có vẻ
như là bình thường đối với tập quán kín đáo của người phương Đông nói
chung. Nhưng đây lại là điểm thiếu sót của công tác hướng nghiệp, công tác tư
vấn học đường hiện nay nói chung. Học sinh nên được các giáo viên khuyến
khích để xác định mục tiêu phấn đấu, được giáo viên hướng dẫn để vạch kế
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu” Tìm hiểu nhận thức và thái độ của học sinh/sinh viên về
định hướng tương lai”
17
_____________________________________________________________________
hoạch và giúp đỡ trong quá trình thực hiện. Quá trình này còn bị bỏ ngõ thì
giáo dục chưa làm được công việc giúp người học trở thành những người tự
chủ và có thể thực hiện được các kế hoạch cũng như mong muốn của bản thân
và xã hội.
Học sinh-sinh viên (và các đối tượng khác) thường được giáo dục chung chung
với những động cơ to lớn và cao cả mà thiếu tính ứng dụng, thiếu tính thực
tiễn. Chính những động cơ mơ hồ, kiến thức chung chung và khác biệt với thực
tế làm cho học sinh (và những người khác) chưa đủ tự tin để thể hiện các động
cơ thực sự và chính đáng của mình.
Các phân tích số liệu giữa các địa phương cũng cho thấy có một số khác biệt
trong quan điểm. Sinh viên -học sinh TP.HCM và Cần Thơ (các tỉnh phía Nam)
(M=3.5) không xem động cơ học tập để trở thành ‘lãnh dạo” là quan trọng
như các học sinh-sinh viên ở Hà Nội và Đà Nẵng (M=3.7). Học sinh Hà Nội
(M=3.2) và Đà Nẵng (3.4) không đặt trọng các động cơ “thỏa mãn cá nhân” là
quan trọng so với Cần Thơ (M=3.5). Học sinh-sinh viên Tp.HCM và Hà Nội
M=3.5) có vẻ đặt mục tiêu đi dụ học quan trọng hơn so với học sinh-sinh viên
các thành phố khác (M=3.4).
Nhận thức của học sinh-sinh viên về bản thân và tƣơng lai của mình
Kết quả ở đồ thị dưới đây cho thấy sinh viên học sinh Việt Nam có cái nhìn rất
lạc quan về tương lai của mình. Trong số các sinh viên học sinh tham gia khảo
sát, có đến 85.7% cho rằng mình „có nhiều ước mơ đẹp trong tương lai‟. Tuy
nhiên, chỉ có hơn phân nữa (57.8%) cho là mình „sẽ rất thành công trong tương
lai‟ dù có đến 81.9% nghĩ rằng mình „có thể thực hiện được những ước mơ của
mình‟. Cái nhìn lạc quan và sự tự tin vào bản thân của mình thể hiện rõ qua kết
quả có 90.7% học sinh-sinh viên „thích quan điểm cho rằng tương lai của mỗi
người là do chính người đó quyết định‟. Đó là lý do mà có đến 93% học sinh-
sinh viên đang „tự trang bị cho mình những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho
tương lai của mình‟. Có khoảng 1/6 học sinh-sinh viên tham gia khảo sát
(15.8%) nghĩ rằng mình „rất mơ hồ về tương lai của mình‟ và 10.8 % cho là
„thành công hay thất bại trong tương lai là do số phận định đoạt‟. Tương tự như
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu” Tìm hiểu nhận thức và thái độ của học sinh/sinh viên về
định hướng tương lai”
18
_____________________________________________________________________
vậy, có 9.2% học sinh-sinh viên thích quan điểm „sống cho hiện tại đi, tương
lai biết thế nào mà chuẩn bị‟.
Sơ đồ 5: Nhận thức của học sinh-sinh viên về bản thân và tương lai
(N=2000)
Dự định cho tƣơng lai
Hầu hết sinh viên-học sinh đếu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của kiến thức
(kỹ năng cứng), đặc biệt là tầm quan trọng của ngoại ngữ (94.0% - có thể là
tiếng Anh) và khả năng sử dụng máy tính (92.9%). Sinh viên-học sinh có đánh
giá khác nhau về tầm quan trọng của các kỹ năng cứng. Hầu hết sinh viên đại
học cao đẳng đều đánh giá cao tầm quam trọng của kiến thức hơn so với học
sinh phổ thông. Ngoài ra, trong khi sinh viên đại học cao đẳng cho là có được
điểm cao trong học tập là quan trọng (M=4.1) thì học sinh lại không đánh giá
cao bằng (M=3.8). Sự khác biệt giữa sinh viên và học sinh trong đánh giá về
tầm quan trọng của điểm số trong học tập này là có ý nghĩ thống kê.
57.8
85.7
81.9
75.6
15.8
71.5
16
54.5
90.7
93
9.2
10.8
38.9
12.7
16.5
21.2
25.5
23.9
51.9
26.8
6.9
6
23.7
21.3
3.4
1.7
1.6
3.1
58.7
4.6
32
18.7
2.4
1.1
67.1
67.8
0 20 40 60 80 100
1) sẽ rất thành công trong tương lai
2) có nhiều ước mơ đẹp cho tương lai
3) có thể thực hiện được những ước mơ của mình
4) thích lập kế hoạch để biến
những ước mơ của mình thành sự thật
5) rất mơ hồ về tương lai của mình
6) rất hăng hái tham gia vào những hoạt động
mà tôi nghĩ là sẽ cần thiết cho tương lai của tôi
7) sẽ là người nổi tiếng
8) thích tham khảo ý kiến của người khác
về tương lai của mình
9) thích quan điểm cho rằng tương lai
của mỗi người là do chính người đó quyết định
10) đang tự trang bị cho mình những kiến thức
và kỹ năng cần thiết cho tương lai của mình
11) thích quan điểm: “sống cho hiện tại đi,
tương lai biết thế nào mà chuẩn bị”
12) ủng hộ quan điểm thành công hay thất bại
trong tương lai là do số phận định đoạt
Từ rất đồng ý đến đồng ý (%) Không đồng ý cũng không phản đối (%)
Từ hoàn toàn không đồng ý đến không đồng ý (%)
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu” Tìm hiểu nhận thức và thái độ của học sinh/sinh viên về
định hướng tương lai”
19
_____________________________________________________________________
Bảng 8: Dự định cho tƣơng lai (N=2000)
Từ rất quan
trọng đến quan
trọng (%)
Bình
thường
(%)
Từ hoàn toàn không
quan trọng đến không
quan trọng (%)
A. Về kiến thức
1) Cố gắng học giỏi các môn học 83.5 14.7 1.8
2) Học thêm ngoại ngữ 91.6 7.2 1.2
3) Học thêm vi tính 86.1 12.2 1.7
B. Vể kỹ năng
4) Tham gia các hoạt động cộng đồng - xã hội 59.8 35.5 4.7
5) Đi làm thêm để có kinh nghiệm thực tế 65.0 28.2 6.8
6) Tham gia các câu lạc bộ, hoạt động đội nhóm 48.9 41.9 9.2
7) Lập thời gian biểu cho các kế hoạch của mình 67.9 26.2 5.8
8) Tham gia các cuộc thi hùng biện 29.0 47.4 23.6
9) Tham gia các diễn đàn để trao đổi và chia sẻ quan
điểm và kiến thức của mình với người khác
52.0 34.5 12.5
10) Tham gia các hoạt động thể dục thể thao 48.1 39.0 12.8
11) Tìm kiếm các phương pháp giúp mình tập trung
hơn trong học tập (nhai kẹo chewingum, ăn bánh
snack…)
44.7 29.2 26.1
12) Theo dõi thông tin trên các phương tiện truyền
thông
82.8 15.2 2.0
13) Tham gia các khoá học về kỹ năng sống 67.1 27.0 6.0
Các số liệu khảo sát đã cho thấy ngoại ngữ và tin học được xem là lựa chọn của
phần lớn học sinh-sinh viên. Tuy nhiên, sau khi phân tích các ý kiến phỏng vấn,
nhóm nghiên cứu đề tài cho rằng chương trình học hiện nay chưa đáp ứng được
nhu cầu này.
Bảng 9: Nhận thức của học sinh-sinh viên về các kiến thức cứng cần
thiết (N=2000)
A. Kỹ năng cứng Từ rất quan trọng
đến quan trọng (%)
Bình thường
(%)
Từ hoàn toàn không
quan trọng đến không
quan trọng (%)
1) Sử dụng thành thạo ngoại ngữ 94.0 5.3 .7
2) Biết sử dụng máy tính 92.9 6.7 .4
3) Có điểm cao trong hoc tập 70.6 25.0 4.4
Chỉ có 48.1% học sinh-sinh viên cho các hoạt động thể dục thể thao là quan
trọng và có đến gần 13% cho là không quan trọng. Chỉ có chưa đến 50 %
(48.9%) học sinh-sinh viên cho là các hoạt động câu lạc bộ, hoạt động đội
nhóm là quan trọng. Hơn phân nửa học sinh-sinh viên cho là bình thường
(41.9%) và không quan trọng (9.2%).
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu” Tìm hiểu nhận thức và thái độ của học sinh/sinh viên về
định hướng tương lai”
20
_____________________________________________________________________
Bảng 10.1: Nhận thức của học sinh-sinh viên về các kỹ năng mềm cần
thiết (N=2000)
B. Kỹ năng mềm Từ rất quan trọng
đến quan trọng
(%)
Bình
thường (%)
Từ hoàn toàn không quan
trọng đến không quan trọng
(%)
1) Có khả năng giao tiếp tốt 91.6 7.4 1.0
2) Sống có mục tiêu 91.3 7.8 .9
3) Có sự tập trung cao 91.1 8.4 .5
4) Sáng tạo 90.2 9.4 .5
5) Làm việc có kế hoạch 90.2 9.1 .8
6) Biết nắm bắt thời cơ 89.3 9.4 1.4
7) Có tinh thần hợp tác 89.2 9.7 1.1
8) Kiến thức về cuộc sống thực tế 87.6 11.9 .6
9) Có năng lực giải quyết vấn đề 86.8 12.1 1.1
10) Có óc quan sát 86.4 12.8 .8
11) Biết chấp nhận thử thách 86.0 13.1 1.0
12) Biết tạo nhiều quan hệ tốt 85.0 13.6 1.5
13) Biết cách tự học 84.1 14.2 1.7
14) Biết sử dụng thông tin 83.4 15.3 1.2
15) Có sự chủ động cao 82.8 15.7 1.5
16) Có hứng thú trong học tập 82.7 16.2 1.1
17) Có năng lực đánh giá vấn đề 79.6 18.6 1.8
18) Có nhiều ý tưởng độc đáo 77.0 20.7 2.3
19) Dám chấp nhận cái mới 76.4 21.3 2.3
20) Có óc cầu tiến 75.5 21.5 3.0
21) Có khả năng thuyết trình trước đám đông 72.7 23.7 3.6
22) Làm việc theo nhóm 71.7 25.3 3.1
23) Thích khám phá 71.3 25.7 3.0
Bảng 10.2: Nhận thức của học sinh-sinh viên về các kỹ năng mềm cần thiết
(N=2000)
B. Kỹ năng mềm Từ rất quan trọng
đến quan trọng
(%)
Bình
thường (%)
Từ hoàn toàn không quan
trọng đến không quan trọng
(%)
24) Có cá tính 66.9 30.2 2.9
25) Có khả năng lãnh đạo 66.6 29.4 4.0
26) Làm việc độc lập 60.1 31.1 8.8
27 Biết tham gia các hoạt động xã hội 60.1 34.9 5.0
28) Có niềm đam mê trong một lĩnh vực nào
đó (âm nhạc, thể thao…)
58.0 33.0 9.0
29) Có nhiều năng khiếu khác nhau 45.9 44.2 9.9
Các kỹ năng như „có cá tính‟, „có khả năng lãnh đạo‟, „biết làm việc độc lập‟,
„biết tham gia các hoạt động xã hội‟, „có niềm đam mê một lĩnh vực nào đó‟ và
„có nhiều năng khiếu khác nhau‟ không được sinh viên-học sinh đánh giá cao.
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu” Tìm hiểu nhận thức và thái độ của học sinh/sinh viên về
định hướng tương lai”
21
_____________________________________________________________________
Bảng 11: Nhận thức của học sinh-sinh viên về các phẩm chất cần thiết
(N=2000)
C. Các phẩm chất Từ rất quan trọng đến
quan trọng (%)
Bình thường
(%)
Từ hoàn toàn không quan trọng đến
không quan trọng (%)
1) Có tinh thần trách nhiệm 94.4 4.9 .8
2) Có tính kiên trì 91.0 7.9 1.1
3) Nhiệt tình 90.2 8.8 1.0
4) Thật thà, trung thực 88.5 10.0 1.5
5) Tế nhị 78.7 19.8 1.6
6) Nhân ái 76.5 21.1 2.4
7) Khiêm tốn 75.8 21.9 2.3
Hầu hết sinh viên học sinh đều cho là các phẩm chất được đề tài liệt kê là quan
trọng đến rất quan trọng theo thứ tự như sau: Có tinh thần trách nhiệm, Có tính
kiên trì, Nhiệt tình, thật thà, trung thực, tế nhị, nhân ái và khiêm tốn. Kết quả
khá thú vị khi những phẩm chất cần thiết cho làm việc nhóm (khiêm tốn, nhân
ái, tế nhị) không được sinh viên học sinh đánh giá cao bằng nhiệt tình, kiên trì
và có tính trách nhiệm. Có đến khoảng hơn 1/5 sinh viên-học sinh cho là các
đức tính này (khiêm tốn, nhân ái, tế nhị) là bình thường. Quan điểm này được
chúng tôi cho là rất quan trọng để nhà trường và gia đình lưu ý.
Phần tiếp theo sau đây sẽ tập trung vào kết quả của câu hỏi khảo sát:
“Người/yếu tố nào có ảnh hưởng đến sự lựa chọn hướng đi của học sinh-sinh
viên”? Chúng tôi trình bày kết quả nghiên cứu này trong bảng dưới đây, trong
đó thể hiện sự đánh giá các mức độ quan trọng của những người/yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định lựa chọn hướng đi của học sinh-sinh viên.
Chúng tôi chỉ xét cột đánh giá mức độ ảnh hưởng quan trọng nhất theo học
sinh-sinh viên. Quan sát cột số ảnh hưởng số 1 của bảng trên đây, ta thấy học
sinh-sinh viên cho rằng “chính bản thân” là nhân tố quyết định quan trọng nhất
trong việc định hướng tương lai, sau đó mới đến “gia đình”. Xét đến
người/nhân tố kém ảnh hưởng nhất (mức độ 3 hoặc không ảnh hưởng) cho thấy
học sinh-sinh viên chọn “dự luận xã hội (báo chí)”, “tư vấn của Trường” “Bạn
cùng lớp” và “Ngôi sao điện ảnh, ca nhạc”. Đáng lưu ý là “tư vấn của Trường”
(89.4%) và „thầy cô‟ (76%) được cho là không có ảnh hưởng. Tất nhiên, yếu tố
là „bạn cùng lớp‟ không ảnh hưởng nhiều (97.1) cũng không làm chúng ta ngạc
nhiên nếu xét trong bối cảnh trường học nói chung.
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu” Tìm hiểu nhận thức và thái độ của học sinh/sinh viên về
định hướng tương lai”
22
_____________________________________________________________________
Bảng 12. Sắp xếp mức độ quan trọng từ 1 đến 3 cho những ngƣời/nhân tố
ảnh hƣởng đến định hƣớng tƣơng lai của học sinh-sinh viên (N= 2000)
Người/Nhân tố
quyết định
Ảnh
hưởng số 1
Ảnh
hưởng số 2
Ảnh
hưởng số 3
Không có
ảnh hưởng
1) Chính bản thân 55.1 17.3 8.3 19.3
2) Gia đình 35.2 50.0 8.3 6.5
3) Bạn bè 8.7 7.4 23.7 60.2
4) Người yêu 2.4 4.9 14.9 77.9
5) Thầy cô 1.7 6.5 15.9 76.0
6) Dư luận xã hội (Báo
chí, mạng Internet...)
1.4 4.5 11.6 82.6
7) Tư vấn của Trường 1.3 2.4 7.0 89.4
8) Bạn cùng lớp .9 .7 1.3 97.1
9) Ngôi sao điện ảnh,
ca nhạc nổi tiếng
.6 .5 .9 98.1
10) Những người khác .4 .5 2.2 97.0
Từ kết quả này, có thể thấy sinh viên học sinh chúng ta là những người trưởng
thành hơn so với suy nghĩ của chúng ta, dù là có đến gần 20% sinh viên học
sinh tham gia khảo sát, theo chúng tôi suy đoán từ kết quả, cho rằng bản thân
họ không thể hoặc không được ra quyết định cho tương lai của mình. Nhà
trường, gia đình và xã hội nói chung, theo quan sát của chúng tôi như các nhà
nghiên cứu, vẫn đối xử với sinh viên học sinh như „những người chưa trưởng
thành‟ và cách đối xử đó đã ảnh hưởng đến cách sinh viên học sinh ứng xử
trong cuộc sống. Rõ ràng, sinh viên học sinh của chúng ta có sự tự tin vào bản
thân nhiều hơn là các ảnh hưởng mà nhiều người trong chúng ta vẫn nghĩ là từ
dư luận, báo chí, mạng (82.6%)…cũng như ngôi sao điện ảnh (98.1%)…lên
sinh viên học sinh. Trong các câu hỏi khác của chúng tôi về đánh giá của họ về
chính bản thân mình, chúng tôi cũng nhận thấy sinh viên học sinh của chúng ta
rất tin tưởng vào tương lai. Vấn đề của họ, và cũng là vấn đề của cả xã hội
chúng ta, đặc biệt là gia đình và nhà trường, là làm thế nào để họ có được một
tương lai tốt đẹp, vốn chưa được chúng ta, mà cụ thể là nhà trường, xã hội và
gia đình, trong đó có bản thân sinh viên, chuẩn bị một cách hiệu quả.
Có thể thấy người/yếu tố có ảnh hưởng quan trọng nhất đến quyết định lựa
chọn hướng đi của học sinh-sinh viên bản thân và gia đình. Nhân tố tư vấn của
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu” Tìm hiểu nhận thức và thái độ của học sinh/sinh viên về
định hướng tương lai”
23
_____________________________________________________________________
nhà trường hay thầy cô, bạn cùng lớp được cho là không quan trọng lắm. Vai
trò của gia đình luôn luôn rất quan trọng do quyết định của học sinh phải phụ
thuộc vào nguồn ngân quỹ của gia đình dành cho việc học tập, trong tình trạng
xã hội Việt Nam hiện tại chưa có một cơ chế tài chính cho sinh viên vay tiền
thực sự rộng rãi, thông thoáng và hiệu quả cho vấn đề này. Có thể kết luận rằng
các tổ chức tư vấn, các dịch vụ xã hội hoạt động kém hiệu quả là một “chỗ
hổng” lớn trong công tác hướng nghiệp ở nước ta hiện nay.
Qua phỏng vấn của nghiên cứu trước đây, có thể thấy nhiều cán bộ quản lý và
giáo viên của các trường cho thấy rằng việc tư vấn cho học sinh chọn lại hướng
đi không phải là trách nhiệm bắt buộc của mình. Giáo viên thực hiện công việc
này (nếu có) chủ yếu là vì tình cảm đối với học sinh và do đó họ thường làm
khi được học sinh hay gia đình muốn tham khảo ý kiến. Một vấn đề cần lưu ý
là giáo viên khi tư vấn cho học sinh thường chủ yếu dựa vào kinh nghiệm hay
sự tự đúc kết thông qua sách vở hay dư luận báo chí. Đây cũng là lý do mà các
giáo viên này không chủ động lập kế hoạch để thực hiện công việc tư vấn của
mình như các chuyên gia học đường chuyên nghiệp.
Trong tất cả các lý do mà chúng ta có thể ra đưa ra, có thể kể rất nhiều. Phần
lớn sinh viên học sinh tham gia nghiên cứu của chúng tôi, và chúng ta, biết rất
rõ là không ai có thể giúp họ tốt nhất bằng chính bản thân họ. Vấn đề là để có
thể trở thành những người trưởng thành thành và có cuộc sống tốt đẹp, họ phải
được chuẩn bị để trở thành những người trưởng thành, và chúng ta phải đối xử
họ như những người trưởng thành. Việc chuẩn bị đó, ở đây, là trách nhiệm
chung, mà nhà trường đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp và rèn
luyện cho sinh viên các kiến thức và kỹ năng cần thiết. Rất tiếc, sinh viên học
sinh cho rằng nhà trường, mà cụ thể là các thầy cô, không có ảnh hưởng gì
nhiều đến quyết định cho tương lai của họ. Điều này bao hàm cả yếu tố tích cực
lẫn yếu tố làm cho nhà trường phải suy nghĩ lại: sinh viên học sinh có thể tự
mình quyết định việc chọn lựa hướng đi trong tương lai mà không bị các ảnh
hưởng của sách vở, tuy nhiên, rõ ràng nhà trường: từ phổ thông cho đến đại
học, vẫn chưa giúp nhiều cho họ trong việc chuẩn bị đó.
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu” Tìm hiểu nhận thức và thái độ của học sinh/sinh viên về
định hướng tương lai”
24
_____________________________________________________________________
Định hƣớng tƣơng lai của sinh viên học sinh
Có hơn 75 % học sinh trong mẫu khảo sát chọn tiếp tục học lên sau khi học
xong chương trình đang học. Trong tổng số 75% đó, có 81,8% học sinh và
69,6% sinh viên đại học/cao đẳng lựa chọn hướng đi này. Vì vậy, hoàn toàn có
cơ sở vững chắc để kết luận rằng: Xu hướng lựa chọn chủ đạo của học sinh-
sinh viên là tiếp tục học lên. Lựa chọn học nghề chiếm một tỷ lệ rất thấp so với
tiếp tục học lên trong học sinh cũng phản ánh tình trạng bế tắc trong các giải
pháp phân luồng trong giáo dục. Hiện tượng số đông sinh viên sau khi tốt
nghiệp rồi mà cũng cứ muốn tiếp tục học lên cho phép chúng ta đặt 2 câu hỏi:
một là có phải vì sinh viên chúng ta rất ham học không và hai là có nên
khuyến khích xu hướng tiếp tục học lên của số động sinh viên đã tốt nghiệp
không? Theo suy nghĩ của chúng tôi thì câu trả lời là “không hoàn toàn” cho cả
2 câu hỏi. Thực ra xu hướng trên biểu hiện sự ngần ngại, thái độ e dè chưa dám
dấn thân vào đời của các em. Nguyên nhân của hiện tượng này sẽ được đề cập
sau. Tỷ lệ sinh viên cao đẳng chọn con đường ra đi làm sau khi học xong lần
lượt là thấp cho thấy rằng số học viên có nguyện vọng học lên hoặc học liên
thông là rất nhiều. Về phương diện xã hội, xu hướng muốn học lên trong thanh
niên học sinh đưa đến tình trạng trưởng thành và sống tự lập muộn. Đây cũng
là sự lãng phí về thời gian và nguồn lực cho bản thân, gia đình và xã hội.
Tỷ lệ học sinh-sinh viên chọn ra đi làm sau khi học xong là 57,6%, trong số
57,6 % đó, nếu xét riêng sinh viên đại học/cao đẳng là 70.8%. Trước đây, trong
công trình nghiên cứu khác của chúng tôi, tỉ lệ sinh viên học sinh vừa làm vừa
học là rất ít. Trong khi học sinh các nước phát triển sớm có khuynh hướng tự
lập, có thể làm việc để tự trang trải chi phí học tập thì học sinh Việt Nam chủ
yếu sống nhờ vào gia đình. Có thể thấy thái độ kém năng động này một phần là
có nguyên nhân từ một lối học tập theo kiểu đồng loạt, người học ít có khả
năng được lựa chọn chương trình, giáo trình, cũng như tự quyết định nhịp điệu
học tập của mình.
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu” Tìm hiểu nhận thức và thái độ của học sinh/sinh viên về
định hướng tương lai”
25
_____________________________________________________________________
Sơ đồ 6: Hướng đi của học sinh-sinh viên (N=2000)
Như vậy, kết quả cho thấy hầu hết sinh viên và học sinh được khảo sát có
nguyện vọng được tiếp tục học lên cao thay vì chọn học nghề hoặc ra đi làm
hay vừa học vừa làm. Điều này phần nào phản ánh được nhận thức sai lầm là:a/
nhà tuyển dụng sẽ coi trọng những người bước vào thị trường việc làm với văn
bằng, bằng cấp chuyên môn bậc cao hơn; b/ người ta có thể học được từ nhà
trường phần lớn kiến thức cần cho cuộc đời mình. Đây là quan niệm sai lầm vì
khoa học đã chứng minh rằng 75% kiến thức cần thiết trong cuộc đời của mỗi
người là học được qua thực tế việc làm và do đó người ta phải học suốt đời1.
Hơn nữa, thực tế này cho thấy một thực trạng: Đãi ngộ của xã hội hiện nay đối
với những người lao động giản đơn, người công nhân, người thợ còn quá thấp,
thực sự chưa tương xứng với sức lao động, sự hao phí và khả năng phục hồi,
khiến cho thị trường lao động có khả năng bị mất cân đối nghiêm trọng.
Ngoài ra, theo các kết luận mà chúng tôi đã đưa ra trước đây, xét về động cơ
học tập có tính hướng nghiệp thì hiểu biết là một động cơ khá mơ hồ. Hiểu biết
chỉ là một điều kiện cần nhưng chưa đủ để có thể có việc làm tốt, trở nên giàu
1
study rule 25/75
75.4
57.6
8.6
23.2
5.1
77.1
2.7
24.6
42.4
91.4
76.8
94.9
22.9
97.3
Tiếp tục học lên
Ra đi làm
Học nghề
Đi du học
Ở nhà giúp gia đình
Học thêm một số kiến thức/kỹ năng
cần thiết khác: Tin học, ngoại ngữ
Chưa có kế hoạch gì
Chọn
Không
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu” Tìm hiểu nhận thức và thái độ của học sinh/sinh viên về
định hướng tương lai”
26
_____________________________________________________________________
có, làm lãnh đạo, phục vụ đất nước. Một khi cả học sinh, phụ huynh, giáo viên,
và cán bộ quản lý cùng cho rằng hiểu biết là động cơ học tập quan trọng nhất
của học sinh, thì hiện tượng quá tải, quá thiên về lý thuyết trong nền giáo dục
Việt Nam hiện nay cũng là điều dễ hiểu. Thực trạng này đã hằn sâu vào nếp
nghĩ và khó thay đổi trong tư duy xã hội. Trong khi đó, xu hướng của chương
trình dạy học hiện đại trên thế giới từ lâu đã coi trọng kỹ năng, năng lực thực
tiễn hơn là kiến thức. Chúng tôi cho rằng mục tiêu giáo dục là một vấn đề rất
“động”, luôn luôn là vấn đề cần nghiên cứu đổi mới, nhưng hiện không được
quan tâm nghiên cứu thoả đáng.
Nhà trƣờng cần làm gì?
Phần lớn học sinh-sinh viên cho là nhà trường cần tổ chức tham quan thực tế
(81.6%) và các câu lạc bộ nhằm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- baocaotongketdetainghiencuutimhieunhanthucvamp195amp160thaidohssvvedinhhuong.pdf