Trình tự ghi sổ hạch toán nghiệp vụ bán hàng của Công ty được thực hiện tương tự theo quy định của chế độ. Kế toán căn cứ hoá đơn bán hàng có đủ chữ ký tiến hành thanh toán, vào sổ chi tiết bán hàng. Tuỳ theo phương thức thanh toán mà có thể vào bảng kê 1(thanh toán bằng tiền mặt), bảng kê 2 (thanh toán bằng tiền ngân hàng) hoặc sổ chi tiết “Phải thu của khách hàng”. Doanh thu bán hàng và giá vốn hàng bán cũng được phản ánh vào các sổ chi tiết tương ứng. Giá vốn được ghi theo giá thực tế đích danh, doanh thu được phản ánh theo doanh thụ thực tế. Cuối tháng, kế toán lấy số tổng cộng trên các bảng kê và sổ chi tiết vào NKCT số 8, tính ra lợi nhuận trong kỳ kinh doanh. Cuối mỗi ngày, kế toán lấy số tổng cộng trên sổ chi tiết bán hàng ghi vào “Bảng kê chi tiết hàng hoá và dịch vụ bán ra” (Mẫu số 02- GTGT).
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1786 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo tổng hợp tại Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
316
2.356.593.157
4.312.633.232
7. Phải trả các đơn vị nội bộ
317
8. Các khoản phải trả. Phải nộp khác
318
68.007.290
487.960.671
II. Nợ dài hạn:
320
1.393.718.935
2.000.000.000
1. Vay dài hạn
321
1.393.718.935
2.000.000.000
2. Nợ dài hạn
322
III. Nợ khác:
330
0
1.344.944.744
1. Chi phí phải trả
331
1.344.944.744
2. Tài sản thừa chờ xử lý
332
3. Nhận ký quỹ, ký cược dài hạn
333
B-Nguồn vốn chủ sở hữu (400=410+420)
400
18.778.367.469
21.854.380.625
I. Nguồn vốn, quỹ:
410
17.167.298.558
19.262.024.451
1. Nguồn vốn kinh doanh
411
15.351.442.315
16.659.020.753
2. Chênh lệch đánh giá lại tài sản
412
3. Chênh lệch tỷ giá
413
4. Quỹ đầu tư phát triển
414
213.053.617
636.005.257
5. Quỹ dự phòng tài chính
415
1.602.802.626
1.966.998.441
6. Lợi nhuận chưa phân phối
416
0
0
7. Nguồn vốn đầu tư XDCB
417
II. Nguồn kinh phí, quỹ khác:
420
1.611.068.911
2.592.356.174
1. Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm
421
833.703.864
1.024.846.272
2. Quỹ khen thưởng và phúc lợi
422
761.515.047
1.567.509.902
3. Quỹ quản lý của cấp trên
423
4. Nguồn kinh phí sự nghiệp
424
15.850.000
0
-Nguồn kinh phí sự nghiệp năm trước
425
15.850.000
-Nguồn kinh phí sự nghiệp năm nay
426
5. Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ
427
Tổng cộng nguồn vốn: (430=300+400)
430
52.628.410.955
60.418.742.966
Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh của Công ty
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2001
Năm 2002
1. Bố trí cơ cấu tài sản và nguồn vốn
Tài sản cố định/Tổng số tài sản
%
15,3
21,9
Tài sản lưu động/Tổng số tài sản
%
84,7
78,5
Nợ phải trả/Tổng nguồn vốn
%
63,8
64,4
Nguồn vốn CSH/Tổng nguồn vốn
%
36,2
35,7
2. Khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán hiện hành
Lần
1,6
1,6
Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
Lần
1,5
1,3
Khả năng thanh toán nhanh
Lần
0,2
0,2
3. Tỷ suất sinh lời
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/Doanh thu
%
3,4
4,6
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/Doanh thu
%
2,3
3,0
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/Tổng tài sản
%
10,0
11,0
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản
%
6,7
7,2
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/Nguồn vốn CSH
%
21,1
22,1
Qua bảng tổng hợp cân đối kế toán của Công ty trong 2 năm gần đây, ta có thể thấy được tình hình huy động và sử dụng vốn của Công ty qua một số chỉ tiêu tổng quát cơ bản. Ta nhận thấy trong 2 năm tài chính 2001 và 2002, tình hình tài chính của Công ty tương đối khả quan. Điều đó được thể hiện qua khả năng thanh toán của Công ty. Tại thời điểm 31/12/2001, hệ số thanh toán hiện hành của Công ty là 1,6; hệ số thanh toán nợ ngắn hạn là 1,3; hệ số khả năng thanh toán nhanh là 0,2. Đến 31/12/2002, các con số trên lần lượt là 1,6:1,5:0,2. Như vậy, với tổng giá trị tài sản hiện có, Công ty hoàn toàn có đủ khả năng bù đắp các khoản nợ phải trả.
Tuy vậy, nếu xét về cơ cấu nguồn vốn, hệ số tự tài trợ của Công ty vào thời điểm cuối năm 2001 và 2002 chỉ là 35,7% và 36,2%. Các khoản nợ phải trả chiếm 64,4% (2001) và 63,8% (2002) trong tổng nguồn vốn. Trong đó, các khoản vay ngắn hạn và nợ dài hạn đến hạn trả chiếm tới 82,55% (2001) và 74,19% (2002). Các chỉ số trên cho thấy mức độ độc lập về tài chính của Công ty hiện tại là không cao. Tuy nhiên, ta có thể giải thích nguyên nhân của hiện tượng này là do Công ty đang phải huy động vốn đầu tư mở rộng thêm 10000 m2 nhà xưởng, trang bị thêm nhiều dây chuyền, máy móc thiết bị trong nội dung của kế hoạch 5 năm 2001/2005. Điều này lý giải cho khoản vay ngắn hạn của Công ty lên tới hơn 26 tỷ. Hiện nay, Công ty đã lập hoàn chỉnh kế hoạch trả nợ ngắn hạn và dài hạn cũng như các mức dự kiến sản xuất để nhanh chóng hoàn lại vốn đầu tư. Nếu ta thử loại bỏ khoản vay ngắn hạn này thì hoạt động kinh doanh của Công ty sẽ được tiến hành với tỷ lệ 21.854.380.625 đồng nguồn vốn chủ sở hữu trên 11.951.688.302 đồng các khoản nợ còn lại. Điều đó lại chứng tỏ mức độ độc lập về tài chính của Công ty là khá tốt. Thời gian tới, khi dây chuyền sản xuất mới đi vào hoạt động, Công ty sẽ hoàn toàn có đủ khả năng bù đắp các khoản nợ và có lãi.
Nếu phân tích về tình hình thanh toán ta sẽ thấy các khoản phải thu của Công ty là 9.714.835.708 đồng năm 2001 và 21.450.169.056 đồng năm 2002 so với số phải trả tương ứng là 33.850.043.486 đồng và 38.564.362.341 đồng. Tại thời điểm hiện tại, Công ty đang đi chiếm dụng vốn nhiều hơn là “bị chiếm dụng” vốn. Việc Công ty đi chiếm dụng vốn ngoài lý do đầu tư mở rộng sản xuất như đã nói ở trên, còn do một phần đặc điểm kinh doanh của Công ty.
Nếu không tính đến khoản vay mở rộng mặt bằng sản xuất, ta sẽ thấy các khoản phải trả của Công ty năm 2001 và 2002 chỉ còn 7.300.871.790 đồng và 11.951.688.302 đồng. Điều này lại chứng tỏ Công ty “bị” chiếm dụng vốn hơn là “đi” chiếm dụng vốn. Đây mới chỉ là thực tế kinh doanh của Công ty. Nguyên nhân của hiện tượng này xuất phát từ chính đặc điểm sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của đơn vị. Sản phẩm sơn sản xuất ra cần một số lượng lớn các chủng loại vật tư đầu vào. Phần lớn số vật tư này Công ty đang phải tiến hành nhập khẩu (trừ một số loại không đáng kể như nhựa Alkyd, bìa các tông...). Các nhà cung cấp nước ngoài đòi hỏi một điều kiện thanh toán khá khắt khe, thường là giao tiền trước khi nhận hàng. Mặt khác, khi Công ty đi tiêu thụ sản phẩm, do môi trường cạnh tranh khốc liệt, Công ty thường phải chấp nhận sự “chậm tiền hàng”, cộng thêm số tiền thanh toán chậm của một số khách hàng truyền thống. Do đó, việc thu hồi tiền bán hàng của Công ty thường chậm, Công ty bị chiếm dụng vốn.
Về cơ cấu tài sản, Công ty đầu tư vào “tài sản” lưu động và đầu tư ngắn hạn với tỷ lệ lớn. Vào thời điểm 31/12/2001, tỷ lệ tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn trên tổng tài sản của Công ty là 78,41% và chiếm 84,72% vào 31/12/2002. Tỷ lệ này thoạt trông có vẻ là không hợp lý so với một doanh nghiệp sản xuất nhưng trong thực tế, tài sản cố định của Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội được sử dụng đã lâu, Công ty đã chiết khấu hao được quá nửa (trừ 1 dây chuyền tổng hợp nhựa Alkyd mới đầu tư năm 1998). Nguyên giá tài sản cố định hữu hình của Công ty cuối năm 2002 là 28.118.079.793 đồng thì đã khấu hao hết 19.898.940.481 đồng, giá trị còn lại chỉ là 8.219.139.312 đồng. Do vậy, số tài sản cố định của Công ty chiếm tỷ lệ thấp trong tổng tài sản. Tuy vậy, với những tài sản cố định đó, Công ty vẫn có thể sản xuất kinh doanh bình thường (giá trị tài sản cố định đã khấu hao hết hiện vẫn còn sử dụng là 5.875.922.001 đồng). Mặt khác, với tỷ lệ tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn trên “tổng tài sản” cao, Công ty càng có điều kiện quay vòng vốn nhanh. Trong tương lai không xa, một dây chuyền sản xuất đồng bộ và hiện đại sẽ được đưa vào sử dụng. Điều này sẽ dẫn đến một tỷ lệ hợp lý trong cơ cấu tài sản của Công ty.
Phần III: Tổ chức thực hiện công tác kế toán ở Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội
Đặc điểm tổ chức công tác kế toán:
Công ty Ssơn tổng hợp Hà Nội là một đơn vị sản xuất, trực tiếp đảm nhận từ khâu tìm kiếm nguyên liệu đầu vào cho đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, công tác tài chính kế toán của Công ty phải đáp ứng đầy đủ các nhu cầu, nắm rõ mọi khía cạnh, ngóc ngách của quá trình sản xuất, từ đó có khả năng cung cấp thông tin một cách thường xuyên, đầy đủ, chính xác và kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý cũng như kinh doanh của đơn vị. Mô hình tổ chức bộ máy kế toán cũng phải phù hợp với yêu cầu quản lý và những đặc thù của ngành nghề kinh doanh sơn hoá chất. Chính vì vậy, công tác kế toán của Công ty được thực hiện theo mô hình kế toán tập trung. Việc tổ chức hạch toán được tập trung ở phòng kế toán trên cơ sở kết hợp với các tổ trưởng sản xuất, quản đốc, thủ kho... Hiện tại, phòng kế toán gồm 9 người (2 nam, 7 nữ), trong đó 6 người có trình độ đại học, đảm nhận công việc kế toán tại các phần hành. Tổ chức lao động phòng kế toán được biểu diễn ở sơ đồ dưới đây:
Kế toán trưởng
Phó phòng kiêm kế toán vật liệu, tổng hợp
Phó phòng kiêm kế toán tiền mặt
Phó phòng phụ trách tiêu thụ và xác định kết quả
Kế toán ngân hàng
Kế toán theo dõi N-X-T kho vật liệu thành phẩm
Kế toán tính lương và bảo hiểm xã hội
Kế toán theo dõi thuế và
phải trả người bán
Thủ quỹ quản lý thu chi tiền mặt
Trong đó:
Kế toán trưởng có nhiệm vụ tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn toàn bộ công tác kế toán và công tác tài chính ở Công ty; chỉ đạo công việc chung của phòng kế toán. Đồng thời, kế toán trưởng là người trực tiếp theo dõi những biến động về TSCĐ, hạch toán sửa chữa lớn và tiến hành tính giá thực tế của thành phẩm sản xuất. (Kế toán trưởng phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc coong ty và pháp luật về tình hình chấp hành các chế độ, chính sách về quản lý tài chính của Nhà Nước).
Phó phòng: là người giúp việc cho trưởng phòng và điều hành công việc của phòng kế toán khi trưởng phòng vắng mặt. Bao gồm:
+ Một phó phòng theo dõi và quản lý tình hình nhập xuất vật liệu và công tác kế toán tổng hợp, là người lập các báo cáo tài chính từng quý, năm.
+ Một phó phòng theo dõi tình hình tiêu thụ, công nợ với khách hàng, các khoản doanh thu, chiết khấu, giảm giá, hàng bán bị trả lại... xác định kết quả kinh doanh.
+ Một phó phòng phụ trách quản lý những biến động tăng giảm về tài sản, theo dõi thanh toán tiền mặt.
Kế toán ngân hàng có nhiệm vụ giao dịch với ngân hàng, theo dõi công nợ với ngân hàng, quản lý các nghiệp vụ liên quan đến trung gian ngân hàng.
Kế toán lương và bảo hiểm xã hội có nhiệm vụ theo dõi bảng chấm công, tính và phân bổ lương cho công nhân viên chức, lên bảng tổng hợp tình hình thanh toán lương.
Kế toán viên theo dõi tình hình nhập - xuất - tồn kho vật liệu và thành phẩm, có nhiệm vụ đối chiếu cân đối giữa các chứng từ mua bán vật liệu-thành phẩm với các thẻ kho do các thủ kho gửi lên hàng tháng.
Kế toán viên theo dõi tình hình thanh toán với người bán, các khoản chiết khấu thanh toán ưu đãi giảm giá, thủ tục nhập khẩu (Công ty có một khối lượng lớn các nghiệp vụ nhập khẩu nguyên vật liệu) và tình hình nộp thuế giá trị gia tăng với Nhà Nước.
Một thủ quỹ bảo quản và giữ gìn tiền mặt, kiểm tra chứng từ hợp lệ trước khi thu và chi. Thủ quỹ cũng vào sổ quỹ và đối chiếu hàng ngày với kế toán tiền mặt.
Công tác kế toán của Công ty được chia làm các phần hành:
Kế toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ.
Kế toán tiền lương và bảo hiểm.
Kế toán tài sản cố định.
Kế toán vốn bằng tiền.
Kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành
Kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả.
Phòng tài chính kế toán nằm trong bộ máy quản lý chung của Công ty, thực hiện công việc quản lý tài chính sổ sách kế toán đồng thời cũng có quan hệ mật thiết hữu cơ với các phòng khác trong toàn Công ty, phối hợp quản lý với các phân xưởng sản xuất và lập các báo cáo quản trị tuỳ theo yêu cầu của công việc và ban giám đốc.
2.Thực tế vận dụng chế độ kế toán tại Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội.
2.1.Hệ thống chứng từ và tài khoản.
Về chứng từ: Công ty sử dụng các chứng từ theo đúng biểu mẫu quy định của chế độ, đảm bảo chứng từ là căn cứ pháp lý để ghi sổ và thông tin cho quản lý. Công ty không sử dụng chứng từ đặc thù. Ngoài ra, Công ty cũng phải tiến hành thanh toán các bộ hồ sơ chứng từ về nhập khẩu nguyên vật liệu. Tuy nhiên, những bộ chứng từ này luôn có những bản đúng theo mẫu quy định bên cạnh những bản do người bán hàng cung cấp. Trong năm, chứng từ được bảo quản ở kế toán phần hành. Khi báo cáo quyết toán năm được duyệt, chứng từ được chuyển vào lưu giữ.
Về hệ thống tài khoản: Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội sử dụng tài khoản hạch toán hoàn toàn đúng theo cơ sở hệ thống tài khoản quốc gia được ban hành theo quyết định số 1141TC/CĐKT áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà Nước do Bộ tài chính ban hành ngày 01/01/1995. Từ năm 2003, theo quy định của thông tư số 89/2002/TT-BTC ngày 09/10/2002, Công ty đã bỏ TK 711: Thu nhập hoạt động tài chính và thay bằng TK 515; TK 721: Thu nhập bất thường được thay thế bằng TK 711: Thu nhập khác. Chi phí tài chính được hạch toán vào TK 635 thay vì TK 811 và Chi phí bất thường được chuyển về theo dõi trên TK 811: Chi phí khác, bỏ không sử dụng TK 821.
2.2.Hệ thống sổ sách kế toán.
Do đặc thù của một doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh trực tiếp, số lượng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh hàng ngày ở Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội là khá lớn và phức tạp. Hơn nữa, Công ty lại hoàn toàn chưa áp dụng kế toán máy, công việc kế toán được tiến hành thủ công. Hàng ngày, căn cứ trên các chứng từ gốc, kế toán thực hiện phân loại, kiểm tra, ghi sổ kế toán tổng hợp và chi tiết theo theo từng phần hành thích hợp.
Vì những lí do đó, Công ty đã lựa chọn hình thức tổ chức “Nhật ký chứng từ”(NKCT) để tiến hành ghi sổ. Đây là hình thức tập hợp và hệ thống hoá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo bên Có của tài khoản kết hợp với việc phân tích các nghiệp vụ kinh tế đó theo các tài khoản đối ứng Nợ trên NKCT . Đồng thời, kế toán cũng kết hợp chặt chẽ việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo trình tự thời gian với việc hệ thống hoá các nghiệp vụ theo nội dung kinh tế; kết hợp việc hạch toán tổng hợp và hạch toán chi tiết trên cùng một sổ kế toán và trong cùng một quá trình ghi chép.
Việc sử dụng hình thức ghi sổ NKCT là phù hợp với đặc thù kinh doanh của doanh nghiệp, với tính chất phức tạp của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và trình độ cao của các nhân viên kế toán. Hơn thế nữa, việc hạch toán theo hình thức NKCT cũng giúp Công ty giảm được số lượng các ghi chép hàng ngày, hạn chế sai sót và tăng năng suất lao động kế toán.
Trình tự ghi sổ kế toán của Công ty được thể hiện qua sơ đồ sau:
Chứng từ gốc và các bảng phân bổ
Bảng kê
Nhật ký chứng từ
Sổ, thẻ kế toán chi tiết
Sổ Cái
Bảng tổng hợp chi tiết
Báo cáo tài chính
: Ghi hàng ngày Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức
: Ghi cuối tháng NKCT
: Quan hệ đối chiếu
Về mẫu sổ:
Các sổ tổng hợp: Công ty sử dụng các NKCT, bảng kê, sổ cái theo mẫu đúng như quy định của chế độ kế toán.
Các sổ chi tiết: Về cơ bản thực hiện theo chế độ trừ một số sổ được thay đổi để phù hợp với yêu cầu tập hợp, đối chiếu và kiểm tra số liệu.
Các sổ, bảng phục vụ cho yêu cầu quản trị được lập theo mục đích sử dụng và tiện cho việc theo dõi như bảng tổng hợp công nợ, bảng tổng hợp doanh thu…
2.3 Báo cáo tài chính.
Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội thực hiện quyết toán theo từng quý và lên các báo cáo tài chính theo quy định trong quyết định 1141/TC-CĐKT của Bộ tài chính. Bao gồm:
Bảng cân đối kế toán : Mẫu số B01-DN.
Báo cáo kết quả kinh doanh: Mẫu số B02-DN.
Thuyết minh báo cáo tài chính: Mẫu số B09-DN.
Riêng “Báo cáo lưu chuyển tiền tệ”(Mẫu số B03-DN), doanh nghiệp chỉ lập khi có yêu cầu của cơ quan chức năng hoặc đòi hỏi của ban giám đốc. Các báo cáo tài chính trên đều do kế toán tổng hợp lập, kế toán trưởng ký xác nhận rồi trình lên ban giám đốc phê duyệt, ký tên đóng dấu. Ngoài cơ quan thuế, báo cáo còn được gửi lên “Tổng Công ty hoá chất Việt Nam” và chuyển cho các phòng chức năng có liên quan đến việc sử dụng báo cáo (Phòng Kế hoạch, phòng Tổ chức nhân sự…)
Ngoài ra, tuỳ theo yêu cầu quản lý và đòi hỏi của ban giám đốc mà phòng kế toán có thể lập một số các báo cáo quản trị. Mẫu các báo cáo này rất đa dạng, tuỳ theo mục đích sử dụng và có thể được lập vào bất kỳ thời điểm nào trong năm tài chính.
- Báo cáo sản lượng nhập kho và giá vốn sản phẩm.
- Báo cáo công nợ.
- Bảng tổng hợp doanh thu tiêu thụ.
- Bảng các chỉ tiêu đánh giá thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh.
3.Quy trình hạch toán một số phần hành kế toán chủ yếu.
3.1 Kế toán vật liệu-Công cụ dụng cụ.
Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội sử dụng một khối lượng lớn các chủng loại vật liệu đầu vào. Hiện Công ty có một phó phòng kế toán thực hiện công việc theo dõi nguyên vật liệu cùng một kế toán viên theo dõi tổng hợp Nhập- Xuất- Tồn kho vật liệu và thành phẩm hàng hoá.
Trước khi nhập kho, các vật liệu đều phải được kiểm tra chất lượng bởi phòng KCS, đạt yêu cầu mới được nhập. Giá nhập kho vật liệu được xác định theo công thức:
Giá thực tế nguyên vật liệu nhập kho
=
Giá mua ghi trên hoá đơn
+
Chi phí thu mua
+
Thuế nhập khẩu (đối với NVL nhập khẩu)
-
Giảm giá ( nếu có)
Hiện tại, nguyên vật liệu được nhập và xuất kho theo nguyên tắc “Nhập trước – Xuất trước”. Điều này là hoàn toàn phù hợp bởi Công ty có một hệ thống kho bãi rộng rãi, phù hợp cho việc bảo quản riêng biệt từng lô hàng.
Quá trình hạch toán chi tiết vật liệu của Công ty được tiến hành theo phương pháp “Thẻ song song”. Vật tư mua về nhập kho được phòng kế toán lưu hoá đơn mua hàng và theo dõi về mặt giá trị trên sổ chi tiết vật tư (theo dõi riêng từng loại). Tại kho, thủ kho nhập cũng ghi số lượng vào thẻ kho, theo dõi về số lượng nhập đồng thời lưu phiếu nhập kho.
Do đặc thù sản xuất của Công ty là công việc được kế hoạch hoá, các sản phẩm được lập định mức cho từng loại vật tư tiêu thụ nên hàng ngày các xưởng sản xuất tiến hành lĩnh vật tư theo “Phiếu xuất vật tư theo hạn mức” (Mẫu số 04-VT). Phiếu này do phòng kế hoạch lập, giao cho phòng kế toán quản lý và phát cho các phân xưởng. Thủ kho khi xuất vật liệu sẽ giữ lại phiếu xuất vật tư và ghi vào thẻ kho. Cuối tháng, thủ kho lập “Bảng tổng hợp Nhập – Xuất – Tồn” sau đó gửi cùng thẻ kho và phiếu xuất vật tư theo hạn mức lên phòng kế toán. Phòng kế toán sẽ tiến hành đối chiếu với sổ chi tiết vật tư và sổ ghi chép số phiếu vật tư phát ra đồng thời khớp số liệu với kế toán tổng hợp.
Sổ chi tiết vật liệu
Quy trình hạch toán chi tiết vật tư của Công ty có thể được tóm tắt qua sơ đồ sau:
Sơ đồ : Quy trình hạch toán chi tiết Nguyên vật liệu theo hình thức “Thẻ song song”
Phiếu nhập kho
Thẻ kho
Phiếu xuất vật tư theo hạn mức
Bảng tổng hợp
Nhập – Xuất – Tồn
vật tư.
Kế toán tổng hợp
Sử dụng phương pháp này có thuận tiện ở chỗ đơn giản, dễ làm. Nhưng nếu xét về lâu dài, việc theo dõi riêng cho từng nhóm vật liệu là khá phức tạp, nhất là đối với đơn vị sử dụng rất nhiều chủng loại vật liệu. Chưa kể đến trên sổ kế toán chi tiết và thẻ kho còn có sự trùng lặp giữa các chỉ tiêu hiện vật.
Về quy trình hạch toán tổng hợp, giá xuất của nguyên vật liệu hàng ngày trên phiếu định mức là giá hạch toán. Cuối quý, kế toán lập bảng kê số 3 tính ra giá nguyên vật liệu thực tế xuất dùng trong kỳ, lấy số liệu vào bảng phân bổ số 2. Từ bảng phân bổ số 2, kế toán lấy số liệu vào các bảng kê số 4 và bảng kê số 5 rồi vào NKCT số7.
Sở dĩ doanh nghiệp tính giá vật liệu xuất dùng theo giá hạch toán là do vật liệu được mua từ nhiều nguồn khác nhau, có giá thay đổi theo từng nguồn nhập và biến động nhiều trong kỳ kế toán. Nếu sử dụng giá thực tế, kế toán sẽ gặp nhiều khó khăn phức tạp trong việc tính và phân bổ chi phí, làm rắc rối công tác tính giá và giảm hiệu quả công việc. Sử dụng phương pháp tính giá hạch toán, doanh nghiệp hoàn toàn tránh được khó khăn trên, giảm được khối lượng công việc trong phòng kế toán.
Chứng từ gốc về vật tư
(Bảng phân bổ số 2…)
NKCT 1,2,4,5,10
Sổ chi tiết nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ
Bảng kê 4,5
NKCT 7
Sổ cái TK 152,153
Báo cáo tài chính, Báo cáo N-X-T vật tư.
Bảng tổng hợp chi tiết
Sơ đồ : Quy trình hạch toán tổng hợp NVL-CCDC
Quy trình hạch toán tổng hợp nguyên vật liệu được thể hiện qua sơ đồ sau:
3.2. Kế toán tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh.
Công tác bán hàng tại Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội được đảm nhận chủ yếu bởi phòng thiêu thụ. Phòng kế toán chỉ làm công tác hạch toán doanh thu, phản ánh giá vốn và vào các sổ chi tiết bán hàng để tiện theo dõi số thành phẩm tại kho.
Quá trình tiêu thụ của Công ty diễn ra như sau: Phòng Tiêu thụ căn cứ đơn đặt hàng và yêu cầu của khách viết hoá đơn bán hàng (Mẫu số 01/GTGT/3LL). Hóa đơn này được lập thành 3 liên. Liên thứ nhất (màu tím) được lưu tại phòng tiêu thụ. Liên thứ 2 (Màu đỏ) giao cho khách hàng làm căn cứ thanh toán. Liên thứ 3 (Màu xanh) lưu tại phòng kế toán làm căn cứ hạch toán bán hàng và thu tiền. Hoá đơn sau khi lập phải có chữ ký của đại diện phòng tiêu thụ và Giám đốc mới được phòng kế toán thanh toán.
Trình tự ghi sổ hạch toán nghiệp vụ bán hàng của Công ty được thực hiện tương tự theo quy định của chế độ. Kế toán căn cứ hoá đơn bán hàng có đủ chữ ký tiến hành thanh toán, vào sổ chi tiết bán hàng. Tuỳ theo phương thức thanh toán mà có thể vào bảng kê 1(thanh toán bằng tiền mặt), bảng kê 2 (thanh toán bằng tiền ngân hàng) hoặc sổ chi tiết “Phải thu của khách hàng”. Doanh thu bán hàng và giá vốn hàng bán cũng được phản ánh vào các sổ chi tiết tương ứng. Giá vốn được ghi theo giá thực tế đích danh, doanh thu được phản ánh theo doanh thụ thực tế. Cuối tháng, kế toán lấy số tổng cộng trên các bảng kê và sổ chi tiết vào NKCT số 8, tính ra lợi nhuận trong kỳ kinh doanh. Cuối mỗi ngày, kế toán lấy số tổng cộng trên sổ chi tiết bán hàng ghi vào “Bảng kê chi tiết hàng hoá và dịch vụ bán ra” (Mẫu số 02- GTGT).
Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội còn có một mảng tiêu thụ sơn Ôtô, xe máy được theo dõi về số lượng, xuất hoá đơn ở phòng “Quản lý vật tư”. Trình tự theo dõi và hạch toán ở phòng kế toán cũng diễn ra tương tự như trên.
Báo cáo tài chính
Chứng từ gốc về tiêu thụ
Bảng kê 8
Bảng kê 10
Sổ chi tiết giá vốn
Sổ chi tiết doanh thu, các khoản giảm trừ
Sổ chi tiết TK 131
Nhật ký chứng từ 8
Sổ cái TK 632, 511
Sơ đồ: Trình tự hạch toán tiêu thụ sản phẩm
3.3 Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Quy trình sản xuất sơn là khép kín, tính chất liên tục, sản phẩm được sản xuất theo từng mẻ sơn, khối lượng sản phẩm hình thành cho mỗi loại là độc lập nhau về Cơ-Lý-Hóa nên không có nửa thành phẩm và bán thành phẩm hoàn thành. Chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm hoàn thành là từng mẫu (mẻ sơn). Sơn được đóng gói và nhập kho thành phẩm. Vì vậy, Công ty áp dụng tập hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên. Đối tượng tập hợp chi phí là theo từng sản phẩm và theo từng phân xưởng. Đối tượng tính giá là theo từng loại sản phẩm sơn (theo màu). Phương pháp tính giá là phương pháp tính trực tiếp dựa trên số lượng sản phẩm hoàn thành. Kỳ tính giá là cuối hàng quý trong năm tài chính. Giá của sản phẩm được tính dựa trên tập hợp các yếu tố chi phí sản xuất sau:
a.Tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Chi phí này được hạch toán trực tiếp vào đối tượng sử dụng (phân xưởng) theo giá hạch toán được ghi trên Phiếu lĩnh vật tư theo hạn mức. Khi xuất, thủ kho sẽ ghi số xuất vào phiếu. Đến cuối kỳ tính giá thủ kho sẽ chuyển chứng từ lên phòng kế toán. phòng kế toán căn cứ số xuất do thủ kho chuyển lên và sổ chi tiết nguyên vật liệu mua vào tiến hành lập “Bảng kê số 3”, tính ra giá thực tế của nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ xuất dùng trong kỳ, rồi lập “Bảng phân bổ số 2”, phân bổ chi phí cho từng bộ phận sản xuất. Giá trị nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ tính ở “Bảng phân bổ số 2” sẽ được sử dụng làm căn cứ tính giá.
b. Tập hợp chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí nhân công trực tiếp được kế toán phần hành Lương và Bảo hiểm tính và đưa số liệu lên “Bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội”. Kế toán tập hợp chi phí sử dụng số liệu trên bảng phân bổ đó để tiến hành tính giá sản phẩm.
c. Tập hợp chi phí sản xuất chung.
Chi phí sản xuất chung ở Công ty bao gồm các loại sau:
Chi phí Nguyên vật liệu- Công cụ dụng cụ.
Chi phí nhân viên.
Chi phí về khấu hao tài sản cố định.
Chi phí dịch vụ mua ngoài.
Các khoản chi phí về nguyên vật liệu và chi phí nhân viên được tập hợp tương tự như hai loại chi phí trên, kế toán sẽ lấy số liệu từ hai bảng phân bổ lương và nguyên vật liệu đã được chi tiết cho từng bộ phận sản xuất.
Về chi phí khấu hao tài sản cố định, Công ty áp dụng phương pháp khấu hao đều theo thời gian sử dụng. Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể mà kế toán có thể khấu hao nhanh hay chậm theo khung được quy định chung và thống nhất cho 3 năm liền. Số liệu về chi phí khấu hao được tập hợp từ “Bảng tính và phân bổ khấu hao” do kế toán phần hành tài sản cố định lập.
Công tác tính giá tại Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội có một nét đặc thù là trên thực tế, Công ty không theo dõi các khoản thiệt hại trong sản xuất. Thiệt hại này thường phát sinh khi ngừng sản xuất hoặc có sản phẩm hỏng:
- Với thiệt hại sản phẩm hỏng: Sản phẩm của Công ty được sản xuất theo quy trình công nghệ định sẵn. Qua mỗi khâu đều có sự kiểm tra, kiểm soát của những người có trách nhiệm riêng. Chính vì vậy nên Công ty thường có mức sản phẩm hỏng rất ít, nằm trong % kỹ thuật cho phép.
- Thiệt hại về ngừng sản xuất ở Công ty thường xảy ra do nguyên nhân khách quan, chủ yếu là do mất điện. Trên thực tế, Công ty luôn được chi nhánh điện báo trước thời gian mất nên sẽ tổ chức cho công nhân làm bù cho số ngày ngừng sản xuất.
Quy trình tính giá của Công ty có thể được tóm tắt ở sơ đồ sau:
Chứng từ gốc về chi phí và các bảng phân bổ
Bảng kê số 6
NKCT số1,2…
Bảng kê số 4,5
NKCT số 7
Sổ cái các TK chi phí
Báo cáo tài chính
Sơ đồ: Trình tự hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm
4.Kế toán tiền lương, bảo hiểm.
Quỹ lương của Công ty được xây dựng dựa trên cơ sở đơn giá tiền lương Tổng Công ty hoá chất Việt Nam giao cùng với thực hiện các chỉ tiêu như tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm, lợi nhuận phát sinh. Trong tổng quỹ lương thì tiền lương chi trả cho cách bộ công nhân viên chiếm 76%, tiền thưởng chiếm 12%, quỹ dự phòng chiếm 12%.
Hiện n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 648.DOC