Thái độ đối với người bệnh động kinh
Có 73,6% nghĩ người bệnh động kinh hoàn toàn không được phép lái xe. Gần một 
phần ba phản đối người bệnh động kinh lập gia đình và sinh con, tuy nhiên, tỷ lệ phản 
đối phụ nữ động kinh lập gia đình và sinh con thấp 0,5% và 2,7%. Không cho phép 
con mình học cùng trường hay chơi với trẻ bệnh động kinh (7,8%) và 43,2% phản đối 
người thân kết hôn với người động kinh, tỷ lệ nữ phản đối cao hơn nam (X2,p< 0,05). 
Nếu gia đình có người bệnh động kinh, 14,6% không muốn chia sẻ thông tin với cộng 
đồng vì xấu hổ (9,8%) và sợ phân biệt đối xử (24,6%) và 44,9% khuyên người bệnh 
nên điều trị theo sự hướng dẫn của bác sỹ
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 23 trang
23 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2361 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bệnh động kinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 BỆNH ĐỘNG KINH 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề và mục đích nghiên cứu: Động kinh là bệnh lý thần kinh mãn tính 
thường gặp. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy văn hóa, kiến thức, thái độ và 
nhận thức của người dân về động kinh ảnh hưởng lớn đến hiệu quả điều trị. Mục đích 
nghiên cứu của chúng tôi là đánh giá sự hiểu biết, kiến thức, quan niệm sai lệch, và 
thái độ đối với bệnh động kinh ở cộng đồng các quận trung tâm thành phố Hồ Chí 
Minh. 
Phương pháp: 480 đối tượng được chọn ngẫu nhiên để tiến hành phỏng vấn “mặt đối 
mặt” về bệnh động kinh. 
Kết quả: có 91,2% đối tượng đã từng nghe nói về bệnh động kinh; 29,3% có quen 
biết người bệnh động kinh; 80,6% đã từng chứng kiến người bệnh lên cơn động kinh; 
22,9% nghĩ rằng bệnh động kinh là do di truyền; 62,4% ủng hộ đặt vật cứng vào 
miệng đề ngăn người bệnh cắn lưỡi khi gặp họ lên cơn động kinh. Một phần ba ý kiến 
cho rằng người bệnh động kinh không nên lập gia đình và sinh con; 7,8% không cho 
phép con mình chơi với trẻ bệnh động kinh; 43,2% phản đối con kết hôn với người 
bệnh động kinh. Có 16,9% nghĩ rằng người bệnh động kinh không nên làm việc và 
35,6% sẽ sa thải người bệnh động kinh nếu lên cơn khi đang làm việc mà không khai 
báo trước. 
Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy vẫn còn những thái độ hạn chế đối với 
việc kết hôn, sinh con và việc làm của người bệnh động kinh. Thái độ trên xuất phát 
từ sự thiếu hụt kiến thức về nguyên nhân và khả năng điều trị bệnh động kinh. Những 
chương trình giáo dục sức khỏe cộng đồng cung cấp kiến thức về động kinh, cải thiện 
tình trạng phân biệt đối xử và những quan niệm sai lệch về người bệnh động kinh là 
rất cần thiết. 
ABSTRACT 
PUBLIC KNOWLEDGE AND ATTITUDES TOWARD EPILEPSY 
IN CENTRAL DISTRICTS OF HO CHI MINH CITY 
Le Ly Ha Lien, Tran Diep Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of 
No 1 - 2009: 172 - 179 
Background and purpose: Epilepsy is one of the most common neurological 
diseases worldwide. Many studies have shown that cultural and social awareness of, 
attitudes toward, and knowledge about epilepsy can have an impact on the acceptance 
of treatment. The aim of this study is to characterize the familiarity with, knowledge 
of, misunderstandings, and attitudes toward epilepsy among the Ho Chi Minh central 
districts population. 
Methods: four hundred and eighty people were randomly selected for face-to-face 
interviews regarding epilepsy. 
Results: Of the subjects surveyed; 91.2% had heard of epilepsy; 29.3% knew 
someone with epilepsy, 80.6% had witnessed an epileptic seizure; 22.9% believed 
that epilepsy is inheritable; 62.4% indicated that putting an object into the patient’s 
mouth to prevent tongue biting during a seizure is appropriate. One third thought that 
the epileptic patients couldn’t be married and have children; 7.8% would not allow 
their children play with others having epilepsy; 43.2% would object to having their 
children marry a person with epilepsy. 16.9% believed that epileptic patients 
shouldn’t work; and 35.6% would terminate the employment contract after an 
epileptic seizure in an employee with unreported epilepsy. 
Conclusion: Our study revealed that there were still negative attitudes regarding the 
marriage, childbearing, and employment of persons with epilepsy, which might result 
from lacking of knowledge about cause and treatment of epilepsy. Public health 
education would be needed in order to improve knowledge about epilepsy, and to 
ameliorate the social discrimination and misconceptions against epileptic patients. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Động kinh là một bệnh lý thần kinh thường gặp nhất, theo WHO trên thế giới hiện có 
khoảng 50 triệu người mắc bệnh động kinh. Nhiều nghiên cứu trên thế giới về kiến 
thức, thái độ và thực hành của người dân cho thấy sự thiếu hụt những kiến thức cơ 
bản về bệnh động kinh, quan niệm sai lệch và tình trạng phân biệt đối xử với người 
bệnh động kinh vẫn còn tồn tại, chính điều này ảnh hưởng rất lớn đến kết quả điều trị 
cũng như cuộc sống của người bệnh động kinh. 
Tại Việt Nam, hiện chỉ có hai nghiên cứu đã thực hiện tại Nhân Chính- Hà Nội và Ba 
Vì- Hà Tây, kết quả vẫn còn nhiều định kiến đối với người bệnh động kinh. Tuy 
nhiên, hai nghiên cứu này không thể đại diện cho nhận thức của người dân Việt Nam 
về bệnh động kinh vì vậy việc tiến hành nghiên cứu ở các vùng miền khác của đất 
nước rất cần thiết. Do vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Kiến thức và thái độ của người 
dân các quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh về bệnh động kinh”. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu nhằm đánh giá tỷ lệ các kiến thức, thái độ và những quan niệm sai lệch 
của người dân các quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh về bệnh động kinh, mối 
liên quan giữa kiến thức, thái độ với những đặc điểm dân số- xã hội như giới tính, 
tuổi, học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân. 
Có 480 đối tượng đã tham gia nghiên cứu. Trong 5 quận trung tâm thành phố Hồ Chí 
Minh, chọn ngẫu nhiên 2 quận là quận 3 và quận Phú Nhuận. Từ danh sách hộ gia 
đình được cung cấp bởi chính quyền địa phương, chúng tôi chọn ngẫu nhiên 1 người 
trong gia đình trên 18 tuổi và tiến hành phỏng vấn. Những đối tượng bệnh động kinh, 
gia đình có người bệnh động kinh, mất trí, câm điếc, tâm thần được loại khỏi nghiên 
cứu. Trường hợp đối tượng chưa từng nghe nói đến bệnh động kinh thì kết thúc 
phỏng vấn nhưng mẫu vẫn được đưa vào lô nghiên cứu. 
Chúng tôi chọn phương pháp phỏng vấn trực tiếp dưới hình thức “mặt đối mặt” dựa 
vào bộ câu hỏi soạn trước. Các câu hỏi được dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt và 
ngược lại để đảm bảo tính chính xác trong chuyển ngữ. Phỏng vấn do tác giả và 20 
cộng tác viên là sinh viên khoa Xã Hội Học, trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và 
Nhân Văn thành phố Hồ Chí Minh thực hiện. 
Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.1. Phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 
10.0 theo phương pháp thống kê mô tả ở mức tin cậy 95%. Phép kiểm Chi bình 
phương hoặc Fisher’s exact để kiểm định mối liên quan giữa một số yếu tố dân số- xã 
hội với các câu trả lời về kiến thức, thái độ về bệnh/người bệnh động kinh. Những câu 
trả lời chung chung như “không rõ”, “không biết” sẽ được loại khỏi phần phân tích. 
Đối với những câu trả lời có mối liên quan, tiến hành phân tích đa biến bằng phương 
pháp hồi qui logistic để xác định yếu tố liên quan độc lập. 
KẾT QUẢ 
Trong 480 đối tượng được phỏng vấn, tỷ lệ nam/nữ = 1/1,44, nhóm tuổi 18-44 tuổi là 
51,1%, 62,5% người có trình độ học vấn trung học, phân bố nghề nghiệp (lao động trí 
óc, lao động chân tay và không đi làm) tương đương nhau, 76,9% đối tượng đã lập 
gia đình. 
Hiểu biết về bệnh động kinh 
Tỷ lệ nghe nói về bệnh động kinh và chứng kiến người bệnh lên cơn động kinh cao 
(91,2% và 80,6%). Tỷ lệ quen biết với người bệnh động kinh thấp hơn (29,3%). 
Người có trình độ học vấn cao “nghe nói về bệnh động kinh” nhiều hơn người có 
trình độ học vấn thấp (X2, p< 0,05). 
Bảng 1: Hiểu biết về bệnh động kinh 
Kết quả Câu 1 Câu 2 Câu 3 
 Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Tổng 
cộng 
91,2 9,8 29,3 70,7 19,4 80,6 
Giới 
Nữ 90,1 9,9 30,9 69,1 78,1 21,9 
 Nam 90,4 9,6 26,9 73,1 84,3 15,7 
Nhóm 
tuổi 
 18-44 93,1 6,9 24,1 75,9 78,1 21,9 
 45-64 87,7 12,3 37,8 62,2 83,5 16,5 
 > 65 85,4 14,6 24,4 75,6 82,9 17,1 
Học vấn 
Tiểu học 80 20 34,4 65,6 87,5 12,5 
Trung 
học 
89,3 10,7 30,6 69,4 80,9 19,1 
Trên 
trung 
học 
95 5 25,6 74,4 78,2 21,8 
Nghề 
nghiệp 
LĐ trí 
óc 
91,3 5,7 22,4 77,6 80 20 
LĐ chân 
tay 
89 11 33,8 66,2 79,2 20,8 
Không 
đi làm 
86,8 13,2 33,3 66,7 82,6 17,4 
Hôn 
nhân 
Độc 
thân 
90,1 9,9 31 69 75 25 
Đã kết 
hôn 
90,2 9,8 28,8 71,2 82,2 17,8 
Câu 1: Ông/ Bà có từng nghe nói về bệnh động kinh không? 
Câu 2: Ông/ Bà có quen biết ai là người bị động kinh không? 
Câu 3: Ông/ Bà đã từng chứng kiến người bệnh lên cơn động kinh chưa? 
Kiến thức về động kinh 
Về nguyên nhân, do di truyền 22,9%. Người có trình độ học vấn cao biết đến nguyên 
nhân di truyền cao hơn người có trình độ học vấn thấp (X2, p< 0,05). Có đến 95,8% 
chọn co giật và sùi bọt mép là biểu hiện chính của bệnh. Chỉ 0,97% nghĩ động kinh là 
bệnh truyền nhiễm. 
Có 38,6% nghĩ rằng bệnh động kinh không thể điều trị khỏi bằng thuốc và 49,4% cho 
biết ngoài thuốc còn có cách khác có thể điều trị bệnh động kinh, tuy nhiên phần lớn 
(53,2%) không biết, châm cứu (7,8%), thuốc nam (3,2%), đông y, vật lý trị liệu,… 
Khi gặp người đang lên cơn động kinh, 62,4% đồng ý chèn vật cứng vào miệng để 
ngăn người bệnh cắn lưỡi. Những đối tượng trẻ tuổi ủng hộ phương pháp trên cao hơn 
đối tượng lớn tuổi (X2, p< 0,05), 77,4% kiến thức trên có được từ kinh nghiệm truyền 
miệng, 11,1% từ sách báo, truyền hình và 4,8% từ sự hướng dẫn của nhân viên y tế. 
Bảng 2: Kiến thức về bệnh động kinh 
Kết quả Câu 4 Câu 5 Câu 6 Câu 7 Câu 8 Câu 9 Câu 10 
 Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Tổng 43,456,6 22,9 77,1 95,8 4,2 99,03 0,97 61,4 38,6 50,6 49,4 62,4 37,6 
Kết quả Câu 4 Câu 5 Câu 6 Câu 7 Câu 8 Câu 9 Câu 10 
 Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
cộng 
Giới 
 Nữ 41,258,8 22,4 77,6 94,5 5,5 0,4 99,6 64,7 35,3 52,2 47,8 63,5 36,5 
 Nam 46,653,4 23,6 76,4 97,7 2,3 1,7 98,3 56,5 43,5 48,3 51,7 60,7 39,3 
Nhóm 
tuổi 
 18-44 46,553,5 21,9 78,1 96,5 3,5 1,3 98,7 63,5 36,5 51,3 48,7 67,5 32,5 
 45-64 38,461,6 23,2 76,8 93,9 6,1 0 100 58,6 41,4 51,2 48,8 59,8 40,2 
 > 65 46,353,7 26,8 73,2 100 0 2,4 97,6 60,7 39,3 43,9 56,1 43,9 56,1 
Học vấn 
 Tiểu 
học 
34,465,6 3,1 96,9 90,6 9,4 0 100 50 50 40,6 59,4 50 50 
 Trung 
học 
41 59 20,9 79,1 96,3 3,7 1,1 98,9 64,6 35,4 52,9 47,1 61,6 38,4 
Kết quả Câu 4 Câu 5 Câu 6 Câu 7 Câu 8 Câu 9 Câu 10 
 Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
 Trên 
trung 
học 
50,449,6 31,6 68,4 96,2 3,8 0,8 99,2 57,3 42,7 48,1 51,9 66,9 33,1 
Nghề 
nghiệp 
 LĐ trí 
óc 
50,949,1 25,5 74,5 95,2 4,8 0,6 99,4 62,4 37,6 53,3 46,7 65,5 34,5 
 LĐ 
chân tay 
37,762,3 21,5 78,5 96,9 3,1 1,5 98,5 62,5 37,5 51,5 48,5 65,4 34,6 
 Không 
đi làm 
39,960,1 22 78 95,6 4,4 0,7 99,3 58,8 41,2 46,4 53,6 55,8 44,2 
Hôn 
nhân 
 Độc 
thân 
45 55 30 70 97 3 1 99 64 36 45 55 58 42 
Kết quả Câu 4 Câu 5 Câu 6 Câu 7 Câu 8 Câu 9 Câu 10 
 Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
Có 
(%) 
Không 
(%) 
 Đã kết 
hôn 
42,957,1 20,7 79,3 95,5 4,5 0,9 99,1 60,6 39,4 52,2 47,8 63,7 36,3 
Câu 4: Theo ông/bà nguyên nhân động kinh có phải do bệnh lý não, thần kinh không? 
Câu 5: Theo ông/bà nguyên nhân động kinh có phải do di truyền không? 
Câu 6: Theo ông/bà biểu hiện bệnh động kinh có phải là “co giật và sùi bọt mép” 
không? 
Câu 7: Theo ông/bà bệnh động kinh có phải là bệnh truyền nhiễm, dễ lây lan không? 
Câu 8: Theo ông/bà bệnh động kinh có thể điều trị khỏi bằng thuốc (Tây hoặc Đông 
y) không? 
Câu 9: Theo ông/bà thuốc có phải là cách duy nhất điều trị động kinh không? 
Câu 10: Khi gặp một người lên cơn động kinh, có nên chèn vật cứng vào miệng để 
ngăn họ cắn lưỡi không? 
Thái độ đối với người bệnh động kinh 
Có 73,6% nghĩ người bệnh động kinh hoàn toàn không được phép lái xe. Gần một 
phần ba phản đối người bệnh động kinh lập gia đình và sinh con, tuy nhiên, tỷ lệ phản 
đối phụ nữ động kinh lập gia đình và sinh con thấp 0,5% và 2,7%. Không cho phép 
con mình học cùng trường hay chơi với trẻ bệnh động kinh (7,8%) và 43,2% phản đối 
người thân kết hôn với người động kinh, tỷ lệ nữ phản đối cao hơn nam (X2, p< 0,05). 
Nếu gia đình có người bệnh động kinh, 14,6% không muốn chia sẻ thông tin với cộng 
đồng vì xấu hổ (9,8%) và sợ phân biệt đối xử (24,6%) và 44,9% khuyên người bệnh 
nên điều trị theo sự hướng dẫn của bác sỹ. 
Về việc làm, 16,9% nghĩ rằng người bệnh động kinh không nên làm việc, tỷ lệ đồng ý 
cao ở những đối tượng có trình độ học vấn thấp (X2, p< 0,05) và 35,6% sẽ sa thải 
người bệnh động kinh nếu lên cơn khi đang làm việc mà không khai báo trước tình 
trạng bệnh. 
Bảng 3: Kết quả trả lời các câu hỏi từ 15 đến 18 
15. Người bệnh động kinh có được phép điều 
khiển ppphương tiện giao thông không? 
Kết quả % 
Có, được phép 6,4 
Chỉ được phép trong điều kiện hạn 
chế 
20 
Hoàn toàn không được phép 73,6 
 Không (%) 
16. Nếu gia đình có người bệnh 
động kinh, theo ông/bà có nên 
chia sẻ thông tin này với những 
người có mối quan hệ, giao tiếp 
với gia đình không? Tại sao? 
14,6 
Xấu hổ 9,8 
Sợ phân biệt đối xử 24,6 
17. Người bệnh động kinh có nên 
được nhận vào làm việc nếu công 
khai tình trạng bệnh của mình không? 
% 
Hoàn toàn có thể làm việc 37 
Chỉ tham gia những công việc đơn 
giản 
46,1 
Không nên làm việc 16,9 
18. Nếu ông/bà là chủ một doanh 
nghiệp, ông/bà có sa thải người lên 
cơn động kinh lúc đang làm việc mà 
không khai báo trước tình trạng bệnh 
của mình không? 
% 
Có 35,6 
Không 64,4 
Quan niệm sai lệch về bệnh động kinh 
Một số quan niệm sai lệch về bệnh 
động kinh: bệnh động kinh là một 
dạng bệnh tâm thần (9,5%), trí tuệ 
người động kinh thấp hơn bình 
thường (35,1%), cần phải học ở 
những trường đặc biệt (33,8%), người 
bệnh động kinh có thể gây nguy hiểm 
cho người khác (13,1%). 
Phải 
(%) 
19. Bệnh động kinh là do thần thánh 
trừng phạt 
0,69 
20. Bệnh động kinh có phải là bệnh 9,5 
tâm thần? 
21. Người bệnh động kinh có trí tuệ 
thấp hơn bình thường? 
35,1 
22. Người bệnh động kinh có nên học 
ở trường đặc biệt? 
33,8 
23. Người bệnh động kinh có thể gây 
nguy hiểm cho người khác? 
13,1 
Nguồn cung cấp thông tin, cơ sở y tế điều trị động kinh 
Khi cần tìm hiểu thêm về bệnh động kinh, 43,4% sẽ tìm đọc sách báo, hỏi trực tiếp 
bác sỹ hoặc nhân viên y tế (21,9%), đặt câu hỏi trên các phương tiện truyền thông đại 
chúng (10%), tìm đọc trên internet (9,7%), không biết phải tìm hiểu ở đâu (11,3%). 
Trên hai phần ba đối tượng không biết những cơ sở y tế chuyên điều trị bệnh động 
kinh cho trẻ em (75,6%) và người lớn (70%). Trong số những người biết, 57,5% chọn 
bệnh viện Nhi Đồng là nơi điều trị động kinh trẻ em, điều trị bệnh động kinh người 
lớn 38,4% chọn bệnh viện Tâm Thần và 33% chọn bệnh viện Nhiệt Đới. 
Bảng 4: Thái độ đối với người bệnh động kinh 
Kết quả Câu 11 Câu 12 Câu 13 Câu 14 
 Có Không Nữ, Có Không Nữ, Có Có,giám Không Có Không 
(%) (%) Không 
(%) 
(%) (%) không 
(%) 
(%) sát (%) (%) (%) (%) 
Tổng cộng 69,6 29,9 0,5 67 30,3 2,7 74,1 18,1 7,8 43,2 56,8 
Giới 
 Nữ 65,1 34,5 0,4 61,9 35,4 2,7 73,5 17,7 8,8 48,4 51,6 
 Nam 76,2 23,1 0,7 74,6 22,7 2,7 75,1 18,7 6,2 34,2 65,8 
Nhóm tuổi 
 18-44 75,1 23,9 1 72,4 25 2,6 71,6 21,2 7,2 40 60 
 45-64 64 36 0 61,2 35,4 3,4 76,2 15,2 8,6 45,8 54,2 
 > 65 61,8 38,2 0 60,6 39,4 0 80 12,5 7,5 50 50 
Học vấn 
 Tiểu học 64 36 0 58,3 37,5 4,2 75 12,5 12,5 48 52 
 Trung học 67,9 31,7 0,4 66,2 31,6 2,2 73,8 16,7 9,5 43,5 56,5 
 Trên trung 
học 
73,9 25,2 0,9 70,2 26,5 3,3 74,6 22,3 3,1 41,2 58,8 
Nghề nghiệp 
 LĐ trí óc 76,9 23,1 0 73,3 23,3 3,4 78,7 16,9 4,4 36,9 63,1 
 LĐ chân tay 63,4 35,7 0,9 59,4 38,7 1,9 68,5 20,8 10,7 45,7 54,3 
 Không đi làm 66,1 33,1 0,8 65,8 31,7 2,5 74,3 16,9 8,8 47,9 52,1 
Hôn nhân 
 Độc thân 69,1 29,7 1,2 67,8 28,6 3,6 75,7 19,2 5,1 39,4 60,6 
 Đã kết hôn 69,8 29,9 0,3 66,7 30,7 2,6 73,7 17,7 8,6 44,4 55,6 
Câu 11: Người bệnh động kinh nói chung có nên lập gia đình không? 
Câu 12: Người bệnh động kinh có nên có con không? 
Câu 13: Ông/bà có đồng ý cho con mình học cùng trường hoặc chơi chung với trẻ 
động kinh không? 
Câu 14: Ông/bà có phản đối con mình hoặc người thân trong gia đình kết hôn với trẻ 
động kinh không? 
BÀN LUẬN 
Tỷ lệ người dân "nghe nói về bệnh động kinh" theo nghiên cứu của chúng tôi là 
91,2% tương tự theo kết quả nghiên cứu ở Seoul 91,8%, tuy nhiên lại thấp hơn so với 
kết quả ở một số nước châu Phi và châu Âu như Kerela 98,7%, Hy Lạp 94,5%, Cộng 
hòa Czech 94%, New Zealand 95%. Mặc khác, so với một số nước trong khu vực 
châu Á, tỷ lệ này cao hơn, Hồng Kông 58,2%, Đài Loan 87%, Các Tiểu Vương Quốc 
Ả Rập 75%. So với hai nghiên cứu trong nước, kết quả của chúng tôi cũng khả quan 
hơn, Nhân Chính 54,6%, Ba Vì 67%. Tỷ lệ "quen biết người bệnh động kinh" là 
29,3%, thấp hơn so với nghiên cứu ở Nhân Chính 45,5% và 52% ở Ba Vì. Có lẽ do 
đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi cư ngụ tại các quận trung tâm thành phố Hồ 
Chí Minh, người dân hạn chế tiếp xúc với xung quanh, khác với lối sống gần gũi của 
người dân vùng ngoại ô và nông thôn. Hơn nữa, 80,6% đã từng "chứng kiến người 
bệnh lên cơn động kinh", gần với tỷ lệ "nghe nói", vì vậy, có thể nói những người 
"nghe nói về bệnh động kinh" phần lớn là do đã từng trực tiếp chứng kiến người bệnh 
lên cơn động kinh. 
Sự phát triển của sinh học phân tử đã làm sáng tỏ vai trò của di truyền trong nguyên 
nhân gây động kinh, tuy nhiên tỷ lệ khá thấp, quá nhấn mạnh vai trò của di truyền sẽ 
dẫn đến nhiều quan niệm sai lệch đối với vấn đề hôn nhân và sinh con của người bệnh 
động kinh. Bên cạnh đó, do người dân nhận thấy tần suất mắc bệnh động kinh trong 
cùng một gia đình cao hơn so với các gia đình khác. Tỷ lệ này trong nghiên cứu 
chúng tôi là 22,9%. Những người có trình độ học vấn cao biết đến nguyên nhân này 
nhiều hơn người có trình độ học vấn thấp (X2, p< 0,05). 
Bảng 5: So sánh sự hiểu biết và thái độ về bệnh /người bệnh động kinh với các 
nghiên cứu khác 
Tên 
nước 
Năm 
thực 
hiện 
Câu 
1 
Có 
(%) 
Câu 
2 
Có 
(%) 
Câu3 
Có 
(%) 
Câu 
13 
Có 
(%) 
Câu 
14 
Có 
(%) 
Câu 
20 
Có 
(%) 
Đài Loan 1995 87 70 56 82 72 
Hồng 
Kông 
2001 58,2 55 18,9 88,8 32,3 10,4 
Nhân 
Chính-
Việt 
2003 54,6 45,5 49,2 81,3 56 23,8 
Nam 
Hàn 
Quốc 
2004 91,8 63,9 81,9 67,2 7 
Ba Vì-
Việt 
Nam 
2007 67 52 49 64 82 10 
Quận 
trung 
tâm 
TP.Hồ 
Chí 
Minh 
2008 91,2 29,3 80,6 74,1 43,2 9,5 
Về điều trị, 38,6% nghĩ rằng bệnh động kinh không thể điều trị khỏi bằng thuốc. Theo 
WHO, 70% bệnh nhân đáp ứng với thuốc chống động kinh. Tuy nhiên, do động kinh 
là bệnh lý mãn tính, thời gian điều trị thường kéo dài, nhiều trường hợp bỏ trị hoặc 
điều trị bằng các phương pháp dân gian vì thế bệnh không khỏi. 
Khi gặp người đang lên cơn động kinh, 62% đồng ý đặt vật cứng vào miệng để ngăn 
họ cắn lưỡi, việc làm này dễ gây tổn thương cho bệnh nhân. Đáng lưu ý, 77,4% tiếp 
thu được cách xử trí trên từ kinh nghiệm truyền miệng, chứng tỏ kiến thức sai lệch về 
cách xử trí này đã được truyền bá rộng rãi trong cộng đồng, 11,1% người dân tiếp thu 
được cách xử trí này là từ sách báo, truyền hình, một kênh thông tin quan trọng và 
hiệu quả. Vẫn có 4,8% nhân viên y tế hướng dẫn người dân phương pháp này. Những 
người trẻ tuổi chọn cách xử trí này cao hơn người lớn tuổi (X2, p< 0,05). 
Gần một phần ba người dân phản đối người bệnh động kinh kết hôn và và sinh con, 
thái độ tiêu cực này có khuynh hướng liên quan với quan niệm rất phổ biến đã ngấm 
sâu trong cộng đồng Việt Nam như đã đề cập ở trên, bệnh động kinh là do di truyền 
và bệnh động kinh thì không điều trị khỏi được. 
Chỉ 7,8% đối tượng phản đối con mình tiếp xúc với trẻ động kinh, 18,1% ý kiến yêu 
cầu cần phải có người giám sát khi trẻ chơi với nhau vì lo lắng con mình có thể bị tổn 
thương khi trẻ bệnh lên cơn động kinh, đây một trong những quan niệm sai lệch cần 
lưu ý trong chương trình giáo dục sức khỏe cộng đồng về động kinh. 
Có đến 43,2% người dân phản đối người thân trong gia đình kết hôn với người động 
kinh. Kiến thức về nguyên nhân động kinh do di truyền ảnh hưởng sâu sắc đến thái độ 
phản đối người thân trong gia đình kết hôn với người bệnh động kinh, người dân lo 
ngại người bệnh động kinh có khả năng sinh ra những đứa trẻ bệnh động kinh, mặt 
khác cho rằng người bệnh động kinh không có khả năng đảm đương được vấn đề 
kinh tế gia đình như người không bệnh, tỷ lệ nữ phản đối cao hơn so với nam (X2, p< 
0,05). Tương tự, tỷ lệ nữ phản đối người thân trong gia đình kết hôn với người động 
kinh ở Ba Vì và Nhân Chính cũng cao hơn so với nam.Thái độ hạn chế đối với những 
vấn đề xã hội thường gặp ở nữ hơn nam, có thể do ở Việt Nam người nữ thường làm 
công việc nội trợ, ít có điều kiện tiếp xúc bên ngoài, ít tiếp thu thông tin nên kiến thức 
về xã hội thấp hơn nam 
Khi đề cập đến vấn đề chia sẻ thông tin với cộng đồng về bệnh động kinh, 14,6% đối 
tượng không muốn thông báo với người khác nếu gia đình có người bệnh động kinh 
vì họ cảm thấy xấu hổ (9,8%) và sợ bị phân biệt đối xử (24,6%). Thái độ này cho 
thấy, mặc dù y học đã chứng minh cơn động kinh xuất hiện do sự rối loạn chức năng 
não đột ngột, nhất thời nhưng sự sợ hãi và thiếu hiểu biết về bệnh động kinh dẫn đến 
thái độ giấu diếm thông tin với cộng đồng. Bên cạnh đó, xã hội có khuynh hướng kết 
tội người bệnh động kinh là do lối sống thiếu đạo đức của gia đình. 
Thái độ xem người động kinh là người tàn tật, không có khả năng làm việc càng đẩy 
người bệnh xa rời cộng đồng, đáng tiếc quan niệm này khá phổ biến trong cộng đồng 
Việt Nam. Theo Lê Quang Cường 41% cho rằng người bệnh động kinh không nên 
làm việc, còn theo Nguyễn Anh Tuấn 67% nghĩ người bệnh động kinh không có khả 
năng làm việc. Kết quả của chúng tôi cho thấy người dân các quận trung tâm thành 
phố Hồ Chí Minh có thái độ tích cực hơn về việc làm của người bệnh động kinh, 
16,9% ý kiến cho rằng người bệnh động kinh không nên làm việc. Người có học vấn 
trên trung học có thái độ tích cực hơn so với người học vấn thấp (X2, p< 0,05). Kế 
đến, 35,6% sẽ cho người động kinh nghỉ việc nếu họ lên cơn động kinh trong lúc 
đang làm việc mà không khai báo trước về tình trạng bệnh của mình. Thái độ trên cho 
thấy người bệnh động kinh vẫn chưa nhận được sự thông cảm, chia sẻ của xã hội. 
Có 9,5% nghĩ động kinh là một dạng bệnh tâm thần. Tại Việt Nam, người bệnh động 
kinh được theo dõi, quản lý bởi những đơn vị chuyên khoa tâm thần, được điều trị bởi 
các bác sỹ chuyên về tâm thần học, vì vậy người dân thường xem bệnh động kinh như 
một dạng bệnh tâm thần. 
Phương tiện truyền thông là một trong những kênh cung cấp thông tin quan trọng, 
hiệu quả, tuy nhiên chỉ 10% người dân có ý định nhận được thông tin về bệnh động 
kinh từ đây, và 11,3% không biết phải tìm hiểu ở đâu, chứng tỏ vai trò của kênh thông 
tin này còn hạn chế rất nhiều. 
Nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy tỷ lệ người dân các quận trung tâm thành phố 
Hồ Chí Minh - Việt Nam biết đến bệnh động kinh khá cao, tuy nhiên kiến thức của 
cộng đồng về căn bệnh này còn nhiều hạn chế, chính điều đó đã dẫn đến những quan 
niệm sai lệch, tình trạng phân biệt đối xử với người bệnh động kinh. Những chương 
trình giáo dục sức khỏe cộng đồng về bệnh động kinh nên được tiến hành thường 
xuyên hơn nhằm cung cấp kiến thức cho người dân, đồng thời xóa dần những thái độ 
chưa đúng của cộng đồng đối với người bệnh, đưa người bệnh trở lại hòa nhập cộng 
đồng, nâng cao hiệu quả điều trị. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 32_7441.pdf 32_7441.pdf