MỤC LỤC
TÓMTAT. : ; : ; L iíi
DANH MỤC CHỮ VIỂTTAT vi
DANH MỤC BÂNG vii
DANH MỤC HÌNH VÈ viii
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1
1.1. Bối cánh chính sách 1
1.2. Vấn đề chính sách ỉ
1.3. Phạm vi. mục tiêu vả phương pháp nghiên cửu 2
1.4. Càu hói chinh sách 3
1.5. Kèt câu cùa luận vân 3
CHƯƠNG 2: TÔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN cứu TRƯỚC 4
2.1. Các nghiên cứu thực nghiệm 4
2.2. Khung phân rich các yắu tỏ quyết định tỷ lệ từ vong tre em s
CHƯƠNG 3: TỎNG QUAN VÈ TÌNH TRẠNG CHÀM SÓC SƯC KHÓE BẤ
MẸ VÀ TRẺ EM Ờ NÔNG THÔN MẸT NAM 10
3.1. Kềt cáu hạ tầng nông thôn 10
3.2. Cơ hội úềp cặn vói các dịch vụ châm sóc sức khóe cua bà mẹ vá nè em nông thôn. 12
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG PHẤP LUẬN VÀ KHUNG PHÂN TÍCH 14
4.1. Motádữliệu„ 14
4.2. Lựa chọn mô hinh sứ dụng 14
4.3. Các bion ơong mô hình 15
CHƯƠNG 5: PHÂN TÍCH CẤC YÉU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỲ LỆ TƯ
VONG TRẺ EM Ờ NÔNG THÔN MỆT NAM 18
5.1. Thống kê mô tả 18
5.2. Kct quá hủi quy 21
5.3. Phân ũch kêt quà 23
5.4. Dự báo tỳ lệ từ vong tre em 2Ổ
69 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 661 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong trẻ em ở nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
U TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN TỶ LỆ TỬ VONG
TRẺ EM Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM
Chương này tập trung phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong trẻ em ở
nông thôn Việt Nam thông qua việc phân tích đặc trưng của các nhóm người mẹ có ít nhất
một con tử vong và nhóm người mẹ không có con tử vong theo bốn nhóm nhân tố người
mẹ, hộ gia đình, vùng miền và các dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ y tế. Sau đó thực hiện hồi quy
để tìm mối quan hệ giữa tỷ lệ tử vong trẻ em với các nhóm nhân tố này.
5.1. Thống kê mô tả
Theo World Bank (2007) thì giáo dục của người mẹ có ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong trẻ
em thông qua hàng loạt những nhân tố trung gian. Chẳng hạn, khi người mẹ được giáo dục
tốt hơn thường có xu hướng sinh con muộn hơn, chăm sóc sức khỏe cho bản thân và con
cái tốt hơn, có vai trò quyết định trong gia đình hoặc thực hành vệ sinh, dinh dưỡng tốt
hơn. Vì vậy, xuất phát điểm của nghiên cứu sẽ tập trung vào trình độ giáo dục của người
mẹ.
Số liệu thống kê cho thấy trong số 8.070 người mẹ đã có ít nhất một lần sinh con trong
mẫu thì có 651 người mẹ (chiếm 8,1% trong tổng số người mẹ) đã từng có ít nhất một con
tử vong và 7.419 người mẹ (chiếm 91,9%) có con sinh ra vẫn còn sống đến năm 2006.
Trong 651 người mẹ này có đến 32,4% không đi học và 37,6% mới học xong tiểu học, còn
lại 27,8% học xong trung học cơ sở (THCS) và chỉ có 2,2% học phổ thông trung học
(PTTH), không có bà mẹ nào học ở những cấp cao hơn (Phụ lục 7). Ngược lại, đối với
7.419 người mẹ có con còn sống thì chỉ có 17,7% không đi học, có đến 45% bà mẹ hoàn
thành THCS, 10,7% hoàn thành PTTH trở lên. Cũng chính vì vậy, tỷ lệ tử vong trẻ cao
nhất nằm ở những người mẹ không đến trường (38,5%) hoặc mới chỉ học tiểu học, trong
khi tỷ lệ sống sót của trẻ lại cao nhất khi người mẹ hoàn thành THCS (39,2%) trở lên.
Để có cái nhìn rõ ràng hơn, nghiên cứu tiếp tục phân tích những đặc điểm giữa nhóm
người mẹ có ít nhất một con tử vong với nhóm người mẹ có tất cả các con sinh ra đều sống
khi họ cùng có cấp học (từ những nhóm không đi học đến những nhóm PTTH trở lên) để
tìm hiểu xem tại sao lại có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong trẻ ở các nhóm bà mẹ này.
19
Hình 5-1 Đặc trƣng của nhóm ngƣời mẹ có con tử vong và nhóm ngƣời mẹ có con còn
sống khi không đến trƣờng
(Nguồn: Tính toán của tác giả, n=1.527, MICS 2006)
Trước tiên, nghiên cứu sẽ xem xét một trường hợp điển hình là nhóm những người mẹ
không được đến trường. Hình 5-1 tổng hợp những đặc trưng của hai nhóm người mẹ, một
nhóm là những người mẹ có ít nhất một con tử vong (gồm 211 người mẹ) và nhóm kia là
những người mẹ có tất cả các con còn sống (gồm 1.316 người mẹ). Chúng ta thấy rõ tuổi
của lần sinh đầu tiên và bổ sung vitamin A sau khi sinh giữa hai nhóm người mẹ không
chênh lệch nhiều. Sự chênh lệch thể hiện rõ ở khoảng cách giữa lần sinh đầu và lần sinh
cuối dưới 5 năm. Số liệu cho thấy ở nhóm người mẹ có con còn sống, dù có đến 48,1%
trong số họ có khoảng cách sinh dưới 5 năm, song họ lại hoàn toàn không có con tử vong,
điều này có thể do họ sinh ít con hơn (với hơn 43,5% người mẹ có từ 1-2 con và chỉ có
9,2% người mẹ có trên 5 con). Ngược lại, ở nhóm người mẹ có ít nhất một con tử vong, dù
chỉ có 21,8% trong số họ có khoảng cách sinh dưới 5 năm, nhưng có lẽ do 64,9% trong số
họ có từ 3-5 con và 27,96% có từ 6-10 con nên những người mẹ này đều có con tử vong
0% 20% 40% 60% 80% 100% 120%
Tuổi của lần sinh đầu tiên dưới 20 tuổi
Khoảng cách giữa lần sinh đầu và cuối dưới 5 năm
Bổ sung vitamin A cho mẹ sau khi sinh
Nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời
Hộ nghèo
Số con sinh ra trên 5 con
Xử lý chất thải an toàn
Tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh
Đồng bằng Bắc bộ
Miền núi phía Bắc
Bắc Trung bộ
Duyên hải Nam Trung bộ
Tây Nguyên
Đông Nam bộ
Đồng bằng sông Cứu Long
Chăm sóc trước khi sinh
Trợ giúp khi sinh con
Người mẹ có con tử vong Người mẹ có con còn sống
DỊCH
VỤ
HỘ
GIA
ĐÌNH
NGƢỜI
MẸ
VÙNG
MIỀN
20
(Phụ lục 7). Có thể đây là lý do nhóm người mẹ có con còn sống có điều kiện chăm sóc
con trẻ tốt hơn và khoảng cách giữa các lần sinh không còn là vấn đề lớn đối với họ. Bên
cạnh đó, tình trạng không có con tử vong có lẽ còn nhờ vào việc có 16,7% trong số họ
được chăm sóc trước khi sinh và 10,3% được trợ giúp khi sinh bởi những cán bộ y tế có
chuyên môn, trong khi con số này ở nhóm người mẹ có con tử vong lần lượt là 10% và
4,7% (Hình 5-1 và Phụ lục 9).
Tương tự, nghiên cứu tiếp tục tổng hợp những nhóm người mẹ có trình độ giáo dục cao
hơn là tiểu học, THCS và PTTH trở lên (Phụ lục 9), và nhận thấy một đặc trưng chung của
nhóm người mẹ có con còn sống là sinh con ít hơn, được chăm sóc trước khi sinh và trợ
giúp khi sinh bởi những cán bộ y tế chuyên môn nhiều hơn. Sau khi sinh, tỷ lệ người mẹ
được bổ sung vitamin A ở nhóm người mẹ có con sống cũng cao hơn. Trong khi đó, nhóm
người mẹ có ít nhất một con tử vong lại là nhóm có tuổi của lần sinh đầu tiên dưới 20 tuổi
cao hơn, cũng như sinh con nhiều hơn. Dữ liệu còn cho thấy khi người mẹ có trình độ
THCS thì con của họ có khả năng sống sót cao nhất với tỷ lệ 39,2%. Sau khi tổng hợp dữ
liệu của hai nhóm người mẹ theo trình độ giáo dục ở Phụ lục 9, nghiên cứu rút ra một số
nhận định như sau:
Thứ nhất, dù cả hai nhóm người mẹ có cùng trình độ giáo dục, và có một vài điều kiện
sống cơ bản tương đương như tiếp cận nguồn nước an toàn, thói quen xử lý chất thải, thì
con của những người mẹ thuộc nhóm người mẹ có ít nhất một con tử vong vẫn gặp nguy
cơ tử vong. Điều này có thể do nhóm này có tỷ lệ người mẹ sinh con nhiều hơn, tuổi của
lần sinh đầu tiên nhỏ hơn 20 tuổi hay ít được chăm sóc hay hỗ trợ khi sinh bởi các cán bộ y
tế chuyên môn.
Thứ hai, những người mẹ không đi học hoặc chỉ học đến tiểu học tập trung chủ yếu ở
khu vực nông thôn của miền núi phía Bắc (bao gồm Đông Bắc và Tây Bắc), Tây Nguyên
và đồng bằng sông Cửu Long. Ngược lại, những người mẹ có điều kiện học ở những cấp
học cao hơn chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ hay
Đông Nam bộ.
Cuối cùng, khi phụ nữ sống ở nông thôn, thì với quan điểm “nhà phải có con trai”,
người phụ nữ vẫn phải tiếp tục sinh cho đến khi nào có được con trai hoặc phải phá thai
nếu đang mang thai là con gái. Chính vì vậy, ở nông thôn, tỷ lệ trẻ gái cao hơn trẻ trai và
21
cả tỷ lệ tử vong ở trẻ gái cũng cao hơn (Phụ lục 6). Minh chứng cho lập luận này là tỷ lệ
nạo/phá thai của phụ nữ 15-49 tuổi hiện đang có chồng ở nông thôn là 0,33%, cao hơn so
với khu vực thành thị (0,26%). Tây Bắc có tỷ lệ nạo/phá thai cao nhất (0,8%) và thấp nhất
là Duyên hải Nam Trung bộ với 0,1% (Phụ lục 10).
Sau khi phân tích dữ liệu, nghiên cứu tiếp tục thực hiện các kiểm định về mối tương
quan giữa các biến độc lập để kiểm tra tình trạng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập. Đây
là bước cần thiết để loại trừ trường hợp thay đổi dấu kỳ vọng của các biến độc lập do đa
cộng tuyến. Kết quả kiểm định về mối tương quan giữa các biến độc lập với nhau (Phụ lục
13) cho thấy hầu như không có mối tương quan đáng kể giữa chúng.
Riêng kết quả kiểm định về mối liên hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc cho
thấy chúng đều có quan hệ với nhau dựa trên hệ số Pearson Chi-Square (chi tiết tại các Phụ
lục 15 – 22) và đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%.
5.2. Kết quả hồi quy
Trên đây, nghiên cứu đã thực hiện phân tích thống kê mô tả đặc điểm của dữ liệu điều
tra và có một số nhận định về vai trò của từng nhóm nhân tố đối với tỷ lệ tử vong trẻ em.
Song để khẳng định hay bác bỏ các nhận định trên, bước tiếp theo là thực hiện hồi quy
bằng mô hình hồi quy logistic để tìm ra ý nghĩa thống kê của những nhân tố có ảnh hưởng
đến tỷ lệ tử vong trẻ.
22
Bảng 5.1 Mô hình hồi quy Logistic
(Nguồn: Tính toán của tác giả, n = 8.070, MICS 2006)
Biến phụ thuộc Hệ số
Robust
Std.Err
Exp
(beta)
P-value
Tỷ lệ tử vong trẻ em
Biến độc lập
Nhóm nhân tố người mẹ
Mẹ hoàn thành tiểu học -0,4096 ** 0,1733 0,6639 0,018
Mẹ hoàn thành THCS -0,7026 **** 0,1888 0,4953 0,000
Mẹ hoàn thành PTTH trở lên -0,8046 *** 0,2696 0,4472 0,003
Tuổi của lần sinh đầu tiên -0,0029 0,0204 0,9971 0,887
Khoảng cách bình quân giữa các lần sinh -0,1634 **** 0,0424 0,8493 0,000
Bổ sung vitamin A cho mẹ -0,7029 ** 0,3162 0,4952 0,026
Nuôi con bằng sữa mẹ -0,1444 0,1478 0,8655 0,329
Nhóm nhân tố hộ gia đình
Hộ ít nghèo hơn -0,2771 0,1943 0,7580 0,154
Hộ trung bình 0,2180 0,1609 1,2436 0,175
Hộ khá -0,5331 ** 0,2131 0,5868 0,012
Hộ giàu -0,6358 * 0,3626 0,5295 0,079
Tổng số con sinh ra 0,7586 **** 0,0328 2,1353 0,000
Nước sinh hoạt an toàn -0,6536 **** 0,1434 0,5202 0,000
Thói quen xử lý chất thải an toàn -0,2108 0,1543 0,8099 0,172
Nhóm nhân tố vùng miền
Đồng bằng Bắc bộ 1,9917 **** 0,2701 2,6957 0,000
Miền núi phía Bắc -0,1732 0,2737 0,8409 0,527
Bắc Trung bộ 0,2211 0,2844 1,2475 0,437
Tây Nguyên -0,2190 0,2703 0,8033 0,418
Đông Nam bộ 1,0110 **** 0,2797 2,7485 0,000
Đồng bằng sông Cửu Long 0,3416 0,2734 1,4073 0,212
Nhóm nhân tố dịch vụ hỗ trợ y tế
Được cán bộ y tế chuyên môn chăm sóc -0,8963 **** 0,1850 0,4081 0,000
Trợ giúp khi sinh con 0,2799 0,1853 1,3230 0,131
Constant -3,6390 0,5661 0,0263 0,000
Số quan sát 8.070
Wald Chi Square (22) 1.005,84
Prob > F 0,000
Pseudo R-Squared 0,2684
Chú thích: * có ý nghĩa ở mức 0.1, ** có ý nghĩa ở mức 0.05, *** có ý nghĩa ở mức 0.01, **** có ý nghĩa ở mức 0.001
Đối với nhân tố giáo dục người mẹ: biến cơ sở là mẹ không đi học
Đối với nhân tố hộ gia đinh: biến cơ sở là hộ nghèo nhất
Đối với nhân tố vùng miền: biến cơ sở là duyên hải Nam Trung bộ
23
Bảng 5.2 Bảng ƣớc lƣợng tác động biên khi các biến độc lập thay đổi 1 đơn vị
(Nguồn: Tính toán của tác giả, n = 8.070, MICS 2006)
5.3. Phân tích kết quả
Bảng 5.1 cho thấy toàn bộ kết quả của các hệ số ước lượng của mô hình. Đối với nhân
tố trình độ giáo dục của người mẹ, kết quả phân tích tác động biên cho thấy, trong điều
kiện các yếu tố khác không đổi, khi người mẹ hoàn thành tiểu học thì tỷ lệ tử vong trẻ sẽ
giảm xuống 1,62%, với tỷ lệ tử vong ban đầu được giả định là 5%. Tỷ lệ này sẽ giảm
2,46% khi người mẹ học lên THCS và con số giảm sẽ cao hơn (2,7%) khi người mẹ học
PTTH trở lên (Bảng 5.2). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Klaauw và Wang
(2004); Wagstaff và Nguyen (2002) [dẫn trong Pham Le Thong và cộng sự (2009)];
Strauss và Thomas (1995) [dẫn trong Klaauw và Wang (2004)]; Okpala và cộng sự
(1996/97) [dẫn trong Imam và Koch (2004)], và tác động của yếu tố này cho thấy tầm quan
trọng của trình độ giáo dục của người mẹ đối với sự sống của trẻ.
Tuổi của lần sinh đầu tiên lại không có ý nghĩa thống kê trong khi lần sinh đầu tiên
thường rủi ro hơn nhiều so với những lần sinh tiếp theo. Điều này không phù hợp với
nghiên cứu của Nath và cộng sự (1994) và Trussell và Hammerslough (1983) [dẫn trong
Pham Le Thong và cộng sự (2009)]. Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình phát triển kinh tế ở
nông thôn đã tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp hơn cho người dân nơi đây. Nhờ vậy,
5% 10% 15% 20% 25% 30%
Nhóm nhân tố người mẹ
Mẹ hoàn thành tiểu học -1,62% -3,13% -4,51% -5,76% -6,88% -7,85%
Mẹ hoàn thành THCS -2,46% -4,78% -6,96% -8,98% -10,83% -12,49%
Mẹ hoàn thành PTTH trở lên -2,70% -5,27% -7,68% -9,94% -12,03% -13,92%
Khoảng cách bình quân giữa các lần sinh -0,72% -1,38% -1,97% -2,49% -2,94% -3,31%
Bổ sung vitamin A cho mẹ sau khi sinh -2,46% -4,79% -6,96% -8,98% -10,83% -12,49%
Nhóm nhân tố hộ gia đình
Hộ khá -2,00% -3,88% -5,62% -7,21% -8,64% -9,91%
Hộ giàu -2,29% -4,44% -6,45% -8,31% -10,00% -11,50%
Tổng số con sinh ra 5,10% 9,18% 12,37% 14,80% 16,58% 17,78%
Tiếp cận nguồn nước an toàn -2,34% -4,54% -6,59% -8,49% -10,22% -11,77%
Nhóm nhân tố vùng miền
Đồng bằng Bắc bộ 7,43% 13,05% 17,24% 20,26% 22,33% 23,60%
Đông Nam bộ 7,64% 13,39% 17,66% 20,73% 22,81% 24,08%
Nhóm nhân tố dịch vụ hỗ trợ y tế
Được cán bộ y tế chuyên môn chăm sóc -2,90% -5,66% -8,28% -10,74% -13,03% -15,11%
P0
ΔP = P1 – P0
24
phụ nữ ở nông thôn có nhiều cơ hội được tham gia lao động ở bên ngoài hơn và dần trở
nên bình đẳng hơn trong việc ra quyết định trong hộ gia đình, đặc biệt là thời gian sinh nở
[Hardee và cộng sự (2004), dẫn trong Hong (2006)]. Đây có thể là nguyên nhân làm cho
tuổi của lần sinh đầu tiên không còn tác động đến tỷ lệ tử vong trẻ và số phụ nữ sinh con ở
tuổi trên 30 ngày càng tăng.
Đúng với kỳ vọng, khoảng cách giữa các lần sinh có mối quan hệ nghịch biến với tỷ lệ
tử vong trẻ. Theo đó, khi các yếu tố khác không đổi, tỷ lệ tử vong trẻ sẽ giảm xuống 0,4%
khi khoảng cách giữa các lần sinh tăng thêm 1 năm, với tỷ lệ giả định ban đầu là 5% (Bảng
5.2). Điều này phù hợp với các nghiên cứu của Lay và Robilliard (2009); Bhalotra và van
Soest (2008) [dẫn trong Pham Le Thong và cộng sự (2009)]. Thêm vào đó, những người
phụ nữ sống ở nông thôn đa phần làm trong lĩnh vực nông nghiệp hoặc phi nông nghiệp
theo hình thức cá thể nên hầu như sẽ không được hưởng các tiêu chuẩn về bảo hiểm xã hội
khi sinh
8
, vì vậy họ sẽ không có động cơ để giảm sinh như phụ nữ ở thành thị tham gia vào
thị trường lao động chính quy. Như vậy, khoảng cách giữa các lần sinh cũng có vai trò nhất
định trong việc giảm tỷ lệ tử vong trẻ đối với những người mẹ ở nông thôn Việt Nam.
Việc người mẹ được bổ sung vitamin A sau khi sinh sẽ giúp giảm tỷ lệ tử vong trẻ
xuống 2,46%, với tỷ lệ tử vong giả định ban đầu là 5% (Bảng 5.2), khi các yếu tố khác
không đổi. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của World Bank (2007) và cũng khá phù
hợp với thực tế ở Việt Nam. Việc cung cấp vitamin A cho bà mẹ mới sinh đang cho con bú
có thể là nhân tố gián tiếp bảo vệ con của họ trong những năm tháng đầu đời. Điều này cho
thấy những yếu tố liên quan đến sức khỏe người mẹ cũng giúp cho triển vọng sống của trẻ.
Nuôi con bằng sữa mẹ là nhân tố được kỳ vọng nghịch biến với tỷ lệ tử vong trẻ, song
kết quả hồi quy lại cho thấy mối quan hệ này không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này
không phù hợp với nghiên cứu của The Lancet (2003) [dẫn trong World Bank (2007)] và
Huffman và Lamphere (1984). Tuy nhiên, khi người mẹ làm việc bên ngoài theo mùa vụ,
đặc biệt trong hoạt động nông nghiệp, thì sẽ ít có cơ hội nuôi con bằng sữa mẹ. Chen và
cộng sự (1979) [dẫn trong Huffman và Lamphere (1984)] trong nghiên cứu của mình ở
8
Theo PGS, TS Hoàng Bá Thịnh: “Khi sinh nở, phụ nữ nông thôn không được hưởng các chế độ thai sản
như phụ nữ thuộc các lĩnh vực làm công ăn lương khác, họ cũng không được hưởng các tiêu chuẩn về bảo
hiểm xã hội, y tế trong thời gian mang thai, sinh nở” - (Theo Tạp chí Cộng sản ngày 20/10/2010)- đăng bởi
Vietnam Social Network ngày 22/10/2010 - Truy cap ngay 05/04/2011 tại
25
Bangladesh thấy rằng tần suất cho con bú của người mẹ sẽ giảm xuống trong mùa thu
hoạch khi họ phải gặt lúa, dù cho họ làm trên chính mảnh ruộng của mình. Một nghiên cứu
khác của Lunn và cộng sự (1981) [dẫn trong Huffman và Lamphere (1984)] ở Gambia
cũng cho kết quả tương tự. Phụ nữ ở nông thôn Việt Nam cũng không ngoại lệ. Vì vậy, để
đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ, người mẹ phải sử dụng nguồn dinh dưỡng thay thế là sữa
ngoài hoặc thức ăn bổ sung và điều này có lẽ làm cho việc nuôi con bằng sữa mẹ không
còn ảnh hưởng nhiều đến tỷ lệ tử vong trẻ.
Hộ gia đình có điều kiện sống tốt hơn thì trẻ được sinh ra trong hộ ấy có triển vọng
sống cao hơn. Đặc biệt, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi người mẹ sống
trong hộ gia đình khá giả thì tử vong trẻ giảm 2%, với tỷ lệ tử vong giả định ban đầu là
5%. Khi sống trong hộ gia đình giàu thì tỷ lệ tử vong trẻ sẽ giảm 2,29% (Bảng 5.2). Điều
này phù hợp với các nghiên cứu của World Bank (2007) và Lay và Robilliard (2009) với
các lập luận người mẹ trong hộ gia đình khá giả thường có điều kiện chăm sóc, kiểm tra
sức khỏe trước khi sinh, và được trợ giúp khi sinh tại bệnh viện nhà nước hoặc tư nhân có
cán bộ y tế chuyên môn.
Như đã đề cập, những người mẹ sinh quá nhiều con sẽ không có điều kiện chăm sóc
các con của họ tốt hơn. Với kỳ vọng tổng số con sinh ra đồng biến với tỷ lệ tử vong trẻ em,
kết quả cho thấy tử vong trẻ em sẽ tăng lên đến 5,1% khi người mẹ sinh thêm 1 trẻ, với tỷ
lệ tử vong giả định ban đầu là 5% (Bảng 5.2) khi các yếu tố khác không đổi. Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Klaauw và Wang (2004). Đây là một con số khá cao và có lẽ
là nguyên nhân những người mẹ có nhiều con hơn thường phải đối mặt với tình trạng tử
vong trẻ nhiều hơn những người mẹ ít con.
Với kỳ vọng nước sinh hoạt an toàn có tác động tích cực giúp giảm tỷ lệ tử vong trẻ,
kết quả hồi quy ủng hộ cho quan điểm này. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi
hộ gia đình được tiếp cận với nguồn nước an toàn thì tử vong trẻ giảm xuống 2,34%, với tỷ
lệ ban đầu là 5% (Bảng 5.2). Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của Jalan và
Ravallion (2003) [dẫn trong Klaauw và Wang (2004)]; Lavy và cộng sự (1996) và
Charmarbagwala và cộng sự (2005) [dẫn trong Lay và Robilliard (2009)] cho rằng nhân tố
không kém phần quan trọng quyết định sức khỏe trẻ em là sự sẵn có của nguồn nước an
toàn.
26
Miền núi, cụ thể là các vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên là các vùng khá đa dạng
về các dân tộc và các nhóm bản địa cư trú với dân tộc thiểu số chiếm 75% tổng số cả nước
(Phụ lục 11). Ngoài ra, CSHT giao thông không thuận tiện cũng là một trong những nhân
tố gây khó khăn trong việc tiếp cận các CSYT trong các trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên,
kết quả hồi quy lại cho thấy những đứa trẻ sống ở các khu vực này lại có triển vọng sống
đáng kể hơn các khu vực còn lại. Cụ thể, những người mẹ sống ở khu vực nông thôn đồng
bằng Bắc bộ thì tỷ lệ tử vong trẻ lại tăng lên đến 7,43%, với tỷ lệ tử vong giả định ban đầu
là 5% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi (Bảng 5.2). Tương tự, con số này là tăng
7,64% khi người mẹ sống ở vùng Đông Nam bộ. Kết quả này ngược với nghiên cứu của
World Bank (2007) cho rằng những bà mẹ ở nông thôn, đặc biệt là ở miền núi khi sinh con
thường gặp rủi ro. Điều này là do nghiên cứu không thực hiện được phân tích ảnh hưởng
bất biến để kiểm soát và tách ảnh hưởng của các đặc điểm riêng biệt từ các vùng địa lý ra
khỏi các biến giải thích, từ đó ước lượng những ảnh hưởng thực của biến giải thích lên
biến phụ thuộc. Nguyên nhân do dữ liệu thực hiện không thỏa những giả định của kiểm
định Hausman.
Người mẹ mang thai được chăm sóc bởi cán bộ y tế chuyên môn trước khi sinh được
kỳ vọng có tác động tích cực làm giảm tỷ lệ tử vong trẻ. Kết quả hồi quy cho thấy yếu tố
này có ý nghĩa thống kê. Theo đó, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi người mẹ
được chăm sóc, tư vấn trước khi sinh sẽ giúp giảm 2,9% số trẻ tử vong, với giả định tỷ lệ
tử vong ban đầu là 5% (Bảng 5.2). Một khi người mẹ được khám và tư vấn sức khỏe bởi
những cán bộ y tế có trình độ sẽ hạn chế được rủi ro trong thời gian mang thai cũng như
quyết định sự sống của trẻ. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Lay và Robilliard
(2009).
5.4. Dự báo tỷ lệ tử vong trẻ em
Kết quả hồi quy cho thấy các nhóm nhân tố đều có ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong trẻ dù
mức độ của mối nhân tố là không như nhau. Các nhân tố nổi bật nhất thuộc nhóm người
mẹ là trình độ giáo dục của mẹ; thuộc nhóm hộ gia đình có các nhân tố như số con do
người mẹ sinh ra, tiếp cận nguồn nước an toàn; thuộc nhóm vùng miền có vùng Bắc bộ và
Đông Nam bộ; và cuối cùng là nhân tố chăm sóc trước khi sinh cho người mẹ của nhóm
dịch vụ y tế. Nghiên cứu sẽ dự báo tỷ lệ tử vong trẻ theo bốn tình huống dựa vào lệnh
27
prvalue
9
để xác định những nhân tố nổi bật và có những kiến nghị cho các can thiệp chính
sách hiệu quả.
Đầu tiên, nghiên cứu sẽ phân tích tác động của nhân tố trình độ giáo dục của người mẹ
và số con sinh ra đến tỷ lệ tử vong trẻ. Kết quả dự báo cho thấy khi người mẹ hoàn thành
các cấp học cao hơn thì tỷ lệ tử vong trẻ có xu hướng giảm. Cụ thể, khi người mẹ không đi
học thì con của họ gặp rủi ro tử vong là 1,7%, tỷ lệ này giảm dần và chỉ còn 0,7% khi
người mẹ hoàn thành bậc PTTH trở lên (đối với trường hợp có 1 con). Khi người mẹ sinh
con càng nhiều thì tử vong trẻ sẽ càng cao, và mức độ rủi ro càng tăng lên khi người mẹ
sinh thêm 1 đứa con nữa (Bảng 5.3). Điều này phù hợp với thực tế ở nông thôn là đa phần
người mẹ làm trong lĩnh vực nông nghiệp hoặc tham gia thị trường lao động không chính
thức, nên hầu như không chịu ràng buộc bởi quy định chỉ có từ 1 đến 2 con như những
người mẹ ở thành thị làm công ăn lương. Việc tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình đến từng
thôn bản vẫn chưa được thực hiện tốt, bằng chứng là số người mẹ sinh trên 5 con ở nông
thôn theo điều tra biến động dân số 2005 chiếm đến 5,57% tổng số con sinh ra, trong khi
con số ở thành thị là 1,68% (Phụ lục 8). Như vậy, ở nông thôn thì phần đông các hộ gia
đình đều có đông con, đặc biệt người mẹ sống trong những hộ nghèo nhất phải đối mặt với
tỷ lệ tử vong trẻ cao nhất là 9,7%, trong khi con số này trong hộ giàu nhất chỉ là 3% (Phụ
lục 18).
9
Prvalue là một trong các lệnh được sử dụng trong chương trình Stata, được sử dụng sau khi hồi quy để dự
báo mức độ ảnh hưởng của các nhân tố quan trọng đến biến phụ thuộc. Nghiên cứu sẽ dự báo theo bốn tình
huống sau: (i) tỷ lệ tử vong trẻ theo trình độ giáo dục của mẹ; (ii) tỷ lệ tử vong trẻ của những người mẹ
không đi học theo vùng; (iii) tỷ lệ tử vong trẻ ở những nhóm người mẹ không đi học thuộc các hộ gia đình có
mức sống khác nhau ở đồng bằng Bắc bộ được và không được tiếp cận nước sạch; và (iv) tỷ lệ tử vong trẻ ở
những nhóm người mẹ không đi học ở các hộ gia đình có mức sống khác nhau sống ở đồng bằng Bắc bộ
được và không được chăm sóc trước khi sinh. Ở mỗi tình huống, giá trị của các biến độc lập sẽ được xác định
nếu được đề cập trong tình huống, các biến còn lại sẽ được xác định ở giá trị trung bình.
28
Bảng 5.3 Dự báo tỷ lệ tử vong trẻ theo trình độ giáo dục của mẹ
(Nguồn: Tính toán của tác giả, n = 8.070, MICS 2006)
Hình 5-2 Tỷ lệ tử vong trẻ em theo trình độ giáo dục của mẹ và số con do mẹ sinh ra
(Nguồn: Tính toán của tác giả, n=8.070, MICS 2006)
Tương tự phần thống kê mô tả, nghiên cứu thực hiện phân tích một trường hợp điển
hình cho nhóm người mẹ không đi học để thấy rõ tác động của mỗi nhóm nhân tố. Kết quả
hồi quy cho thấy khi người mẹ sống ở khu vực nông thôn của đồng bằng Bắc bộ và Đông
Nam bộ thì tỷ lệ trẻ tử vong cao hơn so với vùng duyên hải Nam Trung bộ. Kết quả dự báo
cho thấy những người mẹ ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ khi có 1 con sẽ có tỷ lệ tử vong ở
mức 8,9%, nhưng khi có từ 6 con trở lên thì tỷ lệ sẽ tăng lên 81,2%, con số này giảm lần
lượt còn 4,1% và 65,3% ở vùng Đông Nam bộ, và chỉ còn 1,2% và 35,1% khi họ sống ở
vùng duyên hải Nam Trung bộ (Bảng 5.4).
Số con sinh ra Không đi học Tiểu học THCS PTTH trở lên
1 1,70% 1,10% 0,80% 0,70%
2 3,50% 2,30% 1,70% 1,60%
3 7,10% 4,80% 3,70% 3,30%
4 14,00% 9,80% 7,50% 6,80%
5 25,80% 18,80% 14,70% 13,50%
>=6 42,70% 33,10% 26,90% 25,00%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
1 2 3 4 5 >=6
T
ỷ
lệ
tử
v
o
n
g
t
rẻ
d
ự
b
á
o
Số con sinh ra
Tỷ lệ tử vong trẻ em theo trình độ giáo dục của mẹ
và số con do mẹ sinh ra
Không đi học Tiểu học THCS PTTH trở lên
29
Bảng 5.4 Dự báo tỷ lệ tử vong trẻ của những ngƣời mẹ không đi học theo vùng
(Nguồn: Tính toán của tác giả, n = 8.070, MICS 2006)
Hình 5-3 Tỷ lệ tử vong trẻ em khi ngƣời mẹ không đi học theo các vùng đồng bằng
(Nguồn: Tính toán của tác giả, n=8.070, MICS 2006)
Nghiên cứu sẽ tiếp tục phân tích nhóm những người mẹ sống trong các hộ gia đình có
mức sống khác nhau, nhưng một nhóm được tiếp cận nguồn nước và nhóm kia không được
tiếp cận nguồn nước an toàn. Theo kết quả mô hình logistic, khi người mẹ ở nông thôn
đồng bằng Bắc bộ và Đông Nam bộ sẽ có tỷ lệ tử vong trẻ cao nên nghiên cứu sẽ lựa chọn
một trong hai vùng để phân tích, ở đây sẽ là vùng đồng bằng Bắc bộ.
Số con sinh ra ĐB Bắc bộ Đông Nam bộ Duyên hải Nam Trung bộ
1 8,90% 4,10% 1,20%
2 17,20% 8,30% 2,50%
3 30,70% 16,20% 5,30%
4 48,60% 29,20% 10,60%
5 66,90% 46,80% 20,20%
>=6 81,20% 65,30% 35,10%
0%
20%
40%
60%
80%
1 2 3 4 5 >=6
T
ỷ
lệ
tử
v
o
n
g
t
rẻ
d
ự
b
á
o
Số con sinh ra
Tỷ lệ tử vong trẻ khi ngƣời mẹ không đi học
ở các vùng đồng bằng
ĐBBB ĐNB DHNTB
30
Bảng 5.5 Dự báo tỷ lệ tử vong trẻ theo nhóm ngƣời mẹ không đi học ở các hộ gia đình
có mức sống khác nhau sống ở đồng bằng Bắc bộ đƣợc và không đƣợc tiếp cận nƣớc
sạch
(Nguồn: Tính toán của tác giả, n=8.070, MICS 2006)
Hình 5-4 Mức độ cải thiện tỷ lệ tử vong trẻ em khi ngƣời mẹ không đi học đƣợc tiếp
cận nƣớc sạch ở đồng bằng Bắc bộ
(Nguồn: Tính toán của tác giả, n=8.070, MICS 2006)
Tỷ lệ tử vong trẻ được cải thiện đáng kể khi các hộ gia đình được tiếp cận với nước
sạch. Ở những nhóm người mẹ không đến trường, khi họ có 1 con và sống trong hộ nghèo,
tiếp cận nước sạch có thể giú
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_thi_van_anh_final_9697_1849820.pdf