MỤC LỤC
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước 3
1.1. Tổng quan về hệ thống Kho bạc Nhà nước 3
1.1.1. Vị trí và chức năng của Kho bạc Nhà nước 3
1.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Kho bạc Nhà nước 3
1.1.3. Cơ cấu tổ chức 7
1.2. Hoạt động huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước 8
1.2.1. Các công cụ huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước 8
1.2.2. Các phương thức huy động vốn 12
1.2.3. Lãi suất của trái phiếu Chính phủ 16
1.2.4. Sự cần thiết của công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước. 17
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước. 20
1.3.1. Tốc độ phát triển kinh tế 20
1.3.2. Lạm phát và lãi suất tương lai dự tính 20
1.3.2. Khả năng sinh lời từ việc mua bán, chuyển nhượng trái phiếu Chính phủ 20
1.3.3. Tính thanh khoản của trái phiếu Chính phủ 21
1.3.4. Lợi tức và mức độ rủi ro của các công cụ đầu tư khác 21
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước 22
2.1 Quá trình phát triển của thị trường trái phiếu 22
2.2.1. Giai đoạn 1991 - 1994 22
2.1.2 Giai đoạn 1995 - 1999 23
2.1.3. Giai đoạn 2000 đến nay 23
2.2 Thực trạng công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước thời gian vừa qua 24
2.2.1 Huy động vốn thông qua phát hành tín phiếu Kho bạc 24
2.2.2 Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Kho bạc 28
2.2.3. Phát hành trái phiếu công trình Trung ương 34
2.2.4. Phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ 36
2.2.5. Phát hành công trái xây dựng Tổ quốc 38
2.3. Đánh giá công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước thời gian qua 39
2.3.1. Những kết quả đạt được trong công tác huy động vốn 39
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại trong công tác huy động vốn 42
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước 45
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước 49
3.1. Định hướng hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước trong thời gian tới 49
3.1.1 Gắn chặt công tác huy động vốn với việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động 49
3.1.2. Huy động vốn phải gắn với hoạt động của thị trường tài chính 50
3.1.3. Đẩy mạnh phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước, coi đây là công cụ huy động vốn quan trọng hiện nay. 51
3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước. 51
3.2.1. Các giải pháp về cơ chế chính sách huy đông vốn 51
3.2.2. Các giải pháp về kĩ thuật nghiệp vụ huy động vốn 56
3.2.3. Các giải pháp hỗ trợ hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước 59
3.3. Kiến nghị 63
3.3.1. Đối với Quốc hội và Chính phủ 63
3.3.2. Đối với Bộ Tài chính 63
67 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2087 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uồn số liệu: Kho bạc Nhà nước
Nhìn vào bảng số liệu trên có thể thấy rằng, qua gần 15 năm hoạt động, công tác đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN đã dần đi vào ổn định. Quy mô và tần suất phát hành ngày càng tăng. Năm 1995 chỉ có 4 phiên đấu thầu với khối lượng trúng thầu là 243,6 tỷ đồng. Từ năm 1997 số phiên đấu thầu tăng nhanh chóng, đặc biệt là năm 2005 với 60 phiên và khối lượng trúng thầu là 17.886 tỷ đồng. Khối lượng huy động tăng đều năm sau cao hơn năm trước và trở thành nguốn vốn chính để bù đắp thâm hụt ngân sách. Năm 2007 lượng vốn huy động được chỉ là 9.791 tỷ đồng. Sự sụt giảm này có nguyên nhân vì từ năm 2007, NHNN phát hành trái phiếu ngân hàng dưới 1 năm vì thế tín phiếu Kho bạc không còn hấp dẫn với các nhà đầu tư. Nhưng năm 2008 lượng vốn huy động được đã tăng trở lại với mức 20.830 tỷ đồng. Lãi suất khá ổn định, có xu hướng giảm dần qua từng năm. Lãi suất giảm từ 17,5% năm 1995 xuống còn 5.4% năm 2001, có tăng nhẹ trong các năm tiếp theo và giảm xuống mức 3,76% năm 2007. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã khiến cho tình hình huy động vốn qua phát hành tín phiếu Kho bạc gặp nhiều khó khăn. Trong 7 tháng đầu năm chỉ có 2 phiên được tổ chức nhưng không thành công. Đến tháng 8/2008 hoạt động này mới được khôi phục lại, lãi suất được đẩy lên mức cao 9,992% và kết quả huy động cả năm đạt 20.830 tỷ đồng.
Không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu bù đắp bội chi NSNN, công tác đấu thầu tín phiếu Kho bạc còn có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện chính sách tiền tệ. Với chính sách tiền tệ thắt chặt trong giai đoạn này, việc huy động vốn thông qua phát hành tín phiếu Kho bạc đã làm giảm bớt một lượng lớn tiền mặt trong lưu thông, góp phần kiềm chế lạm phát và ổn định vĩ mô nền kinh tế.
Đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN đã tạo ra một bước cạnh tranh mới trong việc hình thành lãi suất tín phiếu theo cơ chế thị trường. Việc NHNN giữ sổ sách và thanh toán tín phiếu đã rút ngắn thời gian thanh toán, tạo điều kiện cho việc chuyển giao tín phiếu trên thị trường thứ cấp.
Với thực trạng đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN như trên, có thể rút ra một vài nhận xét như sau:
Thứ nhất, các thành viên tham gia đấu thầu chủ yếu là các NHTM nhà nước, là các tổ chức có vốn khả dụng cao. Thời gian đầu mới đi vào hoạt động, số lượng thành viên tham gia đấu thầu còn ít, tăng dần qua các năm. Tuy nhiên tính cạnh tranh vẫn không cao.
Thứ hai, thực chất của việc đấu thầu tín phiếu là đấu thầu khối lượng tín phiếu với khung lãi suất do Bộ Tài chính định trước. Mặc dù Bộ Tài chính đã có những điều chỉnh cho phù hợp với lãi suất chung trên thị trường nhưng rõ ràng nó ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác định lãi suất.
Thứ ba, thị trường thứ cấp tín phiếu Kho bạc đã được mở ra với việc triển khai nghiệp vụ thị trường mở, nhưng các thành viên tham gia chưa nhiều và vẫn chỉ tập trung vào các NHTM. Do đó, công cụ này vẫn chưa phát huy hết vai trò trong việc thực thi chính sách tiền tệ.
Có thể nói răng đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN thực sự đã trở thành một kênh huy động vốn có hiệu quả của Nhà nước nhằm mục tiêu bù đắp thâm hụt NSNN với chi phí thấp. Hơn thế nữa, công tác này còn có một vai trò quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của Nhà nước, ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát.
2.2.2 Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Kho bạc
2.2.2.1 Bán lẻ trái phiếu Kho bạc qua hệ thống Kho bạc Nhà nước
Trái phiếu Kho bạc được phát hành với mục đích huy động vốn vừa để bù đắp thiếu hụt NSNN theo dự toán NSNN hàng năm đã được Quốc hội quy định, đồng thời nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển của nền kinh tế.
Từ tháng 6/1994 đến tháng 6/1995, KBNN phát hành thí điểm trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 3 năm, lãi suất được điều chỉnh và công bố hàng năm là 15%/năm, 21%/năm và 14%/năm. Tổng lượng vốn huy động được trong đợt phát hành này là 880 tỷ đồng. Kết quả huy động vốn không cao là do cùng thời điểm này, kỳ phiếu của các Ngân hàng thương mại ngắn hạn có lãi suất bình quân cao hơn, từ 21 – 22%/năm. Hơn nữa, người dân vẫn chưa quen với hình thức đầu tư vào trái phiếu trung hạn và lãi suất chưa thực sự hấp dẫn.
Để đảm bảo nhu cầu vốn cho cân đối NSNN theo chỉ tiêu được Quốc hội giao nên từ tháng 4/1995 đến tháng 10/1999, KBNN đã phát hành trái phiếu có kỳ hạn 1 năm, lãi suất 21%/năm. Đây là loại trái phiếu vô danh, in sẵn mệnh giá, lãi suất hấp dẫn, được tự do chuyển nhượng, cầm cố nên đợt phát hành này đã thu hút được nhiều nhà đầu tư. Trong vòng 6 tháng, Kho bạc Nhà nước đã huy động được 7.361 tỷ đồng. Cũng trong giai đoạn này, từ 1/3/1996 đến 15/4/1996, KBNN đã phát hành trái phiếu có ghi tên, không in sẵn mệnh giá, kỳ hạn dưới 1 năm, lãi suất 16%/năm và kết quả huy động được 745 tỷ đồng. Tuy nhiên có thể thấy rằng, loại trái phiếu này có kỳ hạn ngắn (1 năm) nên nếu huy động vốn cho đầu tư phát triển thị kỳ hạn này không phù hợp, dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong việc sử dụng vốn.
Đến tháng 9/1996, loại trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 2 năm lần đầu tiên được phát hành, có ghi tên và không in trước mệnh giá. Loại trái phiếu này được bán cho các đối tượng là người Việt Nam và người nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam. Chỉ trong vòng 3 tháng đã huy động được 1.259 tỷ đồng. Đến cuối năm 2004, số dư nợ gốc trái phiếu bán lẻ qua hệ thống KBNN loại 2 năm là trên 9.694 tỷ đồng.
Năm 2001, thời điểm thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời, KBNN đã cung cấp hàng hoá cho thị trường này bằng việc phát hành thí điểm trái phiếu Chính phủ theo hình thức chiết khấu tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trái phiếu chiết khấu được phát hành vào 15/6/2001, kỳ hạn 5 năm, lãi suất 7,2%/năm. Giá bán trái phiếu sẽ được chiết khấu phần lãi tương ứng với thời gian tính từ ngày phát hành đến ngày mua trái phiếu, bảo đảm cho các trái phiếu phát hành trong cùng một đợt sẽ có cùng ngày đáo hạn. Trái phiếu không ghi tên, in trước mệnh giá, được thanh toán bằng đồng Việt Nam, tiền lãi thanh toán định kỳ mỗi năm một lần, được niêm yết và giao dịch tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Trong đợt phát hành này, lượng vốn huy động được chỉ là 48,6 tỷ đồng. Nguyên nhân là do đây là lần đầu tiên trái phiếu Chính phủ theo hình thức chiết khấu được phát hành, đồng thời lãi suất 7,2%/ năm cho kỳ hạn dài 5 năm không hấp dẫn được nhà đầu tư.
Trái phiếu Kho bạc được phát hành với các loại kỳ hạn 1 năm, 2 năm, 3 năm và 5 năm đạt được kết quả còn rất khiêm tốn nhưng đã đánh dấu một bước thay đổi quan trọng trong quá trình đổi mới cơ chế huy động vốn qua KBNN. Trái phiếu ngắn hạn dần được thay thế bằng trái phiếu trung và dài hạn. Các nhà đầu tư đã quen dần với hình thức đầu tư này, tạo đà cho phát hành các loại trái phiếu dài hạn hơn trong tương lai.
2.2.2.2. Trái phiếu Kho bạc đấu thầu qua Sở giao dịch chứng khoán
Phương thức đấu thầu qua Sở giao dịch chứng khoán được bắt đầu thực hiện khi có Nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/1/2000 về quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ. Quy chế mới cho phép áp dụng phương thức đấu thầu TPCP qua Sở giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành. Tính đến thời điểm ngày 31/12/2009, số lượng thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu Chính phủ là….., bao gồm các NHTM nhà nước, các NHTM cổ phần, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán.
Từ tháng 7/2000 đến 31/12/2009, KBNN đã phối hợp với Sở giao dịch chứng khoán tổ chức…. phiên đấu thầu, phương pháp đấu thầu kết hợp giữa hai hình thức cạnh tranh lãi suất và không cạnh tranh lãi suất, trong đó khối lượng không cạnh tranh tối đã là 30%. Trái phiếu Chính phủ đấu thầu qua Sở Giao dịch Chứng khoán được bán ngang mệnh giá với kỳ hạn 5 năm. 7 năm. Hình thức phát hành là ghi sổ, được niêm yết và giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán. Tổng khối lượng vốn huy động được thông qua phương thức đấu thầu TPCP qua Sở Giao dịch Chứng khoán từ tháng 7/2000 đến 31/12/2009 được phản ánh trong bảng 2.3
Bảng 2.3: Kết quả đấu thầu TPCP qua Sở Giao dịch Chứng khoán giai đoạn 2000 -2009
STT
NĂM
KHỐI LƯỢNG TRÚNG THẦU
(tỷ đồng)
LÃI SUẤT TRÚNG THẦU
(%)
LÃI SUẤT TRẦN
(%)
1
2000
600
6,5
6,5
2
2001
1.333
7,3 – 7,35
7,0 – 7,35
3
2002
231
7,4 – 8,6
7,4 – 8,6
4
2003
672
8,35 – 8,7
8,7
5
2004
1.420,7
8,35 – 8,7
8,7
6
2005
2.235
8,50 – 8,75
8,75
7
2006
7.885
8,20 – 8,75
8,75
8
2007
9.857
8,50 – 8,00
8,00
9
2008
4.292
10
2009
2.000
Tộng
30.525,7
Nguồn số liệu: Kho bạc Nhà nước
Có thể thấy rằng huy động vốn qua kênh đấu thầu TPCP tại Sở Giao dịch Chứng khoán còn chưa đạt hiệu quả, số lượng thành viên tham đấu thầu còn ít, chỉ có 3 đến 4 thành viên tham gia, khối lượng đặt thầu không đạt mức gọi thầu. Lãi suất của các thành viên tham gia đấu thầu đưa ra thường cao hơn khung lãi suất mà Bộ Tài chính đưa ra. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải phát triển thị trường thứ cấp cho hoạt động giao dịch trái phiếu. Thị trường chứng khoán trong các năm qua đã dần phát triển nhưng do những quy định khá chặt chẽ về khối lượng giao dịch, giá mua, giá bán nên việc tiền hành giao dịch TPCP vẫn gặp phải nhiều khó khăn. Các thành viên tham gia đấu thầu vẫn chưa có đầy đủ thông tin về các đợt phát hành trái phiếu nên không thể có kế hoạch trong dài hạn. Việc các thông tin chưa minh bạch đã ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược của các thành viên tham gia đấu thầu, dẫn tới sự chênh lệch lớn giữa khối lượng TPCP gọi thầu và khối lượng TPCP trúng thầu. Nếu như có những quy định và chính sách quản lý thích hợp, đồng thời thông tin được công khai minh bạch chắc chăn hiệu quả từ kênh huy động vốn này sẽ cao hơn.
2.2.2.3. Phát hành trái phiếu Kho bạc theo phương thức bảo lãnh phát hành
Nhằm tạo thêm một kênh mới để huy động vốn trung và dài hạn cho NSNN và cho đầu tư phát triển, đồng thời cung cấp hàng hóa đủ tiêu chuẩn cho Sở Giao dịch Chứng khoán, ngày 15/9/2000 Kho bạc Nhà nước lần đầu tiên tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ theo phương thức phát hành. Đối tượng tham gia bảo lãnh phát hành bao gồm các ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán. Tính đến ngày 31/12/2009 đã có……… đơn vị được công nhận là thành viên bảo lãnh phát hành TPCP, bao gồm các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm và các quỹ đầu tư.
Thông qua kênh bảo lãnh phát hành, mỗi năm KBNN đã huy động được hàng nghìn tỷ đồng. Trái phiếu Chính phủ phát hành theo phương thức bảo lãnh đã góp phần bổ sung một lượng hàng hóa lớn cho thị trường chứng khoán trong quá trình xây dựng và mở rộng quy mô. Thị trường bảo lãnh phát hành ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Đặc thù của nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là sự gặp gỡ, thỏa thuận trực tiếp giữa KBNN và các thành viên tham gia bảo lãnh. Do đó, thông qua thị trường này, KBNN có thể ước lượng được cung và cầu vốn trên thị trường với độ tin cậy cao, bám sát được diễn biến của lãi suất trên thị trường vốn, từ đó tham mưu cho lãnh đạo Bộ Tài chính trong việc lựa chọn phương án bảo lãnh phát hành, đảm bảo hài hòa lợi ích, quyền lợi giữa chủ thể phát hành và các nhà đầu tư chứng khoán.
Bảng 2.4: KẾT QUẢ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ THEO PHƯƠNG THỨC BẢO LÃNH GIAI ĐOẠN 2000 -2009
STT
NĂM
SỐ ĐỢT BL
KHỐI LƯỢNG PHÁT HÀNH
(tỷ đồng)
LÃI SUẤT
(tỷ đồng)
KỲ HẠN
(năm)
1
2000
1
500
6,6
5
2
2001
2
250
7,0 – 7,35
5
3
2002
1
0
0
0
4
2003
6
1.650
8,3
5
5
2004
21
2.390
8,35 – 8,5
5
6
2005
40
9.945
8,0 – 8,75(9,25)*
5 và 15
7
2006
28
12.241
8,15 – 8,75(9,25)**
5 và 15
8
2007
17
6.951
7,04 – 7,3
7
9
2008
15.070
10
2009
4.000
Tổng
Nguồn số liệu: Kho bạc Nhà nước
Chú thích: (*) và (**) : Lãi suất trái phiếu có kỳ hạn 15 năm
2.2.3. Phát hành trái phiếu công trình Trung ương
Lần đầu tiên KBNN thực hiện huy động vốn cho các công trình là năm 1992, thực hiện Quyết định số 134/HĐBT ngày 20/4/1992 của Hội Đồng Bộ trưởng ( nay là Chính phủ về việc phát hành tín phiếu đường dây 500KV. Cơ chế phát hành cũng khá phức tạp so với thời kỳ đó vì có nhiều đối tượng mua, có phân biệt về kỳ hạn, lãi suất. Tín phiếu đường dây 500KV có kỳ hạn 1 năm, 2 năm và 3 năm; lãi suất tương ứng là 4,2%/năm, 4,5%/năm và 5%/năm. Từ ngày 1/7/1993 các mức lãi suất này được tăng lên là 6%/năm, 6,5%/năm và 7%/năm. Loại tín phiếu này không bắt buộc với các tầng lớp dân cư nhưng lại mang tính chỉ tiêu và nghĩa vụ đối với các doanh nghiệp. Tín phiếu được phát hành bằng đồng Việt Nam, bằng vàng và ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Đợt phát hành kéo dài đến tháng 12/1994, tổng khối lượng vốn huy động được là 334,3 tỷ đồng, chỉ đạt 28% kế hoạch. Nguyên nhân của việc huy động không đạt kế hoạch là do lãi suất của tín phiếu còn thấp, không hấp dẫn được người mua. Hơn nữa, trong thời kỳ này giá vàng có nhiều biến động, ảnh hưởng không có lợi cho người mua trái phiếu. Tín phiếu đường dây 500KV ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế, còn mang ý nghĩa chính trị sâu sắc. Đợt phát hành này đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp chính quyền, đoàn thể từ trung ương đến cơ sở trong quá trình vận động và phát hành. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, thị trường nhiều biến động, do đó lượng vốn huy động được mới chỉ đáp ứng được gân 7% tổng số vốn đầu tư cho công trình.
Cũng trong thời kỳ này, KBNN đã tổ chức thêm hai đợt phát hành trái phiếu nữa, đó là trái phiếu đô thị thành phố Hồ Chí Minh để xây dựng đường Nguyễn Tất Thành - liên tỉnh lộ 15 và trái phiếu xây dựng Nhà máy xi măng Anh Sơn của UBND tỉnh Nghệ An.
Ngày 26/7/2004, cơ chế phát hành trái phiếu được thể chế hóa Nghị định số 72/CP, sau đó được sửa đổi bổ sung trong Nghị định 01/2000/NĐ-CP và mới nhất là Nghị định số 141/2003/NĐ-CP. Có thể thấy được rằng qua các năm, công tác phát hành trái phiếu công trình Trung ương và địa phương ngày càng đi vào ổn định, đạt hiệu quả cao.
Bảng 2.5: KẾT QUẢ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CÔNG TRÌNH GIAI ĐOẠN 1996 – 2007
STT
TÊN CÔNG TRÌNH
KHỐI LƯỢNG VỐN ĐÃ HUY ĐỘNG
(tỷ đồng)
1
Thủy điện YaLy
184,7
2
Khu đô thị Định Công – Hà Nội
50
3
Khu đô thị Bắc Linh Đàm – Hà Nội
41,6
4
Khu đô thị Chí Linh – Vũng Tàu
70,5
5
Các công trình giao thông, thủy lợi
38.995,6
Tổng
39.342,4
Nguồn số liệu: Kho bạc Nhà nước
Công tác phát hành trái phiếu công trình Trung ương đang dần trở thành một kênh huy động vốn quan trọng và hiệu quả. Nhìn vào bảng số liệu trên có thể thấy rằng khối lượng vốn huy động được tuy còn thấp nhưng đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc đầu tư cho các công trình cơ sở hạ tầng. Nhờ có nguồn vốn huy động được từ kênh phát hành này mà các công trình đã đẩy nhanh được tiền độ thi công, sớm đưa vào hoạt động để tạo ra nguồn thu ổn định. Từ đó đảm bảo việc thanh toán trái phiếu khi đến hạn, qua đó nâng cao uy tín để tạo đà thuận lợi cho các đợt phát hành tiếp theo.
Từ trước năm 2000, trái phiếu được phát hành theo phương thức đấu thầu qua NHNN, thời hạn trái phiếu là 1 năm, lãi suất được xác định qua kết quả đấu thầu. Nhưng theo tinh thần của Nghị định 141 thì trái phiếu công trình được phát hành chủ yếu bằng các phương thức bán lẻ qua hệ thống KBNN, đấu thầu qua Sở GDCK hoặc bảo lãnh phát hành. Trái phiếu công trình có thời hạn tối thiếu là 5 năm, đáp ứng được nhu cầu về vốn trung và dài hạn của các công trình.
Trong năm 2003 và 2004, KBNN đã thực hiện bảo lãnh phát hành được 2.065 tỷ đồng cho các công trình giao thông thủy lợi với lãi suất từ 8,3%/năm và 8,5%/ năm. Cũng trong hai năm đó, KBNN đã thực hiện đấu thầu trái phiếu công trình giao thông thủy lợi và đạt được khối lượng đấu thầu là 1.127 tỷ đồng với mức lãi suất trúng thầu là 8,35% - 8,7%/ năm.
Việc phát hành trái phiếu công trình một mặt góp phần tăng nguồn huy động vốn của Nhà nước để tập trung đầu tư cho các công trình cơ sở hạ tầng trọng điểm. Mặt khác tạo ra sự đa dạng phong phú cho các hàng hóa của thị trường trái phiếu chính phủ nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung; giúp NHNN dễ dàng hơn trong việc điều tiết tiền tệ thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
2.2.4. Phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ
Trước khi có Nghị định 141 quy định chi tiết việc phát hành trái phiếu ngoại tệ, giai đoạn năm 1993 – 1994, KBNN đã tổ chức phát hành trái phiếu Kho bạc bằng ngoại tệ. Loại trái phiếu này có 2 loại kỳ hạn: loại 1 năm với lãi suất 4.2%/năm; loại kỳ hạn 2 năm với lãi suất 4,5%/ năm. Loại trái phiếu này được phát hành tại 4 tỉnh, thành phố: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Bà Rịa Vũng Tàu. Kết quả thu được chỉ đạt 1,3 triệu USD. Nguyên nhân chủ yếu là do lãi suất thấp, không hấp dẫn được các nhà đầu tư.
Ngày 20/11/2003 Chính phủ ban hành Nghị định 141/2003?NĐ-CP của Chính phủ ban hành đã mở ra một kênh huy động mới để tăng cường nguồn vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư cho các công trình trọng điểm. Trong năm 2003 và 2004, KBNN đã phát hành trái phiếu Chính phủ có mệnh giá bằng đô la Mỹ. Kết quả của đợt phát được thể hiện trong bản 2.6
Bảng 2.6: KẾT QUẢ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ BẰNG NGOẠI TỆ GIAI ĐOẠN 2003 – 2004
Đơn vị: USD
PHƯƠNG THỨC PHÁT HÀNH
NĂM 2003
NĂM 2004
Bán lẻ qua hệ thông KBNN
23.794.000
38.858.000
Đấu thầu qua NHNN
9.000.000
5.000.000
Tổng
32.794.000
44.358.000
Nguồn số liệu: Kho bạc Nhà nước
Kỳ hạn trái phiếu là 5 năm, lãi suất bán lẻ là 3,5%/năm; lãi suất đấu thầu là từ 3,4% đến 3,5%/năm
Phát hành trái phiếu ngoại tệ là một bước đi mới trong công tác phát hành TPCP, tạo cơ hội đầu tư mới, giúp người dân quen với hình thức đầu tư trái phiếu có mệnh giá bằng ngoại tệ. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận trên việc phát hành TPCP bằng ngoại tệ vẫn còn tồn tại những khó khăn.
Qua công tác phát hành trái phiếu ngoại tệ trong 2 năm ta thấy được rằng khối lượng vốn huy động được chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu là do lãi suất và thời hạn của trái phiếu chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư. Nếu so sánh với lãi suất trái phiếu phát hành bằng VNĐ có thể thấy được sự chênh lệch lớn: lãi suất TPCP phát hành bằng VNĐ trong 2 năm 2003 và 2004 đều là 8,5%/năm.
Đồng thời trái phiếu ngoại tệ không được thanh toán trước hạn, điều này đã làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu ngoại tệ.
Vấn đề biến động của tỷ giá trong thời kì này cũng được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm bởi dễ dẫn đến rủi ro khi đầu tư và TPCP phát hành bằng ngoại tệ.
Để các đợt phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ tiếp theo có được kết quả tốt hơn, Bộ Tài chính cần có những điều chỉnh hợp lí về vấn đề lãi suất huy động giữa VNĐ và USD, thanh toán lãi và chuyển nhượng trái phiếu. Công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu ngoại tệ sẽ đem lại một nguồn ngoại tệ lớn phục vụ nhu cầu chi tiêu và đầu tư của Chính phủ. Do đó việc hoàn thiện kênh huy động này là điều rất cần thiết.
2.2.5. Phát hành công trái xây dựng Tổ quốc
Năm 1999, lần đầu tiên KBNN phát hành công trái xây dựng Tổ quốc theo pháp lênh số 12/1999/PL-UBTVQH ngày 27/4/1999 và nghị định số 34/1999/NĐ-CP ngày 12/5/1999 quy định về việc phát hành công trái XDTQ. Mục tiêu của đợt phát hành này là huy động nguồn vốn trong dân cư để đầu tư cho thủy lợi, xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở nông thôn, trước hết là các xã nghèo đặc biệt khó khăn theo Nghị quyết số 18/1998/QH10 ngày 25/11/1998 của Quốc hội.
Công trái XDTQ có kỳ hạn 5 năm, lãi suất 10%/năm ( bao gồm cả mức trượt giá cộng tỷ lệ lãi suất 1,5%/năm), tính cho cả 5 năm là 50%, được thanh toán 1 lần cùng tiền gốc khi đến hạn. Trong trường hợp mức trượt giá thực tế trong 5 năm cộng với lãi suất 5 năm (7,5%) lơn hơn 50% thì người sở hữu công trái sẽ được Nhà nước bù lãi. Trong trường hợp mức trượt giá thực tế trong 5 năm cộng với lãi suất 5 năm (7,5%) thấp hơn hoặc bằng 50% thì người chủ sở hữu công trái vẫn được hưởng lãi suất 50% như ghi trên tờ công trái đã phát hành.
Kết quả của đợt phát hành này là 4.496 tỷ đồng, trong khi kế hoạch đề ra chỉ là 4.000 tỷ đồng.
Năm 2003, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và Nghị định của Chính phủ, Bộ Tài chính đã chỉ đạo, hướng dẫn KBNN phát hành công trái giáo dục (đợt 1). Mục tiêu của đợt phát hành này là xóa phòng học ba ca và tranh tre nứa lá, kiên cố hóa trường lớp ở các tỉnh miền núi, tây nguyên và các tỉnh còn nhiều khó khăn. Công trái giáo dục có kỳ hạn 5 năm, lãi suất 8%/năm, tiền lãi được thanh toán một lần cùng tiền gốc khi đến hạn. Trong trường hợp đặc biệt, công trái có thể được thanh toán trước hạn. Theo kế hoạch tổng mức huy động là 2.000 tỷ đồng nhưng kết quả thu được 2.580 tỷ đồng đã vượt chỉ tiêu.
Tiếp theo thành công của 2 đợt phát hành trước, năm 2005, KBNN đã tổ chức phát hành công trái giáo dục đợt 2. Công trái có kỳ hạn 5 năm, khối lượng dự kiến là 2.700 tỷ đồng để hỗ trợ các tỉnh miền núi, Tây Nguyên và các tỉnh còn khó khăn tiếp tục mục tiêu của đợt phát hành trước. Kết quả phát hành công trái XDTQ giai đoạn 1999 - 2007 được phản ánh trong bảng 2.7
Bảng 2.7: Kết quả phát hành công trái XDTQ giai đoạn 1999 - 2007
STT
NĂM
KHỐI LƯỢNG ĐÃ HUY ĐỘNG
(tỷ đồng)
KỲ HẠN (năm)
LÃI SUẤT (%)
TỶ LỆ HOÀN THÀNH (%)
1
1999
4.496
5
10
113
2
2003
2.580
5
8
129
3
2005
2.816
5
8.2
104
Tổng
9.892
Nguồn số liệu: Kho bạc Nhà nước
Qua 3 đợt phát hành công trái xây dựng Tổ quốc, khối lượng huy động đều vượt kế hoạch đề ra, đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu đầu tư cho các công trình quốc gia. Thành công có được do sự hưởng ứng nhiệt tình của các tầng lớp dẫn cư, các cơ quan và tổ chức trên toàn quốc. Đây cũng là một phương thức huy động vốn có hiệu quả của KBNN, cần được xem xét, phát triển để tăng nguồn vốn huy động trung và dài hạn.
2.3. Đánh giá công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước thời gian qua
2.3.1. Những kết quả đạt được trong công tác huy động vốn
2.3.1.1. Công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước đã góp phần bù đắp thiếu hụt NSNN và đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển, thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội của đất nước.
Nguồn vốn huy động được từ việc phát hành trái phiếu Chính phủ đóng góp một phần quan trọng để cân đối NSNN hàng năm. Đây là nguồn vốn quan trọng trong việc bù đắp thiếu hụt ngân sách, tránh việc phát hành tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, góp phần lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia. Hơn nữa, nguồn vốn huy động được đã giải quyết kịp thời các nhu cầu chi cấp bách của nền kinh tế, đặc biệt là bố trí nguốn vốn cho đầu tư phát triển…….
2.3.1.2. Công tác huy động vốn qua KBNN đã dần đi vào nề nếp, trái phiếu Chính phủ trở thành công cụ huy động vốn hiệu quả của nhà nước.
Từ năm 1991 đến nay, trái phiếu Chính phủ đã trở thành công cụ huy động vốn có hiệu quả. Thị trường sơ cấp trái phiếu Chính phủ đã từng bước đi vào nề nếp, nếu như ban đầu chỉ huy động vốn bằng việc bán lẻ trái phiếu Chính phủ qua KBNN, thì nay đã mở thêm nhiều kênh huy động mới. Thị trường đã duy trì được bốn phương thức phát hành: Đấu thầu qua NHNN từ 1 đến 2 phiên/tuần, bảo lãnh phát hành 2 phiên/tháng, đấu thầu qua Sở GDCK từ 2 đến 3 phiên/tháng, phát hành trực tiếp qua KBNN thực hiện theo đợt.
Huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước đã thu hút được một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi trong xã hội, đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi của NSNN. Từ đó đã tạo điều kiện cho ngân sách chủ động trong việc hoạch định và thực hiện dự toán thu - chi. Việc phát hành trái phiếu trung và dài hạn còn thu hút lượng vốn nhàn rỗi để đưa vào đầu tư, làm tăng tỷ lệ tiết kiệm so vói GDP, góp phần ổn định và phát triển kinh tế.
Huy động vốn qua phát hành trái phiếu trong nước đã làm giảm việc phải vay vốn nước ngoài. Do đó, Nhà nước không bị ràng buộc về sức ép kinh tế cũng như chính trị. Nhà nước hoàn toàn tự chủ thực hiện nhiệm vụ chi tiêu cũng như đầu tư phát triển.
2.3.1.3. Hành lang pháp lý cho công tác huy động vốn đã được thiết lập
Thực hiện chiến lược huy động các nguồn vốn trong nước phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển của đất nước, ngày 26/7/1994 Chính phủ đã ban hành Nghị định 72/CP quy định về quy chế phát hành các loại trái phiếu Chính phủ. Nghị định đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc tăng cường huy động vốn nhãn rỗi trong xã hội nhằm mục tiêu bù đắp thiếu hụt NSNN và phát triển ổn định nền kinh tế.
Sau 6 năm thực hiện Nghị định 72/CP, môi trường pháp lý đã có những cải thiện đáng kể. Do đó những quy định trong Nghị định 72/CP không còn phù hợp với các văn bản pháp quy định ra đời sau đó. Để tăng cường tính pháp lý và hiệu quả của công tác huy động vốn trong nước, ngày 13/1/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2000/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 72/CP. Nghị định mới là một bước tiến quan trọng, tạo ra cơ chế cho công tác phát hành trái phiếu Chính phủ phù hợp với tình hình kinh tế của đất nước. Những quy định về trái phiếu công trình, phương thức huy động qua Sở GDCK, Chính phủ đã đưa ra những quy chế rõ ràng để trái phiếu Chính phủ có điều kiện thuận lợi khi tham gia thị trường chứng khoán.
Ngày 20/11/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 141/2003/NĐ-CP để thay thế cho Nghị định 01/2000/NĐ-CP nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế phát hành TPCP. Nghị định mới đã có một số quy định:
Quy chuẩn hóa khái niệm TPCP: TPCP là một loại chứng khoán do Bộ Tài chính phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu, bao gồm 6 loại: tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu ngoại tệ và cô
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26080.doc