MỤC LỤC
Trang
Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
1.2. Tính cấp thiết của chuyên đề
1.3. Điều kiện thực hiện chuyên đề
1.3.1. Điều kiện bản thân
1.3.2. Điều kiện cơ sở
1.3.2.1. Điều kiện tự nhiên
1.3.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội
1.3.2.3. Tình hình sản suất nông nghiệp
1.3.3. Đánh giá chung
1.3.3.1. Thuận lợi
1.3.3.2. Khó khăn
1.4. Mục tiêu cần đạt được khi kết thúc chuyên đề.
1.4.1. Mục đích
1.4.2. Ý nghĩa
1.4.2.1. Ý nghĩa khoa học
1.4.2.2. Ý nghĩa thực tiễn
1.5. Tổng quan tài liệu và cơ sở khoa học
1.5.1. Cơ sở khoa học của chuyên đề
1.5.1.1. Đặc điểm giải phẫu và sinh lý tiêu hóa của gà
1.5.1.2. Cơ sở khoa học của sự sinh trưởng
1.5.1.3. Một số bệnh đường ruột thường gặp ở gà
1.5.1.4. Cơ sở khoa học của việc sử dụng men (enzyme) trong chăn nuôi
1.5.1.5. Thành phần của men Phytase sử dụng trong thí nghiệm
1.5.2. Tình hình nghiên cứu việc bổ sung men phytase trong chăn nuôi
1.5.3. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước
1.5.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.5.3.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Phần 2. Đối tượng, nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
2.2. Nội dung chuyên đề
2.2.1. Công tác phục vụ sản suất
2.2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.2.1. Ảnh hưởng của việc bổ sung men phytase đến khả năng sinh trưởng của gà thí nghiệm
2.2.2.2. Ảnh hưởng của men phytase đến khả năng sử dụng và chuyển hóa thức ăn của gà thí nghiệm
2.2.2.3. Ảnh hưởng của men phytase đến khả năng phòng bệnh của gà thí nghiệm
2.2.2.4. Sơ bộ tính toán hiệu quả kinh tế khi sử dụng men phytase
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
2.3.2. Theo dõi tỷ lệ nuôi sống
2.3.3. Theo dõi khả năng tăng trọng của gà
2.3.4. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng gà thí nghiệm
2.3.5. Theo dõi tình hình mắc bệnh của gà
2.3.6. Chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng
2.4. Xử lý kết quả
Phần 3. Kết quả và phân tích kết quả
3.1. Kết quả phục vụ sản suất
3.2. Tỷ lệ nuôi sống
3.3. Ảnh hưởng của men Phytase đến khả năng sinh trưởng của gà thí nghiệm
3.3.1. Sinh trưởng tích lũy của gà thí nghiệm
3.3.2. Sinh trưởng tuyệt đối của gà thí nghiệm
3.3.3. Sinh trưởng tương đối của gà thí nghiệm
3.4. Ảnh hưởng của men Phytase đến tiêu tốn thức ăn của gà thí nghiệm
3.5. Tỷ lệ mắc bệnh của gà khảo nghiệm
3.6. Sơ bộ xác định hiệu quả kinh tế khi sử dụng men Phytase
Phần 4. Kết luận và đề nghị
4.1. Kết luận
4.2. Đề nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
51 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2488 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung men phytase đến khả năng sinh trưởng và phòng bệnh đường ruột của gà sasso tại xã Thanh Thuỷ - Thanh Liêm - Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n số tương đối cao, tập trung nhiều ngành công nghiệp nhẹ nên nhu cầu về lương thực, thực phẩm lớn.
1.3.3.2. Khó khăn
- Chăn nuôi gia cầm vẫn chủ yếu là theo phương thức chăn thả tự do nên hiệu quả kinh tế chưa cao, mặt khác còn gây khó khăn cho việc ngăn ngừa và kiểm soát dịch bệnh.
- Công tác tuyên truyền lợi ích của việc vệ sinh thú y chưa thực sự hiệu quả, người dân chưa ý thức được vai trò của công tác vệ sinh thú y.
- Hàng năm tình hình thời tiết diễn biến phức tạp, gây khó khăn cho cả chăn nuôi và trồng trọt. Khí hậu khắc nghiệt hay thay đổi ở một số tháng gây ra nhiều bệnh giảm khả năng sinh trưởng phát triển của vật nuôi, cây trồng.
- Xã còn thiếu nhiều lao động có tay nghề cao, các nhà quản lý kinh doanh và chuyên gia môi giới có trình độ đáp ứng được những thách thức của nền kinh tế thị trường.
1.4. Mục tiêu cần đạt được khi kết thúc chuyên đề
1.4.1. Mục đích
Áp dụng quy trình chăn nuôi gà thịt trong chăn nuôi gà Sasso ở trại gà gia đình tại xã Thanh Thủy.
Đánh giá việc sử dụng men phytase trong chăn nuôi gà Sasso thương phẩm.
1.4.2. Ý nghĩa
1.4.2.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của chuyên đề góp phần chứng minh hiệu quả của men phytase trong chăn nuôi gà thịt.
1.4.2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất, góp phần nâng cao năng suất và chất lượng gà thịt, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân.
1.5. Tổng quan tài liệu và cơ sở khoa học
1.5.1. Cơ sở khoa học của chuyên đề
1.5.1.1. Đặc điểm giải phẫu và sinh lý tiêu hóa của gà
*Hệ tiêu hóa
Theo Nguyễn Duy Hoan và Trần Thanh Vân (1998) [2], gia cầm có nguồn gốc từ các loài chim hoang dại. Gia cầm có nhiều đặc điểm giống với bò sát đồng thời khác với gia súc là có bộ xương nhẹ, thân phủ lông vũ, chi trước có cánh để bay, con cái đẻ trứng sau nở thành con…
Theo Lê Hồng Mận và Bùi Đức Lũng (1992) [5], sự trao đổi chất và năng lượng ở gia cầm cao hơn so với động vật có vú, năng lượng nhanh chóng được hấp thu và bồi bổ trong quá trình tiờu hoỏ và hấp thu dinh dưỡng.
Khối lượng rất lớn các chất tiờu hoỏ đi qua ống tiờu hoỏ thể hiện tốc độ và cường độ của quá trình tiờu hoỏ ở gà, vịt … ở gà con tốc độ đó là 30 – 39 cm/giờ, ở gà lớn hơn 32 – 40 cm/giờ và gà lớn là 40-42 cm/giờ, chất tiờu hoỏ không vượt quá 2 - 4giờ.
- Tiờu hoá ở miệng
Gia cầm mổ thức ăn bằng mỏ, một phút mổ 180-240 lần, khi đó mổ nhanh, mỏ mở to, ở trên mặt lưỡi có nhiều răng nhỏ hoá sừng hướng về cổ họng để đưa thức ăn về phía thực quản. Thị giác và xúc giác kiểm tra tiếp nhận thức ăn, còn khứu giác và vị giác ý nghĩa kém hơn. Thiếu ánh sáng gà ăn kém.
Ở gia cầm tuyến nước bọt kém phát triển. Nước bọt không chứa enzym, chỉ có tác dụng bọc làm trơn thức ăn dễ vận chuyển vào thực quản. Thức ăn vào diều, khi gà đói theo ống diều vào thẳng dạ dày, không qua và giữ lại ở diều. Tuyến nhầy của thực quản tiết dịch nhầy làm thức ăn di chuyển dễ dàng khi gà ăn vào.
- Tiờu hoá ở diều
Diều gà hình túi ở thực quản chứa 100-120g thức ăn, giữa các cơ co thắt lại có ống diều để khi gà đói, thức ăn vào thẳng phần dưới thực quản và dạ dày mà không qua túi diều. Ở diều thức ăn được làm mềm, quấy trộn và tiờu hoỏ từng phần do các men thức ăn và vi khuẩn có trong thức ăn thực vật. Thức ăn cứng giữ lại diều lâu hơn. Khi thức ăn hạt và nước có tỷ lệ 1: 1 thì được giữ lại ở diều 5-6 giờ. Độ pH của diều gia cầm là 4,5-4,8. Sau khi ăn 1-2 giờ diều co bóp theo dạng dãy (khoảng 3-4 co bóp) với khoảng cách 15-20 phút, sau khi ăn 5-12 giờ là 10-30 phút, khi đói 8 - 16 lần/giờ.
Ở diều nhờ men amilaza, tinh bột được phân giải thành đừờng đa có trọng lượng phân tử nhỏ hơn, một phần chuyển thành đường đơn glucoza.
- Tiờu hoá ở dạ dày
Dạ dày chia ra: dạ dày tuyến và dạ dày cơ.
+Dạ dày tuyến
Cấu tạo từ cơ trơn dạng ống ngắn, cú vỏch nối với dạ dày cơ bằng eo nhỏ, pH là 3,1 – 4,5 khối lượng dạ dày tuyến 3,5-6g. vách gồm màng nhầy phát triển, cơ và màng mô liên kết.
Dịch có chứa HCl, pepsin, men bào tử và musin. Sự tiết dịch của dạ dày tuyến là không ngừng, sau khi ăn càng được tăng cường.
Thức ăn không giữ lâu ở dạ dày tuyến, khi được dịch dạ dày làm ướt, thức ăn chuyển đến dạ dày cơ nhờ nhịp co bóp đều đặn của dạ dày cơ (không quá 1lần/phỳt).
Ở dạ dày tuyến sự thuỷ phân protein như sau:
Protein + nước + pepsin và HCl → albumoza + pepton
+ Dạ dày cơ :
Có thành rất dày, có khối lượng 50g/gà, 180 – 200g/ngỗng có dạng hình đĩa hơi bóp ở phía cạnh.
Gà ăn hạt dạ dày cơ lớn hơn nhiều so với thuỷ cầm.
Dạ dày cơ co bóp 2 – 3 lần/phỳt, không tiết dịch tiờu hoỏ, mà dịch này từ dạ dày tuyến tiết ra chảy vào dạ dày cơ. Thức ăn được nghiền nát bằng cơ học, trộn lẫn và tiờu hoỏ dưới tác dụng của các men dịch dạ dày, enzym và vi khuẩn, HCl tác động làm các protein trở nên căng phồng, lung lay và nhờ có pepsin, chúng được phân giải thành pepton và một phần thành các axit amin.
Dịch dạ dày tinh khiết, lỏng, không màu hoặc hơi trắng đục, độ axit tăng dần cùng với tuổi, ở gà con vài ngày tuổi pH= 4,2 – 4,4, ở gà 31-40 ngày tuổi pH= 1,15 – 1,55 và giữ ở mức này với sự giao động không lớn trong các thời kỳ tuổi tiếp theo.
Từ dạ dày cơ các chất dinh dưỡng được chuyển vào manh tràng cú cỏc men dịch ruột và tuyến tụy cùng tham gia, môi trường bị kiềm hoá tạo điều kiện thích hợp cho sự hoạt động của các men phân giải protein và gluxit.
Sỏi và các dị vật trong dạ dày làm tăng cường tác động nghiền của vách dạ dày. Tốt nhất nên cho gà ăn sỏi thạch anh và không bị phân huỷ bởi HCl. Cho gà ăn sỏi có đường kính 2.5 - 3mm.
-Tiờu hoá ở ruột
Ở ruột, gluxit được phân giải thành các monosacarit, do men amilaza của dịch tuỵ và phần nào của dịch mật và dịch ruột.
Ở manh tràng, protit được phân giải đến pepton và polypeptit dưới tác động của HCl và các men dịch dạ dày như men pepsin và chimusin. Tiếp đú cỏc men proteolyse của dịch tụy phân giải axit amin trong hồi tràng và tá tràng.
Ở manh tràng các vi khuẩn tổng hợp vitamin nhóm B, nhờ vậy sự tiờu hoỏ protid, gluxit, lipit tiến hành ở manh tràng nhờ các men đi vào cùng chymus từ ruột non và hệ vi khuẩn thâm nhập khi gà con tiếp nhận thức ăn lần đầu như trực khuẩn ruột, streptococci, lactobacilli…
Manh tràng là nơi duy nhất phân giải một lượng nhỏ chất xơ (10-30%) bằng các men do vi khuẩn tiết ra. Khi cắt bỏ manh tràng, chất xơ hoàn toàn không tiờu hoỏ được ở bộ máy tiờu hoỏ gia cầm.
Ở gà, hấp thu các chất dinh dưỡng từ bộ máy tiờu hoỏ vào máu và lympho đều tiến hành chủ yếu ở ruột non.
Muối NaCl dễ hấp thu trong ruột gà con, hễ dư thừa dễ nhiễm độc và làm rối loạn phát triển.
Mức độ hấp thu Ca phụ thuộc vào lượng Ca trong máu và Vitamin trong ruột. Lượng P quá cao sẽ làm ngưng hấp thu Ca. Thiếu Vitamin D dẫn đến hấp thu Ca kém, gà bị còi xương.
Tuổi và trạng thái sinh lý của gà ảnh hưởng đến tỷ lệ hấp thu Ca : Gà 4 tháng tuổi 25%, gà 6-12 tháng tuổi 50-60%, gà 14 tháng tuổi, thay lông 32%...
Các Vitamin được hấp thu ở manh tràng, gà con hấp thu nhanh hơn, chỉ 1-1h30ph sau khi ăn đó cú vitaminA trong mỏu. Gà mái đẻ hấp thu Vitamin A 12h sau khi ăn.
Muối NaCl dễ hấp thu trong ruột già gà con, dễ dư thừa, dễ bị nhiễm độc và làm rối loạn phát triển.
1.5.1.2. Cơ sở khoa học của sự sinh trưởng.
*Sinh trưởng.
Khái niệm sinh trưởng: Theo Trần Đỡnh Miờn, Nguyễn Hải Quân, Vũ Kích Trực, 1975 thì Garter(1992) [8] cho biết: Sinh trưởng được xem trước hết là kết quả phân chia tế bào và tăng tỷ lệ của tế bào, F.S Lee(1989) và Davebpot (1899) cho rằng: Sự sinh trưởng bao giờ cũng phải có tế bào phân chia, tăng thể tích và hình thành các chất trong tế bào, trong đó 2 quá trình đầu quan trọng nhất.
Như vậy, sinh trưởng là quá trình tích luỹ chất hữu cơ do đó đồng hoá và dị hoá, là sự tăng chiều cao, chiều dài, bề ngang khối lượng của các bộ phận cơ quan.
Sinh trưởng thường gắn liền với phát dục đó là quá trình thay đổi về chất lượng, là sự tăng và hoàn chỉnh thêm về chức năng hoạt động của các bộ phận cơ quan.
Sinh trưởng phát dục có mối quan hệ mật thiết không tách rời nhau mà ảnh hưởng hỗ trợ lẫn nhau, là quá trình diễn ra trên cùng một cơ thể gia súc, gia cầm làm cho vật nuôi ngày càng hoàn chỉnh.
Sự sinh trưởng phát dục của gia súc, gia cầm tuân theo quy luật nhất định, đó là quy luật sinh trưởng phát dục theo giai đoạn, quy luật sinh trưởng phát dục không đồng đều và quy luật có tính chu kỳ.
Ở gà quá trình sinh trưởng diễn ra hai giai đoạn:
- Giai đoạn gà con: trong giai đoạn này bao gồm cả thời kỳ phôi thai. Sinh trưởng của thời kì phôi thai chủ yếu là tăng lên về số lượng và khối lượng các tế bào hình thành các cơ quan bộ phận và thể dịch trong mô bào nhất là thời kì đầu tiên của phôi. Sau khi gà nở số lượng các tế bào của cơ thể vẫn tiếp tục tăng nhanh, các cơ quan bộ phận lớn lên nhanh chóng, sự sinh trưởng diễn ra mạnh mẽ.
- Giai đoạn gà trưởng thành: Ở giai đoạn này các cơ quan bộ phận của cơ thể đã phát dục hoàn thiện chức năng sinh lý của từng cơ quan tổ chức. Quá trình sinh trưởng chậm lại, sự sinh trưởng không mạnh mẽ. Trong 2 tháng đầu được chia làm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn sơ sinh đến 10 ngày tuổi : Giai đoạn này gà con chưa hoàn thiện cơ quan điều chỉnh thân nhiệt, tốc độ sinh trưởng nhanh, gà con phản xạ yếu ớt đòi hỏi nhiệt độ môi trường cao (28-C) cần chăm sóc chu đáo trong 10 ngày đầu.
+ Giai đoạn 11 - 30 ngày tuổi: Giai đoạn này gà có tốc độ sinh trưởng nhanh, hệ số chuyển hoá thức ăn cao, phản ứng nhanh với điều kiện ngoại cảnh.
+ Giai đoạn 31 - 60 ngày tuổi: Tốc độ sinh trưởng vẫn nhanh, bắt đầu có sự tích luỹ mỡ.
*Sức sống và khả năng kháng bệnh ở gia cầm.
- Sức sống và khả năng kháng bệnh ở gia cầm là những tính trạng di truyền số lượng, đặc trưng cho từng loài, giống, dòng, cá thể và được xác định bởi khả năng chống chịu những ảnh hưởng của dịch bệnh và ngoại cảnh môi trường.
*Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của gia cầm.
- Ảnh hưởng của di truyền: Tốc độ sinh trưởng của gia cầm phụ thuộc vào loài, giống, dòng, cá thể.
- Ảnh hưởng của tính biệt: Ở gia cầm, giữa hai tính biệt có sự khác nhau về trao đổi chất, đặc điển sinh lý, tốc độ sinh trưởng và khối lượng cơ thể.
Nhiều tác giả chứng minh rằng: gà trống lớn hơn gà mái trong cùng một thời gian và chế độ thức ăn giống nhau.
Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận, (1992) [5] cho biết: Có sự khác biệt về khối lượng cơ thể giữa gà trống và gà mái từ 1 tuần tuổi.
[]Theo H.Brandsch và H.Bilchel, (1987) [1] cho biết: Tốc độ mọc lông cũng là một tính trạng di truyền. Đây là một tính trạng liên quan đến trao đổi chất, sinh trưởng, phát triển của gia cầm và là một chỉ tiêu đánh giá sự thuần thục sinh dục, gia cầm có tốc độ mọc lông nhanh thì sự thuần thục về thể trọng sớm và chất lượng thịt tốt hơn gia cầm mọc lông chậm.
- Ảnh hưởng của dinh dưỡng.
Dinh dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ sinh trưởng của gia cầm.
Theo Bùi Đức Lũng, (2007) [4] để phát huy được khả năng sinh trưởng cần phải cung cấp thức ăn tối ưu với đầy đủ chất dinh dưỡng được cân bằng nghiêm ngặt giữa Protein và các axit amin với năng lượng.
- Ảnh hưởng của chăm sóc
Bên cạnh các yếu tố giống và dinh dưỡng, thì sinh trưởng của gà còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác như: Chăm sóc nuôi dưỡng, nhiệt độ, ẩm độ, độ thông thoáng, mật độ nuôi.
+ Ảnh hưởng của nhiệt độ
Theo Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận(1992) [5] cho biết trong điều kiện nhiệt độ khác nhau thì mức độ tiêu tốn thức ăn của gà cũng khác nhau. Nhiệt độ có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu năng lượng trao đổi( ME) và protein thô (CP) của gà, do vậy tiêu thụ thức ăn chịu sự chi phối nhiều của nhiệt độ môi trường.
Theo I.Nir(1992) [ 2 ] qua nghiên cứu đã chỉ ra rằng với nhiệt độ môi trườngC, ẩm độ tương đối 66% đã làm giảm quá trình tăng khối lượng cơ thể 30-35% ở gà trống và 20-30% ở gà mái so với điều kiện về khí hậu thích hợp.
Khi nhiệt độ quá cao, khả năng ăn của gia cầm giảm, để khắc phục điều này, người ta đã sử dụng thức ăn cao năng lượng trên cơ sở cân bằng ME/CP cũng như axit amin/ME và tỉ lệ khoáng, vitamin trong thức ăn cần cao hơn nhu cầu của chúng. Do đó trong điều kiện chăn nuôi của nước ta, tuỳ theo mùa vụ, căn cứ vào nhiệt độ của từng giai đoạn mà điều chỉnh mức ME và tỷ lệ ME/CP cho phù hợp để đạt hiệu quả cao nhất trong chăn nuôi gia cầm nói chung và gà thịt nói riêng.
+ Ảnh hưởng của ẩm độ và độ thông thoáng.
Khi ẩm độ tăng làm cho chất độn chuồng dễ ẩm ướt, thức ăn dễ bị ẩm mốc, đặc biệt là do vi khuẩn phân huỷ axit uric trong phân và chất độn chuồng làm tổn thương đến hệ hô hấp dẫn đến tăng khả năng nhiễm một số bệnh như: tiêu chảy, cầu trùng, hen, từ đó làm giảm khả năng sinh trưởng của gà.
+ Ảnh hưởng của chế độ chiếu sáng.
Khi cường độ chiếu sáng cao, gà hoạt động nhiều, do đó làm suy giảm sự tăng khối lượng. Với chuồng thông thoáng tự nhiên, mùa hè cần che nắng mặt trời chiếu vào chuồng, nhưng vẫn đảm bảo thông thoáng khí, ánh sáng được phân bố đều trong chuồng. Ban đêm sử dụng đồng loạt cỏc đốn cú cựng công suất để tránh gà tụ nơi có ánh sáng mạnh.
+ Ảnh hưởng của mật độ nuôi nhốt.
Mật độ nuôi nhốt cũng là một yếu tố quan trọng để chăn nuôi đạt hiệu quả cao, mật độ nuôi nhốt cao thì chuồng nhanh bẩn, lượng khí thải , , cao từ đó gây ảnh hưởng đến quá trình tăng khối lượng và sức khoẻ của đàn gà, gà dễ bị nhiễm một số bệnh về hô hấp và tiờu hoỏ gõy tăng tỷ lệ chết, làm giảm tỷ lệ đồng đều cuối cùng làm giảm tỷ lệ chăn nuôi. Ngược lại, mật độ nuôi nhốt thấp chi phí chuồng trại cao. Do đó tuỳ theo mùa vụ, tuổi gà và mục đích sử dụng cần có mật độ chăn nuôi thích hợp.
Theo Nguyễn Duy Hoan và Trần Thanh Vân (1998) [2] cho biết: Khi gà dưới 3 tuần tuổi mật độ nuụi ỳm 20-30con/ nền chuồng. Giảm dần đến mật độ 7-10con/.
1.5.1.3. Một số bệnh đường ruột thường gặp ở gà
Bệnh cầu trùng ở gà
Bệnh do một loại ký sinh trùng đơn bào Emeria gây ra thường tạo thành dịch cầu trùng ở gà.
Biểu hiện: gà kém ăn, lông dựng, mào và niêm mạc nhợt nhạt, phõn loóng, cú màu sụcụla hoặc lẫn máu. Gà gầy dần rồi chết.
Điều trị: Rigecoccin-WS: liều 1g/4l nước uống hoặc Hancoc: liều 1.5-2ml/1l nước, hoặc Vinacoc.ABC liều 2g/1l nước uống…
Cho gà uống liên tục trong 3-5 ngày
Bệnh Bạch lỵ
Bệnh bạch lỵ do vi khuẩn Samonella pullorum gây ra chủ yếu thông qua đường tiờu hoỏ và hô hấp. Gà đã khỏi bệnh vẫn tiếp tục thải vi khuẩn ra theo phân, đó là nguồn lây lan quan trọng và nguy hiểm nhất.
Gà con bị bệnh nặng từ mới nở đến 2 tuần tuổi, tỷ lệ mắc bệnh cao nhất vào lúc 24 - 48 giờ sau khi nở. Biểu hiện đầu tiên là ủ rũ, ít vận động, mắt nửa nhắm nửa mở, cỏnh só, bỏ ăn, uống nước nhiều, ỉa phõn hụi khắm, có bọt trắng, có khi lẫn máu, phân bết quanh hậu môn. Mổ khám thấy gan, lách bị viêm sưng có màu đỏ tím, ở lách, tim, phổi cú cỏc ổ hoại tử.
Gà lớn thường bị bệnh ở dạng ẩn (mãn tính), triệu chứng không rõ rệt, thường chỉ thấy ỉa chảy, phân bết, mào rụt, đẻ ít, trứng méo mó, mổ khám thấy gan xơ cú cỏc hạt hoại tử, buồng trứng viêm, nhiều trứng teo, trứng non dị hình, biến màu xanh xám. Trứng ấp bị nhiễm bệnh thì tỷ lệ phôi chết cao, gà con nở yếu, hở rốn nhiều, lòng đỏ tiêu không hết.
Phòng bệnh bằng các biện pháp vệ sinh tổng hợp.
Điều trị: Ampi-coli 1g/2lnước uống, B-complex 1g/3l nước, cho gà uống liên tục 5-7 ngày. Colistin 1g/2l, cho gà uống liên tục 3-4 ngày.
1.5.1.4. Cơ sở khoa học của việc sử dụng men (enzym) phytase trong chăn nuôi
Enzyme cũng như mọi chất xúc tác có nguồn gốc vô cơ khác, chỉ ảnh hưởng tới tốc độ phản ứng, làm hệ thống phản ứng chống đạt đến giai đoạn cân bằng động. Tuỳ theo yếu tố nồng độ và trạng thái cân bằng hoá học mà enzyme làm tăng tốc độ theo hướng này hoặc hướng khác.
Nhưng vì enzyme là những chất xúc tác sinh học có bản chất protein và hoạt động xúc tác vật thể sống nờn chỳng chịu tác động của một số yếu tố như: nhiệt độ , nếu nhiệt độ cao(> 70- ) làm enzyme bị tê liệt và phá huỷ rối loạn về cấu trúc phân tử, làm hỏng trung tâm hoạt động được tạo nên từ các axit amin. Nếu tác động của nhiệt chưa thật sâu sắc thì enzyme có khả năng khôi phục lại cấu trúc và do đó hoạt động xúc tác của enzyme vẫn còn.
Enzyme cũng rất nhạy cảm với phản ứng môi trường và mỗi enzyme cú vựng pH hoạt động tốt nhất riêng cho mỡnh nờn khi pH thay đổi sẽ ảnh hưởng tới độ phân ly cỏc nhúm chức cấu tạo nên trung tâm hoạt động của enzyme.
Ngoài ra enzyme còn chịu tác động của nồng độ cơ chất, với một lượng xúc tác rất nhỏ cũng có khả năng thực hiện phản ứng cho một lượng cơ chất lớn gấp nhiều lần.
1.5.1.5. Thành phần của men phytase sử dụng trong thí nghiệm
Phospho trong thức ăn thực vật phần lớn đều tồn tại dưới hình thức Phytate Phosphorus (xem hình 1 và 2). Phytate Phosphorus có thể kết hợp với nhiều loại khoáng nguyên tố, protein, tinh bột... tác động đến sự hấp thu tiờu hoỏ cỏc dưỡng chất trên của gia súc gia cầm. Con vật không thể trực tiếp hấp thu Phytate Phosphorus, nhưng Phytate có thể phân giải tách Phospho khỏi Acid phytic. Trong đường tiờu hoỏ của con vật có thể có một ít Phytase có nguồn gốc từ men nội sinh trong thức ăn và vi sinh vật trong đường ruột, nhưng hàm lượng của loại men này cực kỳ ít, ngoại trừ động vật ăn cỏ có tỷ lệ hấp thu Acid Phytic rất thấp. Do đó cần phải thêm men Phytase từ bên ngoài.
Hình 1: Kết cấu của Acid phytic
Hình 2: Acid phytic phức hợp tồn tại trong thực vật
Theo Cao Ngọc Diệp, Viện NC&PT Công nghệ sinh học- Đại học Cần Thơ tổng hợp của một số tác giả nước ngoài( 2010).
Phytase là một dạng phospho hữu cơ chiếm từ 1 đến 5% (w/w) của hạt đậu, ngũ cốc, hột chứa dầu, phấn hoa và hạnh nhân ( Cheryan, 1980) hầu hết thực phẩm có nguồn gốc thực vật chứa từ 50% đến 80% phospho tổng là phytase ( Harland và Morris, 1995) và dĩ nhiên phytase chứa khoáng liên kết với acid amin và protein. Theo Posternak(1902) là người đầu tiên phát hiện ra phytin. Ông dùng phytin để chỉ một chất phospho trong các loại hạt mà ông khám phá ra và xem nó như sản phẩm trung gian trong quá trình tổng hợp diệp lục nhưng Pfefferr tìm ra acid phytic từ năm 1872. Phytase chứa 14-25% phospho, 1,2-2% Canxi, 1-2% kẽm và sắt. Lượng phytase cao nhất trong các loại ngũ cốc, bắp ( 0,83-2,22%) và trong các loại hạt đậu ( 5,92-9,15%) ( Reddy, et al…, 1989)
1.5.2. Tình hình nghiên cứu việc bổ sung men phytase trong chăn nuôi
Trong những năm gần đây, chăn nuôi gia cầm phát triển đã làm tăng sử dụng phân gia cầm làm phân bón ruộng, phân này lại làm tăng lượng phốt pho thoát ra khỏi đồng ruộng được bón phân gia cầm. Sự bài tiết phốt pho vào phân gia cầm có thể dẫn đến ô nhiễm nước khi phân này dùng làm phân bón ruộng. Nhu cầu duy trì đủ lượng phốt pho khẩu phần khi giảm bài tiết phốt pho ở phân gia cầm đã làm tăng việc sử dụng hợp chất phytase trong thức ăn gia cầm trong những năm gầy đây. Sử dụng phytase đã làm giảm bài tiết phốt pho vào phân gia cầm do gia cầm đã sử dụng thêm phytase phốt pho. Phytate phốt pho có khả năng tổ hợp với các cation như Ca, Mg, Zn, Cu và N và một số men protease ruột - dạ dày, do vậy đã làm giảm sự có mặt tự do của các Cation này và cỏc axớt amin. Sử dụng hợp chất phytase có thể làm tự do việc giới hạn các Cation này và các men protease này ở tổ hợp phốt pho phytate và cải thiện nhiều chỉ số sản xuất và các tính chất cấu trúc cơ thể ở gà broiler và gà đẻ, như khối lượng cơ thể, hàm lượng khoáng của xương và các ảnh hưởng khác đến gia cầm mà Sebastian và cộng sự đã viết. ở đây, chúng tôi đã kiểm tra thêm những phát hiện gần đây về ảnh hưởng của phytase đến cấu trúc cơ thể, các thông số sản xuất và tỷ lệ tiờu hoỏ và sử dụng dinh dưỡng ở gà broiler và gà đẻ.
Kết luận và ứng dụng:
1. Bổ sung hợp chất phytase đã làm giảm bài tiết phốt pho và cải thiện nhiều thông số đo được về cấu trúc xương ở gà broiler khi lượng phốt pho phi - phytate vào khoảng 0,15 - 0,45%.
2. Zn, Ca và N được lưu lại và sử dụng tốt hơn ở broiler khi bổ sung phytase vào thức ăn có 20-54% phốt pho-phi phytate so với tổng số phốt pho.
3. Ca, Mg, Fe, Zn và Cu được lưu lại ở gà đẻ tốt hơn khi có sự bổ sung phytase vào thức ăn có 0,11-0,26% phốt pho phi-phytate.
4. Bài tiết phốt pho giảm đi ở gà broiler khi bổ sung phytase vào khẩu phần chứa 0,27-0,54% phốt pho phi-phytate.
5. Cần nghiên cứu thêm để xác định ảnh hưởng của việc bổ sung phytase đến tỷ lệ tiờu hoỏ axớt amin.
1.5.3. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước
1.5.3.1 Tình hình nghiên cứu trong nước
Theo Lê Hồng Mận, 2006[7] gà Sasso có xuất sứ từ Pháp có lông màu vàng hoặc nâu đỏ, chân, da, mỏ vàng, thịt chắc. thơm ngon. Gà dễ nuụi cú sức chống chịu với ngoại cảnh, gà thịt Broiler nuụi bỏn công nghiệp hoặc nuôi chăn thả để sản xuất gà thịt chất lượng, gà Sasso có nhiều dòng.
Theo Hội Chăn nuôi Việt Nam, 1999[6], gà Sasso nhập nội vào Việt Nam là SA31 và SA51, có lông màu nâu vàng hoặc nâu đỏ, chân, da, mỏ rất vàng.
Gà SA31 là dũng nỏi có tính chống chịu tốt, chịu được điều kiện nuôi dưỡng khó khăn, có thể nuôi ở những nơi có khí hậu nhiệt đới và sa mạc, gà SA31 nhỏ nhưng sinh ra gà thịt to, gà trống được phối để sản xuất gà thịt(broiler) nặng cân, có màu và nuụi bỏn công nghiệp. Gà SA31 có 3 loại hình: bình thường, nặng và nhẹ (lùn nhỏ).
Năng suất trứng của gà SA51 đạt:
Sản lượng trứng đến 66 tuần tuổi
187 quả
Số lượng trứng có thể đưa vào ấp đến 66 tuần tuổi
178 quả
Số lượng gà con đến 66 tuần tuổi
150 quả
Tỷ lệ chết đến 20 tuần tuổi
3%
Tỷ lệ chết từ 21-60 tuần tuổi
8%
Số lượng thức ăn tiêu thụ đến 66 tuần tuổi
48Kg
Trung bình lượng thức ăn tiêu thụ/gà trong 66 tuần tuổi
385Kg
Khối lượng gà lúc 20 tuần tuổi
2010g
Khối lượng gà lúc 24 tuần tuổi
2400g
Khối lượng gà lúc 66 tuần tuổi
3100g
Gà SA51 cũng là dũng mỏi có tính chống chịu tốt( chịu được điều kiện nuôi dưỡng khó khăn, có thể nuôi ở những nơi có khí hậu nhiệt đới và sa mạc, lùn, thức ăn ăn ít, có nhiều gà con/gà mái và nhỏ nhưng sinh ra gà thịt to, gà trống được phối để sản xuất gà thịt (broiler) nặng cân, có màu và nuụi bỏn công nghiệp).
Năng suất trứng của gà SA51 đạt:
Sản lượng trứng đến 66 tuần tuổi
197 quả
Số lượng trứng có thể đưa vào ấp đến 66 tuần tuổi
185 quả
Số lượng gà con đến 66 tuần tuổi
161 quả
Tỷ lệ chết đến 20 tuần tuổi
2,5%
Tỷ lệ chết từ 21-60 tuần tuổi
8%
Số lượng thức ăn tiêu thụ đến 66 tuần tuổi
45,4Kg
Trung bình lượng thức ăn tiêu thụ/gà trong 66 tuần tuổi
282Kg
Khối lượng gà lúc 20 tuần tuổi
1420g
Khối lượng gà lúc 24 tuần tuổi
1660g
Khối lượng gà lúc 66 tuần tuổi
2265g
Nói chung gà Sasso có khả năng chống chịu với điều kiện chăn nuôi khó khăn, cú thể dùng chăn nuôi quảng canh( thả vườn), bán công nghiệp hoặc thâm canh ( chăn nuôi công nghiệp ). Gà Sasso có khả năng chống đỡ bệnh tật tốt. Chất lượng thịt của gà Sasso tất tốt, săn chắc.
1.5.3.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Những năm gần đây, do nhu cầu về thực phẩm tăng cao, để đáp ứng được nhu cầu thị trường tại nhiều nước phát triển như Pháp, Trung Quốc, Isarel… các nhà khoa học đã nghiên cứu và lai tạo ra nhiều giống gà công nghiệp cao sản hướng thịt, hướng trứng còn chú ý đến việc tạo ra những giống gà lông màu có chất lượng thịt ngon, hợp thị hiếu của người tiêu dùng.
Năm 1987, hãng Sasso được thành lập ở vùng Sabert- Cộng hoà Pháp. Với mục tiêu là tạo ra tổ hợp lai gà thịt lông màu có thể nuôi thâm canh, thả vườn hoặc ở các trang trại. Hiện nay hóng đó chọn lọc, lai tạo ra 18 dòng với mục đích sử dụng khác nhau:
Dòng nhẹ cân hoặc nặng cân.
Lông đỏ, đen, xám hoặc trắng.
Da vàng hoặc trắng, chân đen, xám hoặc vàng.
Trụi cổ hay có lông cổ.
Về dũng mỏi, hóng Sasso có 6 dòng nhằm đáp ứng các yêu cầu sử dụng như: lùn hoặc chắc khoẻ, nặng cân hoặc nhẹ cân, tự phân biệt giới tính hoặc không.
Gà Sasso gồm 4 dòng gà ông bà: 2 dòng trống A, B và 2 dũng mỏi C, D từ năm 1985.
+ Dòng trống
Dòng A lông màu đỏ Lai
Kí hiệu X40 X40 ì X04 – X44 dòng trống
Dòng A lông màu đỏ
Kí hiệu X04
+ Dòng trống
Dòng C lông màu đỏ Lai
Kí hiệu S30 → S 30 ì A 01 –SA 31L dũng mỏi
Dòng D lông màu trắng
Kí hiệu A 01
Lai tạo con thương phẩm X44 SA 31L – gà Broiler 4 máu X 4431L.
Dũng mái SA31L phân biệt được trống mái theo màu lụng lỳc mới nở (1 ngày tuổi ), con mái SA31L có màu lông đỏ, con trống có màu lông hơi trắng, thường dũng mỏi bố mẹ được tạo ra con trống, con mái phân biệt được màu lông, con mái mang màu lông của bố ( S30- lông đỏ) còn con trống mang màu lông của dũng mẹ ( A01- lông trắng).
Các giống gà này có khả năng thích nghi cao, dễ nuôi ở các điều kiện nóng ẩm, sức kháng bệnh tốt, chất lượng thịt thơm ngon.
Phần 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Gà Sasso thương phẩm, từ 0 đến 8 tuần tuổi
Men phytase 5000
Dinh dưỡng cho gà thí nghiệm áp dụng theo tiêu chuẩn khuyến cáo thức ăn chăn nuôi Việt Nam.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Xã Thanh Thủy_Thanh Liờm_Hà Nam.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Từ ngày 21/2/2011 đến ngày 20/5/2011
2.2. Nội dung chuyên đề
2.2.1. Công tác phục vụ sản xuất
Công tác thú y
Công tác chăn nuôi
2.2.2. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá ảnh hưởng của việc bổ sung men phytase trong khẩu phần đến sinh trưởng và phòng bệnh của gà Sasso từ 0 – 8 tuần tuổi.
2.2.2.1. Ảnh hưởng của việc bổ sung men phytase đến khả năng sinh trưởng của gà thí nghiệm.
-Sinh trưởng tích lũy (kg/ con)
-Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày)
-Sin
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 241.doc