Chuyên đề Phân tích động thái giá cổ phiếu và tính thanh khoản của một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam

MỤC LỤC

 

Lời mở đầu 3

Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán và cơ sở lý thuyết của các công cụ toán tài chính 6

1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán (TTCK) .6

1.1.1. Khái niệm, vai trò và nguyên tắc hoạt động của TTCK .6

1.1.2. Chứng khoán .11

1.1.3. Thị trường chứng khoán Việt Nam 16

1.2. Lý thuyết về các công cụ toán tài chính .18

1.2.1. Lý thuyết về kinh tế lượng .18

1.2.2. Lý thuyết mô hình định giá tài sản tài chính .19

1.2.2.1. Mô hình chỉ số thị trường (mô hình chỉ số đơn) .19

1.2.2.2. Mô hình CAPM 20

1.2.2.3. Một số đặc điểm trong động thái giá cổ phiếu .25

1.2.2.4. Mô hình chuyển động Brown hình học .25

1.2.2.5. Mô hình phục hồi trung bình ( Mean Reversion Model) 28

Chương 2: Phân tích động thái giá và tính thanh khoản của một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán VN 29

2.1. Đánh giá sơ bộ về bốn cổ phiếu được chọn .29

2.1.1. Sử dụng mô hình chỉ số thị trường .29

2.1.1.1. Kiểm định tính dừng của các cổ phiếu .29

2.1.1.2. Áp dụng mô hình chỉ số thị trường .30

2.1.2. Sử dụng mô hình CAPM 34

2.2. Phân tích động thái giá của cổ phiếu .36

2.2.1. Học thuyết về tính ngẫu nhiên ( Random Walk) 36

2.2.2. Những yếu tố quyết định giá chứng khoán 37

2.2.2.1. Các yếu tố cơ bản .37

2.2.2.2. Các yếu tố kỹ thuật 38

2.2.2.3. Trạng thái thị trường .39

2.2.3.Giới thiệu về chỉ số P/E và M/B .40

2.2.4. Một số nguyên lý cơ bản 43

2.2.5. Sử dụng mô hình cây nhị phân mô tả động thái giá .44

2.2.5.1. Mô hình .44

2.2.5.2. Áp dụng cho cổ phiếu trên thị trường Việt Nam .44

2.2.5.3. Nhận xét .45

2.2.6. Mô tả động thái giá bằng mô hình chuyển động Brown .46

2.2.6.1. Khái niệm Martingale 46

2.2.6.2. Lập luận của mô hình GBM .47

2.2.6.3. Kiểm định và ước lượng các tham số 47

2.2.7. Áp dụng mô hình phục hồi trung bình

để phân tích diễn biến giá .50

2.2.7.1. Áp dụng đối với chuỗi giá cổ phiếu .51

2.2.7.2. Nhận xét về các kết quả .60

2.3. Phân tích tính thanh khoản của chứng khoán 64

2.3.1. Khái niệm về tính thanh khoản (liquidity) .64

2.3.2. Sử dụng OLS để tìm hiểu tính thanh khoản của cổ phiếu .65

Kết luận 69

Phụ lục 1 : Kiểm định cho chuỗi lợi suất của bốn cổ phiếu .71

Phụ lục 2 : Mô hình cây nhị phân 77

Phụ lục 3: Kiểm định các khuyết tật của mô hình xác định

tham số của mô hình phục hồi trung bình .79

Phụ lục 4: Kiểm định tính dừng cho chuỗi giá & khối lượng cổ phiếu .82

Danh mục tài liệu tham khảo .87

 

doc87 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3970 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích động thái giá cổ phiếu và tính thanh khoản của một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một phương án đầu tư. Với việc chấp nhận một độ rủi ro nhất định đối với một phương án đầu tư. SML cho chúng ta biết lợi nhuận thu được của phương án đầu tư đó phải là bao nhiêu mới có thể bù đắp được rủi ro mà các nhà đầu tư phải gánh chịu. Xuất phát từ ý nghĩa của SML, tất cả các chứng khoán nếu được định giá chính xác nhất thiết phải nằm trên đường SML. Với những điểm nằm phía trên hoặc dưới đường SML đều biểu hiện tình trạng giá không phản ánh đúng giá trị cân bằng trên thị trường. Nếu là điểm nằm phía trên đường SML, chứng khoán đó được định giá thấp hơn giá trị thực sự của chúng. Trong trường hợp này, các nhà đầu tư nên mua lại chứng khoán đó. Ngược lại, nếu là điểm nằm dưới đường SML, không nên mua loại chứng khoán đó vì giá của chúng cao hơn giá trị thực sự của chúng. Đối với các Công Ty đang chuẩn bị cho một dự án đầu tư mới, CAPM đưa ra một mức lợi suất yêu cầu phải đạt được cho dự án đầu tư trên sở sở những thông số của hệ số bêta được các nhà đầu tư chấp nhận. Như vậy, đối với các phương án đầu tư khác nhau, CAPM sẽ quyết định phương án nào tối ưu nhất để lựa chọn. Như cậy mô hình định giá tài sản vốn là một học thuyết kinh tế mô tả mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất ước tính. Nói một cách khác, đầy là mô hình định giá cho những chứng khoán có nguy cơ rủi ro. CAPM cho rằng rủi ro hệ thống là mối quan tâm đối với các nhà đầu tư vì chúng không thể loại bỏ được bằng biện pháp đa dạng hoá đầu tư. Có rất nhiêu những lý thuyết khác nhau được sử dụng trong việc nghiên cứu đầu tư theo danh mục đầu tư, tuy nhiên mấu chốt của việc đầu tư theo danh mục là việc chúng ta nghiên cứu những đặc trưng của tài sản tài chính những cách thực dùng để xác định rủi ro mà tài sản đó đem lại và việc xác định xem liệu một tài sàn tài chính đang được đánh giá đúng giá trị hay trên giá trị hoặc ngược lại. Đồng thời nghiên cứu những nhân tố cấu thành nên một danh mục đầu tư, những đặc trưng của việc đầu tư vào một danh mục so với việc đầu tư vào những tài sản tài chính riêng lẻ E( Ri ) = rf + β i [E(RM) – rf ] E( Ri ) : lîi suÊt k× väng cña cæ phiÕu i rf : lợi suất phi rủi ro trên thị trường. E(RM) : lợi suất kì vọng của danh mục thị trường. i : thước đo về mức độ rủi ro = cov (ri, rM) i var ( rM) [ E(RM) – rf ] : phÇn bñ rñi ro cña danh môc thÞ tr­êng. Trên thực tế có thể thay thế danh mục thị trường M bằng 1 chỉ số có tính chất đại diện cho toàn bộ thị trường. Đối với thị trường VN, ta sẽ sử dụng chỉ số VN-Index. 1.2.2.3. Một số đặc điểm trong động thái giá cổ phiếu. * Quá trình giá cổ phiếu là 1 quá trình ngẫu nhiên trong ( , P ,F ) F là các thông tin mà mọi nhà đầu tư có thể tiếp cận. Trong thực tế, Ft là tập thông tin bao gồm giá của cổ phiếu tính đến thời điểm t. Động thái giá cổ phiếu là quá trình diễn biến giá theo thời gian. * Đặc điểm của động thái giá: - St > 0 - Xét về dài hạn, quá trình giá { St } có xu thế tăng do có sự tăng trưởng của cổ tức và thu nhập nên quá trình lợi suất tương ứng { rt} cũng có xu thế tăng về dài hạn. - Trong 1 khoảng thời gian ngắn và điều kiện bình thường của thị trường thì giá cổ phiếu có thay đổi nhỏ. Xét trong khoảng thời gian dài hơn mức độ biến động giá lớn hơn. * Đặc điểm của quĩ đạo giá: - Do quá trình giá thay đổi diễn biến với thời gian rời rạc tương ứng với việc ta cập nhật thị giá tại từng thời điểm nên quĩ đạo giá sẽ là đường gấp khúc liên tục. - Quỹ đạo giá không cắt trục hoành. - Tại 1 thời điểm t bất kì trên trục thời gian khoảng chênh lệch giữa giá trị trung bình tại t với giá trị ban đầu càng lớn nếu chúng ta càng đi xa. - Khoảng cách giữa 2 quỹ đạo giá sẽ tăng theo thời gian: t’ > t nếu t’ > t 1.2.2.4. Mô hình chuyển động Brown hình học ( GBM- Geometrics Brownian Motion) hay mô hình Samuelson. Mô hình này do Paul Samuelson đề xuất năm 1965. Đã có rất nhiều chương trình nghiên cứu về thị trường cổ phiếu đã được thực hiện và phát triển xoay quanh mô hình chuyển động Brown. Chẳng hạn, theo một phân tích thống kê đối với thị trường cổ phiếu New York được thực hiện bởi R. N. Mantegna, những biến động hàng ngày của chỉ số giá được phân bố theo một phân bố bền Levy và mật độ phổ của chỉ số giá là gần với mật độ phổ trong chuyển động Brown. Một nghiên cứu khác là công trình của William Smith, người đã sử dụng phương pháp chuyển động Brown để phân tích các hiệu ứng ổn định giá trong đầu tư khi nhu cầu là bất định. Ông đã khảo sát các đặc điểm của sự đầu tư khi giá là ngẫu nhiên, ngoài sự phụ thuộc vào giá trần ngoại sinh. Với các phương trình toán học của chuyển động Brown, ông đã tính ra rằng, những điều khiển giá sẽ làm giảm nhẹ sự phản ứng của việc đầu tư đối với những thay đổi về giá, thậm chí cả khi những điều khiển là không bắt buộc. Những kết luận được rút ra có thể áp dụng cho bất cứ trạng thái kinh tế nào liên quan đến những chi phí cho việc điều chỉnh các cổ phiếu khi giá là bất định nhưng phụ thuộc vào sự điều khiển của chính phủ. Những áp dụng của lý thuyết ngẫu nhiên này thực ra là rất sâu và rộng. Trong lĩnh vực kinh tế, các biến cố ngẫu nhiên có tác dụng thúc đẩy sự đổi mới. Nếu chúng ta mà biết được chính xác điều gì sẽ đến thì có lẽ không cần phải học hành hay nghiên cứu gì nữa. Ở đây không có gì đảm bảo là chúng ta sẽ thắng lớn trong một vụ buôn cổ phiếu nhờ vào hiểu biết về chuyển động Brown, bởi vì nó chỉ đơn giản là đem lại cho chúng ta một cách tiếp cận để hiểu về sự vận động của các thị trường cổ phiếu. Tuy nhiên, dù sao thì lý thuyết về chuyển động Brown cũng giúp chúng ta có khả năng tốt hơn trong việc phát triển các chiến thuật đầu tư cũng như đánh giá rủi ro.   - Mô hình dạng rời rạc: St = .St t + . St. t . Trong đó: St : sự biến động của giá cổ phiếu trong chu kì t : là hằng số. t : là nhiễu trắng dạng Gausian - Mô hình dạng liên tục: dSt = . St .dt + . St.dB (1) Quá trình giá cổ phiếu tuân theo mô hình GBM nếu thoả mãn (1) : drift rate : volatility or variance rate Xét quá trình giá cổ phiếu {St } được mô phỏng bằng (1) thì với xt = lnSt áp dụng công thức Itô cho xt ta có: Công thức Itô dạng liên tục: dxt = 2 dt + dB 2 {xt }là quá trình ngẫu nhiên tổng quát. Dạng rời rạc: xt = 2. t + t . t ~ NID ( 0, 1) 2 - Kiểm định và ước lượng các tham số a) Kiểm định xem quá trình St có tuân theo mô hình GBM không? Để kiểm định điều này ta kiểm định xem xt có phải là quá trình AR (1) xt = 0 + xt-1 + vt (2) kiểm định giả thiết H0 : = 1 H1 : < 1 Nếu giả thiết H0 được chấp nhận thì quá trình ln của giá cổ phiếu là quá trình ngẫu nhiên (random walk) và cũng có nghĩa là quá trình St tuân theo mô hình GBM. b) Ước lượng các tham số: ước lượng phương trình (2) bằng phương pháp OLS thu được 0, 0= - 2 2 1.2.2.5. Mô hình phục hồi trung bình ( Mean Reversion Model) { St } là quá trình phục hồi trung bình nếu: - Mô hình: lnSt = xt Động thái của nó được mô tả: Dạng liên tục: dx = ( x – x ) dt + . dB : tốc độ phục hồi trung bình; x : mức cân bằng dài hạn Dạng rời rạc: x= ( x – x ). t + . t xt = x ( 1- e-- ) + ( e- - 1 ) xt-1 + vt vt ~NID ( 0, 2v) - Kiểm định và ước lượng tham số của mô hình: xt = 0 + xt-1 + vt sử dụng kiểm định unit root test kiểm định giả thiết: H0 : = 0 H1 : < 0 Nếu bác bỏ giả thiết H0 quá trình phục hồi trung bình không phải GBM. x = - 0 = - ln ( 1+ ) = 0. 2 ước lượng (3) bằng OLS . Chương 2 : Phân tích động thái giá và tính thanh khoản của một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán VN Trong chuyên đề này, em sử dụng 4 cổ phiếu là cổ phiếu của những công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp khai thác; xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng được niêm yết trên trung tâm giao dịch HCM gồm : BMC : công ty khoáng sản Bình Định. HBC : công ty cổ phần xây dựng và kinh doanh địa ốc Hoà Bình. MCV : công ty Cavico VN khai thác mỏ và xây dựng SJS : công ty cổ phần đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp sông Đà 2.1. Đánh giá sơ bộ về bốn cổ phiếu được chọn. 2.1.1. Sử dụng mô hình chỉ số thị trường. 2.1.1.1. Kiểm định tính dừng của các cổ phiếu. C¸c sè liÖu ph©n tÝch dùa trªn lîi suÊt cña c¸c cæ phiÕu. Lîi suÊt lµ chuçi thêi gian do gi¸ cæ phiÕu lµ chuçi thêi gian. Lîi suÊt cña cæ phiÕu ®­îc tÝnh b»ng: Rt=ln St-St-1 St: gi¸ cæ phiÕu phiªn thø t St-1 St-1: gi¸ cæ phiÕu phiªn thø t-1 * Cổ phiếu BMC : chuỗi lợi suất của cổ phiếu RBMC Kiểm định nghiệm đơn vị (unit root test) cho ta kết quả : qs = 4.301 > 0.01 = 3.5437 theo tiêu chuẩn ADF chuỗi là > 0.05 = 2.9109 chuỗi dừng. > 0.1 = 2.5928 * Cổ phiếu HBC : RHBC Theo tiêu chuẩn ADF, chuỗi lợi suất cổ phiếu HBC là chuỗi dừng. * Cổ phiếu MCV : RMCV Kiểm định nghiệm đơn vị cho kết quả chuỗi lợi suất của cổ phiếu MCV là chuỗi dừng. * Cổ phiếu SJS : RSJS Theo tiêu chuẩn ADF, chuỗi lợi suất của cổ phiếu SJS là chuỗi dừng. 2.1.1.2. Áp dụng mô hình chỉ số thị trường. * Cổ phiếu BMC : RBMC = BMC + BMC.I RI + BMC Ước lượng mô hình bằng phương pháp OLS ta thấy giá trị P-value tương ứng với giá trị của hệ số biến độc lập là bằng 0 với mức ý nghĩa 5%. Sử dụng kiểm định Wald test cũng cho kết luận hệ số BMC.I bằng 0. với mức ý nghĩa 5%, biến RI không có ảnh hưởng đến biến RBMC . * Cổ phiếu HBC : RHBC = HBC + HBC.I RI + HBC Ước lượng mô hình bằng phương pháp OLS ta thấy giá trị P-value tương ứng với giá trị của hệ số biến độc lập là bằng 0 với mức ý nghĩa 5%. Sử dụng kiểm định Wald test cũng cho kết luận hệ số HBC.I bằng 0. * Cổ phiếu MCV : RMCV = MCV + MCV.I RI + MCV Ước lượng mô hình bằng phương pháp OLS ta thấy giá trị P-value tương ứng với giá trị của hệ số biến độc lập là khác 0 có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%. + Kiểm định các khuyết tật của mô hình : - Kiểm định giả thiết : H0: phương sai sai số đồng đều H1: phương sai sai số thay đổi Sử dụng kiểm định White ta có kết quả : Chấp nhận giả thiết H0 hay mô hình có phương sai sai số đồng đều. - Kiểm định giả thiết : H0: không tồn tại tự tương quan bậc 1 H1: có tồn tại tự tương quan. Sử dụng kiểm định Breusch-Godfrey (BG) : Mô hình không tồn tại tự tương quan bậc 1. - Kiểm định giả thiết : H0: dạng hàm đúng H1 : dạng hàm sai. Mô hình có dạng hàm đúng. Như vậy, mô hình ước lượng được là một mô hình chấp nhận được. Ta có : MCV.I = 0.0023 < 1 nên cổ phiếu MCV là một tài sản thụ động. * Cổ phiếu SJS : RSJS = SJS + SJS.I RI + SJS Ước lượng mô hình bằng phương pháp OLS ta thấy giá trị P-value tương ứng với giá trị của hệ số biến độc lập là bằng 0 với mức ý nghĩa 5%. Sử dụng kiểm định Wald test cũng cho kết luận hệ số SJS.I bằng 0. Nhận xét: - Ba cổ phiếu BMC, HBC, SJS không chịu ảnh hưởng của thị trường. - Cổ phiếu MCV là cổ phiếu thụ động hay là mức độ biến động của cổ phiếu MCV so với biến động chung của thị trường là yếu hơn. 2.1.2. Sử dụng mô hình CAPM. * Mô hình : E(Ri) = rf + i ( E(RM) – rf). Từ mô hình ta có, phần bù rủi ro hay là phần trội hơn của cổ phiếu i so với tài sản phi rủi ro(ở đây ta sử dụng tài sản phi rủi ro này là trái phiếu chính phủ) được xác định bằng : E(Ri) – rf Dựa vào chuỗi lợi suất của 4 cổ phiếu và của chuỗi lợi suất VN_Index ta có các kết quả sau : + Bảng các mô tả thống kê : + Ma trận V : BMC HBC MCV SJS Cov (Ri , RI) 0.0000209 0.000138 0.000252 0.0000562 Var ( Ri) 0.000854 0.001153 0.001448 0.015237 Beta(i) i 0.04838 0.3194 0.5833 0.1301 E( Ri) = Ri 0.033302 - 0.003126 - 0.000919 0.002307 Phần bù rủi ro (%/năm) 1206.975 % - 122.647 % - 42.0918 % 75.6572 % Sử dụng lợi suất phi rủi ro rf = 8.55% /năm = 0.02342% /ngày (theo trái phiếu chính phủ CP061230 kỳ hạn 10 năm). Nhận xét: các kết quả trên được tính toán hoàn toàn dựa trên lý luận về mặt lý thuyết với rất nhiều các giả thiết về mô hình và điều kiện thị trường nhưng đã cung cấp cho chúng ta các con số ước lượng tương đối khả quan bởi sự phù hợp với diễn biến thực tế trên thị trường. Chẳng hạn như cổ phiếu BMC, lên sàn cùng đợt với FPT giá chào sàn rất thấp 50.000 đồng/cổ phiếu nhưng giá của BMC đã tăng lên một cách chóng mặt và đến ngày 10/4/2007, BMC đã chính thức vượt qua FPT. Thị giá trong ngày 10/04 của BMC là 525.000 đồng/cổ phiếu và ngày 11/04 là 551.000 đồng/cổ phiếu. Kết quả giao dịch của BMC sau ba tháng rưỡi nhập cuộc thị trường, cùng một lần giải trình biến động giá là một tỷ lệ tăng trưởng 1.000% , thị giá BMC đã gấp 11 lần lúc chào sàn. Kết quả tính phần bù rủi ro cho BMC = 1206.975% /năm cũng phần nào phản ánh được diễn biến giá của cổ phiếu này. Lợi nhuận kì vọng của một chứng khoán có quan hệ đồng biến với rủi ro của chứng khoán đó. Nhà đầu tư kỳ vọng chứng khoán rủi ro cao sẽ có lợi nhuận cao và ngược lại vì nhà đầu tư chỉ giữ chứng khoán có rủi ro cao chỉ khi lợi nhuận kỳ vọng đủ bù đắp rủi ro. Tuy nhiên thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian phát triển chưa đủ dài và có nhiều loại cổ phiếu mới chỉ tham gia niêm yết, biến động giá còn bị hạn chế bởi các quy định, biến động giá cổ phiếu chủ yếu là tác động tâm lý và một số yếu tố phi thị trường do kiến thức về thị trường chứng khoán của phần đông các nhà đầu tư còn hạn chế, chủ yếu mua bán theo tâm lý “ bầy đàn” và do ảnh hưởng của những tin đồn. 2.2. Phân tích động thái giá của cổ phiếu. 2.2.1. Học thuyết về tính ngẫu nhiên ( Random Walk). Một cách khái quát, người ta có thể thấy rằng: bất cứ một thông tin nào được sử dụng để dự đoán diễn biến của cổ phiếu đã được phản ánh hoàn toàn trong giá của cổ phiếu đó. Nếu như còn những thông tin khác chỉ ra rằng giá của cổ phiếu đang bị đánh giá dưới giá trị thực tế của nó, các nhà đầu tư sẽ ngay lập tức sẽ bổ sung thêm cổ phiếu đó vào danh mục đầu tư của mình, cung về cổ phiếu tăng dẫn đến giá của nó được đẩy lên ở mức hợp lí. Tại mức giá hợp lí này, lợi suất của nó đúng bằng lợi suất bình thường đủ để bù đắp rủi ro cho nhà đầu tư khi nắm giữ cổ phiếu. Nếu còn có những thông tin chỉ ra giá cổ phiếu bị đẩy lên quá cao vựơt quá giá thực của nó, nhà đầu tư cũng sẽ nhận ra rằng mình đang nắm gĩư cổ phiếu rủi ro cao hơn lợi ích kỳ vọng. Họ sẽ nhanh chóng bán cổ phiếu đi làm giá cổ phiếu giảm xuống trở về mức giá hợp lí. Nhưng giả thiết rằng tất cả những thông tin ta đều có thể tiếp cận, giá của cổ phiếu chỉ tăng hay giảm khi xuất hiện những thông tin được coi là mới. Những thông tin mới là những thông tin không thể dự đoán được. Nếu là loại thông tin dự đoán đựơc thì dự đoán đó đã sẵn sàng phản ánh trong giá cổ phiếu ngày hôm nay. Chẳng hạn, thời điểm cuối tháng ba đầu tháng tư hiện nay đang là “mùa” đại hội cổ đông của các công ty niêm yết nhưng các thông tin chia cổ tức thưởng cổ phiếu với tỷ lệ cao cũng không làm cho cổ phiếu của một doanh nghiệp nào thoát khỏi đợt điều chỉnh giá của thị trường. Điều này khác hẳn với diễn biến tháng 2, chỉ cần một tin dự đoán công ty chia, thưởng cổ phiếu giá sẽ tăng kịch trần liên tục. Sở dĩ như vậy vì thông tin đó không còn là mới nó đã được dự đoán và đã được phản ánh vào giá của cổ phiếu trước đó rồi. Đây là cốt lõi của lý luận cho rằng giá của cổ phiếu diễn biến một cách ngẫu nhiên. Tính ngẫu nhiên của việc thay đổi giá khác với tính không hợp lý trong mức giá. Nếu giá được xác lập một cách hợp lý thì chỉ những thông tin mới mới tạo ra thay đổi giá. Vì vậy, tính ngẫu nhiên sẽ là kết quả tất yếu của giá khi giá này đã bao hàm tất cả những thông tin hiện tại. Nếu giá của cổ phiếu có thể dự đoán được thì đây là bằng chứng của thị trường không hiệu quả bởi các thông tin chưa được phản ánh vào trong giá. Như vậy, một thị trường được coi là thị trường hiệu quả nếu giá của cổ phiếu phản ánh tất cả các thông tin hiện có trên thị trường. 2.2.2. Những yếu tố quyết định giá chứng khoán. Không có một công thức chính xác để xác định khả năng thay đổi giá cổ phiếu trên thị trường. Nhưng có thể xác định được các yếu tố có khả năng tác động đến giá cổ phiếu gồm ba nhóm: cơ bản, kỹ thuật và trạng thái thị trường. 2.2.2.1. Các yếu tố cơ bản Trên thị trường, giá cổ phiếu được xác định dựa trên nền tảng các yếu tố cơ bản là: (1) tình hình lợi nhuận (thí dụ chỉ tiêu thu nhập trên mỗi cổ phiếu – EPS) và (2) hệ số định giá (thí dụ hệ số giá trên thu nhập mỗi cổ phiếu – P/E). EPS là thước đo để xác định phần lợi nhuận công ty tạo ra trên mỗi cổ phiếu. Vì vậy, khi mua một cổ phiếu nào đó nghĩa là bạn mua một phần tương ứng của dòng lợi nhuận công ty có thể tạo ra trong tương lai. Đây chính là cơ sở cho việc xác định P/E, hay P/E thể hiện mức giá bạn sẵn sàng trả cho một phần của dòng lợi nhuận được hưởng trong tương lai từ việc đầu tư vào cổ phiếu đó. Một phần của dòng lợi nhuận được tạo ra này sẽ được chia dưới dạng cổ tức hay cổ phiếu thưởng; phần còn lại sẽ được công ty giữ lại để tái đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Dòng lợi nhuận tương lai là kết quả của mức lợi nhuận hiện tại và tỷ lệ tăng trưởng trong tương lai.  Cần lưu ý rằng, EPS là một thước đo phổ biến, nhưng ngoài ra còn có những thước đo kế toán khác cũng được sử dụng để đánh giá tình hình lợi nhuận, thí dụ như cổ tức trên mỗi cổ phiếu hay dòng tiền trên mỗi cổ phiếu. Đồng thời, bản thân EPS cũng có thể được điều chỉnh theo những nguyên tắc tài chính nhằm tạo ra những con số phản ánh chính xác hơn về tình hình lợi nhuận của công ty. Đối với hệ số định giá như P/E, thước đo này được quyết định bởi tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận trong tương lai và tỷ lệ chiết khấu được dùng để quy dòng lợi nhuận trong tương lai về giá trị hiện tại. Nghĩa là một công ty có tỷ lệ tăng trưởng dự kiến cao sẽ dẫn đến hệ số định giá cao, nhưng tỷ lệ chiết khấu cao sẽ khiến cho hệ số định giá thấp. Tỷ lệ chiết khấu phụ thuộc vào mức độ rủi ro của loại cổ phiếu đó những yếu tố vĩ mô như lạm phát hay lãi suất cơ bản trong nền kinh tế. 2.2.2.2. Các yếu tố kỹ thuật Trên thực tế, ngoài những yếu tố cơ bản (bên trong) kể trên, một số yếu tố kỹ thuật (bên ngoài) cũng có những tác động đến tình hình cung-cầu của một loại cổ phiếu trên thị trường. Một số yếu tố này ảnh hưởng một cách gián tiếp đến các yếu tố cơ bản. * Lạm phát. Ngoài tác động đến hệ số định giá đối với cổ phiếu đã đề cập trên đây, lạm phát còn là một yếu tố kỹ thuật quan trọng. Kết quả nghiên cứu thực chứng cho thấy mức độ lạm phát có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với hệ số định giá cổ phiếu. Tình trạng giảm phát trong nền kinh tế nhìn chung ảnh hưởng tiêu cực đến giá cổ phiếu. * Triển vọng của ngành. Giá cổ phiếu của một công ty thường gắn với triển vọng chung của nền kinh tế và của ngành. Có một số nghiên cứu cho thấy rằng không phải kết quả hoạt động riêng lẻ của một công ty, mà là sự kết hợp giữa tình trạng chung của nền kinh tế và triển vọng của một ngành là yếu tố chính quyết định mức giá cổ phiếu của một công ty trong ngành đó. * Các loại tài sản đầu tư thay thế. Cổ phiếu công ty phải cạnh tranh thu hút nguồn vốn đầu tư với nhiều loại tài sản đầu tư khác nhau trên thị trường, thí dụ như trái phiếu chính phủ, bất động sản, vàng hay các loại ngoại tệ. * Các giao dịch bất thường: là việc mua hay bán cổ phiếu xuất phát từ những lý do khác, không dựa trên cơ sở giá trị nội tại của loại cổ phiếu đó. Những giao dịch này bao gồm giao dịch của các cổ đông nội bộ trong công ty hay giao dịch cổ phiếu quỹ, thường theo kế hoạch được công bố trước. Mặc dù những giao dịch này không phải là các dấu hiệu để khẳng định giá cổ phiếu sẽ lên hay xuống nhưng trong một chừng mực nào đó có thể tác động đến cung-cầu cổ phiếu, do đó tác động đến giá cổ phiếu. * Tính thanh khoản của một loại cổ phiếu phản ánh mức độ quan tâm của công chúng đầu tư. Khối lượng giao dịch thường là một thước đo của tính thanh khoản. * Xu thế giá. Thông thường, giá cổ phiếu biến động theo những xu thế ngắn hạn. Khi giá một loại cổ phiếu tăng sẽ hấp dẫn người đầu tư tham gia và tiếp tục tăng giá. Ngược lại, điều tương tự cũng xảy ra với xu thế giảm giá. Điều đáng nói là những xu thế này chỉ trở nên rõ ràng khi nhìn lại những gì đã qua, còn trên thực tế khó có thể xác định được những xu thế đó. * Nhân khẩu học. Từ thực tế các nhà đầu tư ở tuổi trung niên thường đầu tư dài hạn vào các loại cổ phiếu còn người đầu tư lớn tuổi thường chuyển từ cổ phiếu sang các loại tài sản đầu tư khác để phục vụ cho chế độ nghỉ hưu, các nghiên cứu nhân khẩu học cho thấy khi người trung niên chiếm tỷ trọng lớn trong công chúng đầu tư, sức cầu đối với cổ phiếu cũng cao hơn và hệ số định giá (P/E) cũng cao hơn. 2.2.2.3. Trạng thái thị trường Trạng thái thị trường liên quan đến trạng thái tâm lý của từng thành viên tham gia thị trường. Đây có lẽ là nhóm các yếu tố phức tạp nhất, vì vai trò hết sức quan trọng của chúng được biết tới trong sư biến động giá cổ phiếu trên thị trường, nhưng những hiểu biết về chúng mới chỉ là bắt đầu. Mỗi người đầu tư đều có thể đưa ra các quyết định đầu tư cổ phiếu của mình trên cơ sở các yếu tố khác nhau. Những người đầu tư ngắn hạn và các nhà giao dịch chứng khoán thường ưu tiên các yếu tố kỹ thuật. Người đầu tư dài hạn chú trọng đến các yếu tố cơ bản, song cũng nhận thấy tầm quan trọng của các yếu tố kỹ thuật. Các yếu tố kỹ thuật và trạng thái thị trường thường quyết định giá chứng khoán trong ngắn hạn, nhưng các yếu tố cơ bản sẽ quyết định giá chứng khoán về dài hạn. 2.2.3. Giới thiệu về hai chỉ số P/E và M/B. Giá cổ phiếu và sự biến động của nó Giá của cổ phiếu hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả hoạt động kinh doanh hay “sức khỏe” của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp hoạt động ổn định mà không gặp phải những biến cố bất ngờ dẫn đến phải thanh lý hay phá sản thì dòng tiền mà người nắm giữ cổ phiếu nhận được là cổ tức được chia hàng năm. Con số này có sự dao động và đôi khi cũng có những khoản bất thường nào đó, nhưng nhìn chung bình quân trong dài hạn nó chính là lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Về bản chất, giá cổ phiếu do dòng tiền này và sự biến động của nó quyết định và sự nóng lên của thị trường là do sự tăng giá của các cổ phiếu gây ra. Giá trị sổ sách, giá trị thị trường và tỷ số M/B Giả sử một doanh nghiệp mới thành lập phát hành 1 triệu cổ phiếu lần đầu để huy động 10 tỷ đồng thực hiện một dự án đem lại suất sinh lợi 20% một năm mãi mãi, đây cũng là suất sinh lợi yêu cầu (lãi suất) đối với hoạt động kinh doanh mới và rủi ro này. Giá một cổ phiếu lúc này sẽ là 10 nghìn đồng và bằng đúng mệnh giá của nó. Doanh nghiệp nhận được 10 tỷ đồng ghi vào mục vốn chủ sở hữu trong bảng cân đối kế toán của mình. Con số này được gọi là giá trị số sách ban đầu của cổ phiếu hay vốn chủ sở hữu. Thêm vào đó, sau một số năm hoạt động có lợi nhuận, doanh nghiệp không chia hết cho các cổ đông mà giữ lại một phần (giả sử là 10 tỷ) thì lúc này giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu sẽ là 20 tỷ đồng. Như vậy giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu hay cổ phiếu chính là số tiền thu được từ việc bán cổ phiếu cộng với các khoản thặng dư cũng như lợi nhuận giữ lại của doanh nghiệp. Đây chính là số tiền thực tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp nói riêng, giá trị gia tăng cho nền kinh tế nói chung. Sau khi hoàn tất dự án nêu trên, người ta mới biết rằng, tỷ suất lợi nhuận sau thuế bình quân của doanh nghiệp đạt được lên đến 40% một năm mãi mãi chứ không phải chỉ 20% như ước tính ban đầu. Lúc này, giá cổ phiếu sẽ tăng lên 20 nghìn đồng, giá trị vốn hóa thị trường (số cổ phiếu nhân với giá thị trường của cổ phiếu) sẽ là 20 tỷ đồng, và tỷ số M/B giữa giá thị trường (Market value) và giá trị sổ sách (Book value) của cổ phiếu sẽ là 2 thay vì 1 như ban đầu. Sau một thời gian, hoạt động ổn định, rủi ro của doanh nghiệp giảm đi nên suất sinh lợi yêu cầu của cổ phiếu này giảm dần xuống còn 10%, thay vì 20% như trước thì giá cổ phiếu trên thị trường sẽ là 40 nghìn và tỷ số M/B sẽ bằng 4. Ý nghĩa của giá trị sổ sách chính là số tiền thực sự được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp và giá trị gia tăng cho nền kinh tế; ý nghĩa của giá thị trường là mức độ kỳ vọng của công chúng vào khả năng tạo ra tiền trong tương lai của doanh nghiệp; và tỷ số M/B thể hiện lợi nhuận mà một đồng tiền thực tạo sẽ phải gánh cho M/B đồng kỳ vọng. Hơn thế nữa, khi nhìn vào tỷ số này và số vốn hóa thị trường sẽ biết thực tế có bao nhiều tiền thực sự đang được đưa vào nền kinh tế (đương nhiên là ở nhiều thời điểm khác nhau). Nhìn chung, tỷ số M/B thường lớn hơn 1, thực nghiệm cho thấy, tỷ số này thường dao động từ 2 đến 3 là hợp lý. Ở các nước đang phát triển, trong những thời điểm thị trường đang nóng, chỉ số này cũng chỉ dao động quanh 4 là cùng. Nhìn chung, việc doanh nghiệp có tỷ số M/B lớn hơn 4 phải là những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh rất tốt có rất nhiều triển vọng và khó có thể thất bại như Google, IBM, Microsoft..., nếu không con số như vậy sẽ là rất bất thường. P/E và ý nghĩa của nó P/E là tỷ số giữa giá cổ phiếu (Price) và thu nhập trên một cổ phiếu (EPS- Earning Per Share) trong một niên độ kế toán. Con số này có thể hiểu rằng để có thể nhận được một đồng từ cổ tức trong tương lai, người ta sẽ phải bỏ P/E đồng hiện tại. Nói một cách đơn giản, nếu công ty đã đi vào hoạt động ổn định, lợi nhuận các năm là như nhau (thực tế là có thay đổi, nhưng bình quân các năm dao động quanh một con

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích động thái giá cổ phiếu và tính thanh khoản của một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán VN.DOC
Tài liệu liên quan