FDI ở Việt Nam là nguồn vốn đầu tư phát triển xã hội, đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng nền kinh tế. Theo đánh giá của Cục Đầu tư nước ngoài, vốn FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đóng góp vào ngân sách và các cân đối vĩ mô, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác. Trong năm 2008 có khoảng 1171 dự án với tổng vốn đăng ký 60,3 tỷ USD, giảm 24,2% về số dự án nhưng gấp 3,2 lần về vốn đăng ký so với năm 2007. Bình quân vốn đăng ký của một dự án năm nay đạt 51,5 triệu USD, tăng 39 triệu USD so với mức bình quân 12,5 triệu USD/dự án của năm 2007. Trong tổng số dự án được cấp phép mới trong năm 2008, các dự án thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 75,3% về số dự án và 51,7% về vốn đăng ký. Nếu tính cả 3,7 tỷ USD vốn đăng ký tăng thêm của 311 dự án được cấp phép từ các năm trước thì năm 2008 cả nước đã thu hút được 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp gần 3 lần năm 2007, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Vốn đầu tư nước ngoài trong các dự án được cấp giấy phép mới năm 2008 tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 32,6 tỷ USD, chiếm 54,1% tổng vốn đăng ký; dịch vụ 27,4 tỷ USD, chiếm 45,5%; nông, lâm nghiệp và thủy sản 252,1 triệu USD, chiếm 0,4%. Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2009 đạt thấp do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Tính đến ngày 15/12/2009, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 21,5 tỷ USD, giảm 70% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm: Vốn đăng ký của 839 dự án được cấp phép mới đạt 16,3 tỷ USD (giảm 46,1% về số dự án và giảm 75,4% về vốn); vốn đăng ký bổ sung của 215 dự án được cấp phép từ các năm trước đạt 5,1 tỷ USD, giảm 1,7%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2009 ước tính đạt 10 tỷ USD, giảm 13% so với năm 2008. Trong năm 2009, lĩnh vực kinh doanh bất động sản thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 7,4 tỷ USD vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới, chiếm 45,1% tổng vốn đăng ký mới; tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống 5 tỷ USD, chiếm 30,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo với 2,2 tỷ USD, chiếm 13,6%.
26 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 9356 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oài.
Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa:
Chịu hiệu ứng “lây lan” của những bất ổn khu vực và toàn cầu.
Làm trầm trọng thêm khoảng cách giàu nghèo trong một xã hội, giữa các nước và các khu vực.
Như vậy, có thể nói rằng, toàn cầu hoá đang đặt ra hàng loạt những thách thức hết sức khó khăn cho tất cả các nước. Đó chính là những vấn đề toàn cầu mà nhân loại đang và sẽ phải đối mặt. Nhận thức cho được các vấn đề này và tìm ra đối sách để giải quyết chúng là nhiệm vụ không dễ dàng, nhưng đó lại là việc không thể không làm một cách tích cực, từng bước và làm một cách khoa học. Có vượt qua được những thách thức đó, chúng ta mới có cơ hội phát triển nhanh hơn trong tương lai. Vì vậy, "nắm bắt cơ hội: vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta”.
Rõ ràng bối cảnh quốc tế tạo cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế là phải vượt qua các thách thức đó, tranh thủ được các cơ hội để tạo lập một cơ cấu kinh tế mới phù hợp, tiến bộ và hiệu quả hơn.
1.3 Bối cảnh kinh tế trong nước
Quá trình đổi mới hơn 20 năm qua, nhất là từ năm 1991, thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế khu vực, quốc tế, thế và lực phát triển của nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi lớn.
Kinh tế tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định, GDP năm sau cao hơn năm trước, tiềm lực kinh tế đã lớn mạnh hơn. Cơ cấu ngành nói riêng và cơ cấu kinh tế nói chung đã có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hóa và từng bước hiện đại hóa.
Vừa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, vừa tiếp tục hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, quan hệ kinh tế đối ngoại được tiếp tục củng cố và mở rộng.
Khung khổ pháp lý cho hoạt động của các loại thị trường đã dần được bổ sung và hoàn thiện. Cơ chế quản lý mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã được xác định; tổ chức triển khai sâu rộng Luật doanh nghiệp; sửa đổi bổ sung Luật thuế, Luật đất đai; thị trường hàng hóa sôi động và phát triển nhanh; thị trường lao động có bước phát triển, hệ thống thị trường tài chính tiền tệ đã phát triển và đạt được kết quả khả quan.
Các yếu tố ngoại lực (vốn, kỹ thuật – công nghệ, tri thức, thị trường) đã trở thành lực lượng quan trọng và được kết hợp với yếu tố nội lực đã tạo thành sức mạnh tổng hợp thúc đẫy nền kinh tế phát triển. Những động lực phát triển mới đã xuất hiện: cạnh tranh theo nguyên tắc thị trường, các nhu cầu được mở rộng làm mở rộng các cơ hội phát triển, do đó, đã tạo nhiều khả năng lựa chọn các cơ hội phát triển cho xã hội
Tóm lại, bước vào thời kỳ phát triển mới, nền kinh tế nước ta đã có sự thay đổi về thế và lực: cấu trúc kinh tế mới, tiềm lực mới, thế path triển mới, động lực mới và lực lượng chủ thể mới.
CHƯƠNG 2
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
2.1 Thực trạng cơ cấu kinh tế tại Việt Nam
Sang thế kỷ XXI, thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ,cơ cấu kinh tế quốc dân chuyển dịch nhanh theo hướng tích cực nhưng tốc độ vẫn còn chậm. Năm 2000 - 2005, GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu. Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,5%/năm, giá trị tăng thêm bằng khoảng 3,89%/năm. Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng, có chỗ đứng trong những thị trường lớn, giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 15,9%/năm, giá trị tăng thêm đạt 10,2%/năm. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống.
Bảng 1 : Cơ cấu GDP theo ngành từ 1995-2004
Đơn vị tính:%
1995
2000
2003
2004
Nông lâm thuỷ sản
27,18
24,53
22,54
21,76
Công nghiệp, xây dựng
28,76
36,73
39,47
40,09
Dịch vụ
44,06
38,74
37,99
38,165
Nguồn: tổng cục thống kê
Bảng 2: Tỷ lệ đóng góp của từng ngành vào tốc độ tăng GDP(%)
2000
2001
2002
2003
2004
Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
1,10
0,69
0,91
0,72
0,80
Công nghiệp và xây dựng
3,46
3,68
3,45
3,86
3,90
Dịch vụ
2,23
2,52
2,68
2,68
3,00
Tổng GDP
6,79
6,89
7,04
7,26
7,60
Nguồn: Tổng cục thống kê
Kết thúc kế hoạch 5 năm 2000-2005, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo GDP về cơ bản vẫn như những năm trước đó. Tỷ trọng nông nghiệp (nghĩa rộng) chiếm 22, l1%, công nghiệp và xây dựng chiếm 39,79% và dịch vụ chiếm 38, 10% GDP. Như vậy, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế chỉ có 2 chỉ tiêu đạt được là nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng theo nghĩa rộng, còn dịch vụ không đạt được.
Từ năm 2007 trở lại đây, chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu làm cho tình hình kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức, tuy nhiên cơ cấu kinh tế ngành và nội bộ ngành đã chuyển dịch tích cực. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 6,23% so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Năm 2009, GDP tăng 5,32%, bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%.
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng GDP và các ngành kinh tế thời kỳ 2007-2009
Đơn vị tính: %
2007
2008
2009
Nông nghiệp
3,40
3,79
1,83
Công nghiệp
10,60
6,33
5,52
Dịch vụ
8,69
7,20
6,63
Tổng
8,48
6,23
5,32
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 1: Cơ cấu GDP Việt Nam phân theo nhóm ngành thời kỳ 1991-2008
Nguồn: Tổng cục thống kê
+ Cùng với sự thay đổi mạnh mẽ tỷ trọng, giá trị sản lượng của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cũng thay đổi mạnh,cụ thể mức tăng của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2008 cao hơn mức tăng năm 2007 và 2006, chủ yếu do sản xuất nông nghiệp được mùa, sản lượng lúa cả năm tăng 2,7 triệu tấn so với năm 2007 và là mức tăng cao nhất trong vòng 11 năm trở lại đây. Tăng trưởng khu vực công nghiệp và xây dựng năm 2008 đạt mức thấp hơn mức tăng của năm 2007, chủ yếu do sản xuất của ngành công nghiệp khai thác giảm nhiều so với năm trước (giá trị tăng thêm giảm 3,8%); công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng 63,5% trong tổng giá trị tăng thêm công nghiệp nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 10%, thấp hơn mức tăng 12,8% của năm 2007; đặc biệt giá trị tăng thêm của ngành xây dựng năm nay không tăng, trong khi năm 2007 ngành này tăng ở mức 12%. Hoạt động của khu vực dịch vụ tuy ổn định hơn so với khu vực công nghiệp và xây dựng nhưng giá trị tăng thêm vẫn tăng thấp hơn mức tăng 8,7% của năm trước.
+ GDP tính theo giá thực tế năm 2008 tăng cao; với mức tăng trưởng và tăng giá khác nhau ở ba khu vực nên cơ cấu kinh tế năm 2008 tăng ở khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản và giảm ở khu vực công nghiệp, xây dựng. Tuy nhiên, xu hướng này chỉ là tạm thời trong bối cảnh đặc biệt của năm 2008 với sự tăng chậm lại của khu vực công nghiệp, xây dựng và giá nông lâm thuỷ sản tăng cao. Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 21,99% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 39,91%; khu vực dịch vụ chiếm 38,1%.
Hình 2:Biểu đồ tỷ trọng ngành trong cơ cấu GDP giai đoạn 2003-2008
Nhìn chung, từ năm 2007 trở lại đây sự tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp-xây dựng và dịch vụ, đồng thời giảm dần tỷ trọng trong GDP các ngành nông-lâm-ngư nghiệp đã khẳng định cơ cấu kinh tế nước ta đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.2 Thực trạng đầu tư vào các ngành kinh tế
FDI ở Việt Nam là nguồn vốn đầu tư phát triển xã hội, đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng nền kinh tế. Theo đánh giá của Cục Đầu tư nước ngoài, vốn FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đóng góp vào ngân sách và các cân đối vĩ mô, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác. Trong năm 2008 có khoảng 1171 dự án với tổng vốn đăng ký 60,3 tỷ USD, giảm 24,2% về số dự án nhưng gấp 3,2 lần về vốn đăng ký so với năm 2007. Bình quân vốn đăng ký của một dự án năm nay đạt 51,5 triệu USD, tăng 39 triệu USD so với mức bình quân 12,5 triệu USD/dự án của năm 2007. Trong tổng số dự án được cấp phép mới trong năm 2008, các dự án thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 75,3% về số dự án và 51,7% về vốn đăng ký. Nếu tính cả 3,7 tỷ USD vốn đăng ký tăng thêm của 311 dự án được cấp phép từ các năm trước thì năm 2008 cả nước đã thu hút được 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp gần 3 lần năm 2007, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Vốn đầu tư nước ngoài trong các dự án được cấp giấy phép mới năm 2008 tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 32,6 tỷ USD, chiếm 54,1% tổng vốn đăng ký; dịch vụ 27,4 tỷ USD, chiếm 45,5%; nông, lâm nghiệp và thủy sản 252,1 triệu USD, chiếm 0,4%. Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2009 đạt thấp do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Tính đến ngày 15/12/2009, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 21,5 tỷ USD, giảm 70% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm: Vốn đăng ký của 839 dự án được cấp phép mới đạt 16,3 tỷ USD (giảm 46,1% về số dự án và giảm 75,4% về vốn); vốn đăng ký bổ sung của 215 dự án được cấp phép từ các năm trước đạt 5,1 tỷ USD, giảm 1,7%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2009 ước tính đạt 10 tỷ USD, giảm 13% so với năm 2008. Trong năm 2009, lĩnh vực kinh doanh bất động sản thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 7,4 tỷ USD vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới, chiếm 45,1% tổng vốn đăng ký mới; tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống 5 tỷ USD, chiếm 30,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo với 2,2 tỷ USD, chiếm 13,6%.
Hình 3: Biểu đồ đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2000-2008
Hình 4: Cơ cấu FDI năm 2007
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, cơ cấu vốn FDI đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2009. Nếu như những năm đầu của thế kỷ này, vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 85%, thì tới năm 2009 vừa qua, khu vực này chỉ còn chiếm 22% tổng vốn đầu tư. Trong khi đó, vốn FDI vào lĩnh vực dịch vụ có xu hướng ngược chiều, khi tăng từ 7% lên 77%, cũng trong cùng giai đoạn với các con số thống kê kể trên.
Với mục tiêu ưu tiên là ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, trong những năm qua Chính phủ đã tập trung thực hiện các gói kích cầu đầu tư và tiêu dùng; đồng thời chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, công trình trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ vậy, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo giá thực tế ước tính đạt 637,3 nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP và tăng 22,2% so với năm 2007, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 184,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 28,9% tổng vốn và giảm 11,4%; khu vực ngoài Nhà nước 263 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,3% và tăng 42,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 189,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 29,8% và tăng 46,9%. Năm 2009 theo giá thực tế ước tính đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 245 nghìn tỷ đồng, chiếm 34,8% tổng vốn và tăng 40,5%; khu vực ngoài Nhà nước 278 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,5% và tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 181,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,7% và giảm 5,8%. Đầu tư nhà nước chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng vốn đầu tư phát triển xã hội và đóng góp nhất định vào tăng trưởng kinh tế.
Hình 5: Tăng trưởng GDP và tỷ lệ đầu tư/GDP giai đoạn 1997 – Q1/2009
Hình 4: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế giai đoạn 2000-2008
2.3 Đánh giá những tác động
-Tác động tích cực: Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất đưa đến các kết quả, thành tựu tăng trưởng kinh tế khả quan, tạo ra những tiền đề vật chất trực tiếp để chúng ta giữ được các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như thu chi ngân sách, vốn tích luỹ, cán cân thanh toán quốc tế…, góp phần bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế – xã hội theo hướng bền vững. Các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương trình về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội cho các vùng khó khăn, các chương trình tín dụng cho người nghèo và chính sách hỗ trợ trực tiếp đã mang lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 17,2% năm 2006 xuống còn 14,7% năm 2007, và năm 2008 còn 13,1%. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi.
- Tác động tiêu cực: Những năm qua, cơ cấu ngành đạt được những bước tiến nhất định, dù chỉ ở trên phương diện tỷ trọng, trong khi đó cơ cấu lao động chuyển dịch quá chậm, đến mức có thể nói là không có chuyển dịch. Tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp - nông thôn giảm không đáng kể ; tỷ trọng lao động công nghiệp hầu như không tăng. Còn khu vực dịch vụ, tuy có tạo thêm khá nhiều việc làm mới nhờ sự phát triển bùng nổ của khu vực tư nhân sau khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực ban hành song cũng không có khả năng xoay chuyển tình hình một cách nhanh chóng và căn bản, điều đó làm tăng thêm áp lực việc làm - thất nghiệp vốn đã cực kỳ gay gắt.
Rõ ràng, lao động nước ta dồi dào đến mức dư thừa, năm 2005 còn đến 5,3% lao động ở thành thị thất nghiệp, trong số này có không ít lao động trẻ khoẻ và không ít những cử nhân vừa qua đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng cũng tham gia đạo quân thất nghiệp. Ở khu vực nông thôn có tới 20% quỹ thời gian lao động chưa được sử dụng, số thất thoát thời gian lao động tương đương với 9 triệu lao động thất nghiệp hoàn toàn. Do vậy khu vực nông nghiệp - nông thôn trong nhiều năm qua trở thành nơi “chứa” lao động dư thừa, tuyệt đại đa số lao động mới đều tập trung ở đây.
Về cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn, tỷ trọng lao động chưa qua đào tạo lên đến 76%, tỷ lệ lao động qua đào tạo là 24%, trong đó đặc biệt chú ý là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm có 15%. Các số liệu này chứng tỏ nền kinh tế đang thiếu trầm trọng lao động có tay nghề, mất cân đối trong cơ cấu đào tạo nghề, với cơ cấu trình độ đào tạo như hiện nay, việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và kinh doanh còn rất nhiều khó khăn, không thể nào đáp ứng được yêu cầu nhân lực mà xã hội đang cần dẫn đến thất nghiệp cơ cấu ngày càng trầm trọng hơn.
2.4 Những hạn chế chủ yếu của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Thứ nhất, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực còn rất chậm, cả về tỷ trọng lẫn chất lượng. Quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành còn chưa làm thay dịch căn bản về chất của cơ cấu ngành, chưa tạo được sự nhảy vọt trong cơ cấu, chưa tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa các ngành công, nông nghiệp và dịch vụ, giữa các phân ngành, phân nhánh ngành của nội bộ các ngành đó.
Thứ hai, hình thành một cơ cấu ngành khai thác nguồn lực kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh kinh tế thấp cả trên thị trường trong nước và nước ngoài. Cơ cấu ngành hiện nay còn chưa sử dụng hết các nguồn lực, hơn nữa gây lãng phí.
Thứ ba, cơ cấu ngành chưa tạo được tiềm lực cho phát triển nền kinh tế vững chắc lâu dài.
2.5 Thời cơ, thách thức đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời gian tới
2.5.1 Thời cơ ( thuận lợi)
Sự phát triển kinh tế tri thức và chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu cũng như khu vực tạo cơ hội cho quá trình rút ngắn công nghiệp hóa – hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nước ta. Điều này thể hiện ở một số nội dung sau đây:
+ Tri thức, khoa học, công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp cho phép các nước đi sau như Việt Nam có thể tiếp cận chúng ngay cả khi trình độ phát triển chưa cao. Nhờ tiếp thu từ các nước đi trước các tri thức, công nghệ, kỹ thuật, về nguồn vốn và thị trường ở trình độ cao và quy mô lớn, Việt Nam có thể thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa rút ngắn, thực hiện “hiện đại hóa cơ cấu ngành”, hình thành và phát triển cơ cấu ngành có năng lực cạnh tranh cao trên trường quốc tế.
+ Thông qua kết nối mạng thông tin, viễn thông toàn cầu, Việt Nam được chia sẽ nguồn lực thông tin và tri thức, có điều kiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả về tri thức và kỹ năng sử dụng công nghệ cao.
+ Với hệ thống sản xuất toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở rộng quy mô sản xuất và bán sản phẩm trên phạm vi toàn thế giới để thu lợi ích nhiều nhất. Đây là tiềm năng to lớn cho Việt Nam cũng như các nước đi sau khác.
+ Toàn cầu hóa kinh tế làm cho nền kinh tế thế giới cũng như quốc gia trở nên năng động hơn, được liên kết chặt chẽ hơn, dòng vốn, hàng hóa, công nghệ di chuyển nhanh hơn tạo nên môi trường phát triển thuận lợi cho mọi nền kinh tế.
+ Việt Nam đã gia nhập vào WTO, ASEAN…, thực hiện các cam kết CEPT/AFTA, AICO, AIA, APEC, ASEM…từng bước hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực và quốc tế. Nhờ đó Việt Nam sẽ có một thị trường rộng lớn, nhiều tiềm năng do những hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dỡ bỏ, lưu thông hàng hóa, tiền tệ, lao động tự do, thuận lợi, chi phí lưu thông giảm; tiếp nhận nguồn vốn đầu tư, công ghệ và kĩ thuật cao; người tiêu dùng có cơ hội lựa chọn các mặt hàng thích hợp, chất lượng tốt và giá rẻ; có vị thế quốc tế trong đàm phán với các nước lớn, cùng với các nước đang phát triển bảo vệ quyền lợi quốc gia và khu vực.
Những thuận lợi trong nước:
+ Thuận lợi cơ bản của Việt Nam là sự ổn định chính trị - xã hội, đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước và sự ủng hộ, đoàn kết, nhất trí của toàn dân đối với công cuộc đổi mới, với quyết định chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tiềm lực kinh tế và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đã được nâng lên.
+ Nền kinh tế được cơ cấu lại, tốc độ được cơ cấu lại, tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng tăng nhanh và ổn định; cơ cấu ngành kinh tế nói chung và nội bộ ngành nói riêng thay đổi tích cực theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đã đạt trình độ cao hơn hẳn trước thời kì đổi mới.
+ Chính sách “mở cửa” và hội nhập kinh tế quốc tế tao điều kiện thực hiện chiến lược cơ cấu ngành hướng vào tăng trưởng xuất khẩu, mở rộng thị trường đa phương, tăng cường thu hút FDI, ODA, các nguồn lực thông tin tri thức khác để phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành.
+ Vai trò của nhà nước trong điều hành kinh tế, thực hiện quá trình cơ cấu lại các ngành kinh tế được tăng cường. Đời sống của mọi tầng lớp nhân dân cải thiện từng bước, giảm bớt tỷ lệ đói nghèo.
+ Việt Nam có nhiều nguồn lực trong đó có những lợi thế so sánh làm cơ sở cho hoạch định chiến lược cơ cấu ngành, đảm bảo cho sự tăng trưởng nhanh, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế như: vị trí địa lí kinh tế - chính trị thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng; dân số trẻ và có học vấn tương đối khá; nguồn nhân lực có năng lực tiếp thu khoa học công nghệ mới để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế; nguồn lực về vốn được nâng lên do tích lũy vốn trong nội bộ nền kinh tế có tiến bộ và lượng vốn nhàn rỗi còn nhiều ở trong dân là yếu tố thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu ngành.
2.5.2 Thách thức ( khó khăn)
Thách thức to lớn đối với Việt Nam cũng như các nước đi sau là tụt hậu, tức là không bắt nhịp được vào trình độ phát triển nhanh và cao của kinh tế toàn cầu. Nguyên nhân cơ bản là do nghèo và kém phát triển nên thiếu năng lực, điều kiện cần thiết để tiếp nhận và tận dụng hiệu quả các yếu tố, cơ hội phát triển. Thiếu tiềm lực tài chính – kinh tế , năng lực trí tuệ, kinh nghiệm quản lí vĩ mô nền kinh tế hiện đại, tiếp nhận và vận dụng tri thức, do đó, năng lực, trình độ phát triển thường thấp hơn các nước phát triển. Năng lực và kinh nghiệm quản lý kinh tế của nhà nước còn yếu nên phản ứng chính sách trước những biến dịch nhanh, khó lường của thế giới và khu vực còn rất lúng túng, thiếu khả năng phòng tránh các rủi ro. Vì vậy, trong xu thế toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, một số nước nghèo và thiếu tri thức có nguy cơ tụ hậu phát triển so với các nước giàu. Đối với Việt Nam, từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi và phát triển, đây cũng là thách thức lớn và bao trùm hiện nay. Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơ cấu lại ngành kinh tế những thập kỉ tới phải đối mặt với thách thức to lớn này.
Tăng trưởng và phát triển chưa ổn định, vững chắc, nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước để phát triển kinh tế chưa được huy động và sử dụng tốt.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng suất, chất lượng sản phẩm, trình độ khoa học – công nghệ thấp, sức cạnh tranh của cả nền kinh tế cũng như từng ngành hàng, sản phẩm và doanh nghiệp chưa cao.
Những tàn dư của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp vẫn chua khắc phục hết.
Tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn thấp.
Ngoài ra còn phải kể đến những nhược điểm trong chính sách kinh tế và cơ chế quản lí gây thất thoát, lãng phí khá nghiêm trọng trong quản lí kinh tế. Tình trạng quan liêu, tham nhũng … còn phổ biến.
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
3.1 Quan điểm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
3.1.1 Quan điểm cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Để phấn đấu đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, trong thời gian tới, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là tăng nhanh tỉ trong công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp trong GDP.
Bảng 3: Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế (% GDP)
2010
2020
Nông nghiệp
16 – 17
10
Công nghiệp
40
35 - 40
Dịch vụ
43
50 - 60
Để đảm bảo thực hiện những mục tiêu này, những quan điểm cơ bản cần chú ý là:
Chuyển dịch cơ cấu ngành phải gắn liền với tiến trình hội nhập kinh tế của đất nước. Cái mốc quan trọng cho việc mở cửa kinh tế và tự do hóa thương mại của Việt Nam và bước chuyển dịch ngành kinh tế là vào năm 2006, 2010 và 2020. Cái mốc này cũng phù hợp với kế hoạch 5 năm đầu thế kỷ 21, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và mục tiêu đưa đất nước cơ bản trở thành công nghiệp hóa vào năm 2020.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải dựa trên hiệu quả và lợi ích của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Để điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập sẽ có những ngành, những doanh nghiệp nâng cao được khả năng cạnh tranh, đứng vững trên thị trường trong và ngoài nước. Ngược lại, cũng có những ngành, những doanh nghiệp phải thu hẹp hoặc chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Trong mọi trường hợp cần đặt tổng thể nền kinh tế lên trên lợi ích của từng ngành , từng địa phương khi đưa ra các quyết định. Nhà nước cần giữ vai trò là người điều hòa các nguồn lợi có được trong quá trình hội nhập để có những hổ trợ cần thiết cho các ngành, các doanh nghiệp phải điều chỉnh cơ cấu.
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu, trước mắt có ngành cần bảo hộ. Nhưng việc bảo hộ phải đảm bảo nguyên tắc. Bảo hộ có thời hạn, có điều kiện, có định hướng; Cần yêu cầu các ngành hàng, các doanh nghiệp được bảo hộ phải có chương trình, biện pháp cụ thể để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh và có thể đứng vững trên thị trường khi chấm dứt bảo hộ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải tiến hành từng bước với sự nỗ lực đồng bộ của các ngành, các cấp và cả người lao động trong việc huy động sức người, sức của và tổ chức thực hiện. Trước mắt cần khẩn trương triển khai đưa vào nội dung của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch 5 năm và hằng năm. Hội nhập kinh tế và chuyển dịch cơ cấu cần được tiến hành theo các chương trình kế hoạch với các bước đi vững chắc.
Chuyển dịch cơ cấu ngành cần kết hợp với cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng - lãnh thổ. Cơ cấu ngành kết hợp với cơ cấu thành phần thể hiện ở việc sử dụng các chính sách, biện pháp động viên sự phát triển của các thành phần kinh tế để thu hút tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuyen de kt.doc
- chuyen de.doc