MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam 3
1.1 Tổng quan về rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng 3
1.1.1 Khái niệm về rủi ro 3
1.1.2 Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng 4
1.1.2.1 Rủi ro tín dụng 5
1.1.2.2 Rủi ro lãi suất 5
1.1.2.3 Rủi ro tỷ giá 6
1.1.2.4 Rủi ro thanh toán 7
1.1.2.5 Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có giá 9
1.1.2.6 Rủi ro khác 11
1.2 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng thương mại 11
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng 11
1.2.2 Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng 14
1.2.2.1 Nợ có vấn đề 14
1.2.2.2 Nợ quá hạn 15
1.2.2.3 Nợ khó đòi 16
1.2.2.4 Lãi treo 17
1.2.2.5 Cơ cấu dư nợ tín dụng 18
1.2.2.6 Một số dấu hiệu khác 18
1.2.3 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng 19
1.2.3.1 Những nguyên nhân bất khả kháng 19
1.2.3.2 Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay 19
1.2.3.3 Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng 20
1.3 Thực trạng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam 21
1.3.1 Các loại rủi ro tín dụng 21
1.3.2 Tình hình rủi ro tín dụng ở các NH thương mại Việt Nam 23
Chương 2: Lý luận về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp 25
2.1 Tổng quan về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp 25
2.1.1 Khái niệm về xếp hạng doanh nghiệp 25
2.1.2 Sự cần thiết của công tác đánh giá xếp hạng doanh nghiệp 28
2.1.3 Vai trò của xếp hạng doanh nghiệp 30
2.2 Thực trạng xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp ở Việt Nam 32
2.2.1 Kinh nghiệm của Thế giới 32
2.2.1.1 Các mô hình phát hiện 33
2.2.1.2 Mô hình thống kê 34
2.1.2 Thực trạng tại Việt Nam 40
Chương 3: Sử dụng mô hình Logistic tính xác suất nợ khó đòi và ứng dụng trong xếp hạng doanh nghiệp 51
3.1 Mô hình Logistic và ứng dụng trong xếp hạng doanh nghiệp 51
3.1.1 Mô hình Logistic 51
3.1.2 Ứng dụng mô hình Logistic vào xếp hạng doanh nghiệp 52
3.2 Phương pháp tính xác suất nợ khó đòi cho các doanh nghiệp Việt Nam 54
3.2.1 Các bước tiến hành xếp hạng tín dụng 54
3.2.1.1 Các chỉ tiêu tài chính 55
3.2.1.2 Các chỉ tiêu phi tài chính 58
3.2.2 Mô hình xác suất có nợ khó đòi 58
3.2.1.1 Mô hình xác suất có nợ khó đòi đối với các doanh nghiệp thuộc ngành Nông, lâm, ngư nghiệp 59
3.2.1.2 Mô hình xác suất xảy ra nợ khó đòi đối với các doanh nghiệp thuộc ngành Xây dựng 66
3.2.1.3 Mô hình xảy ra xác suất có nợ khó đòi đối với các doanh nghiệp thuộc ngành Công nghiệp 71
3.2.1.4 Mô hình xảy ra xác suất có nợ khó đòi đối với các doanh nghiệp thuộc ngành Thương mại, dịch vụ 75
3.2.3 Mô hình tự hồi quy – AR(2) 79
3.3 Ứng dụng mô hình vào một số doanh nghiệp Việt Nam 79
NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
93 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1373 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Sử dụng mô hình Logistic tính xác suất nợ khó đòi và ứng dụng trong xếp hạng tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao, rủi ro thấp, khả năng trả nợ mạnh nhất
Aa
AA
Chứng khoán có chất lượng cao, rủi ro thấp, khả năng trả nợ mạnh
A
A
Chứng khoán trên mức trung bình
Baa
BBB
Chứng khoán trung bình, mức độ an toàn và rủi ro không cao, không thấp, không có dấu hiệu nguy hiểm
Ba
BB
Chứng khoán có biểu hiện tính đầu cơ
B
B
Chứng khoán thiếu sự hấp dẫn cho nhà đầu tư
Caa
CCC
Kỹ năng trả nợ thấp, dễ vỡ nợ
Ca
CC
Mức đầu cơ cao, thường bị vỡ nợ
C
C
Mức tín nhiệm thấp nhất, vấn đề trả lãi gặp khó khăn
Dựa vào ký hiệu xếp hạng tín nhiệm trên, nếu xếp hạng tín nhiệm đạt từ mức BBB (hoặc từ Baa) trở lên AAA hoặc (Aaa) thì được gọi là xếp hạng tín nhiệm đầu tư, nếu xếp hạng tín nhiệm đạt từ mức BB (hoặc từ Ba) trở xuống được gọi là xếp hạng tín nhiệm đầu cơ.
Ở Việt Nam hoạt động xếp hạng doanh nghiệp chỉ được các TCTD áp dụng từ một vài năm gần đây, và xếp hạng tín dụng ở Việt Nam chỉ áp dụng cho các đối tượng vay vốn Ngân hàng. Còn việc xếp hạng tín nhiệm cho các chứng khoán nợ ở nước ta chưa được thực hiện vì thị trường chứng khoán ở nước ta chỉ mới ra đời trong những năm gần đây. Vì vậy chúng ta rất chú trọng tạo mọi điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển và để nhằm khuyến khích, tạo sự an toàn tới mức có thể cho các nhà đầu tư Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã đề ra điều kiện niêm yết đối với các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đó là những điều kiện về mức vốn điều lệ, tình hình hoạt động kinh doanh.., chính những điều kiện này đã chứng tỏ chỉ có những doanh nghiệp hoạt động tốt thì mới có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, do đó việc xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp này hình như là chưa cần thiết trong điều kiện hiện nay
Hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất về hoạt động này nhưng chúng ta có thể hiểu Xếp hạng doanh nghiệp là sự đánh giá hiện thời về mức độ sẵn sàng và khả năng trả nợ (gốc và lãi) đối với khoản nợ của doanh nghiệp trong suốt thời gian tồn tại khoản nợ đó.
Như vậy việc xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện trong mối tương quan giữa hiện tại và quá khứ để từ đó đưa ra những dự đoán về tương lai hay nói cách khác việc xếp hạng doanh nghiệp là kết quả của quá trình phân tích tỉ mỉ và kỹ lưỡng tình hình hoạt động của doanh nghiệp, tư cách khách hàng tại thời điểm hiện tại và trong quá khứ từ đó dự đoán thứ hạng tín dụng của doanh nghiệp nhằm xác định khả năng thu hồi vốn (gồm cả gốc và lãi) của các TCTD và là cơ sở nền tảng cho việc ra quyết định có cấp tín dụng cho doanh nghiệp hay không và nếu cấp thì ở mức nào là hợp lý.
Sự cần thiết của công tác đánh giá xếp hạng doanh nghiệp
Ngày nay cùng với quá trình phát triển kinh tế, hệ thống các NH thương mại ngày càng mở rộng để đáp ứng các nhu cầu trong thanh toán tín dụng và các dịch vụ NH khác. Song song với quá trình đó mức độ rủi ro mà NH gặp phải ngày càng lớn do sự ảnh hưởng của biến động kinh tế Thế giới, số lượng khách hàng ngày càng tăng và khó kiểm soát thông tin về họ. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng của NH, nó ngày càng chứa đựng nhiều rủi ro và nhiệm vụ vủa NH là hạn chế rủi ro thường gặp phải mà vẫn đảm bảo lợi nhuận cho NH. Khi đưa ra bất kỳ một quyết định cho vay nào, NH cũng phải xem xét đến tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp bởi đây sẽ là nhân tố quyết định đến rủi ro và khả năng thu hồi vốn của NH sau này. Tuy nhiên, không phải lúc nào, việc đánh giá này cũng chính xác, nhất là khi thông tin về doanh nghiệp lại bé nhỏ và không đáng tin cậy. Điều này dẫn đến tình trạng: nhiều doanh nghiệp tốt không có nguồn vốn để phát triển trong khi rất nhiều khoản tín dụng đã được cấp cho những doanh nghiệp làm ăn kém, không có khả năng trả nợ, thậm chí có nhiều trường hợp khoản vốn vay còn được sử dụng sai mục đích ban đầu dẫn đến tổn thất rất lớn cho NH.
Với tư cách một tổ chức kinh tế độc lập, trong quá trình tiến hành các hoạt động của mình, doanh nghiệp đã làm nảy sinh mối quan hệ ràng buộc với các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Một trong các mối quan hệ đó chính là mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người cho vay trong quá trình tìm kiếm nguồn tài trợ. Đây là mối quan hệ quan trọng, có tính chất quyết định tới nhiều mặt hoạt động của doanh nghiệp bởi đối với bất cứ doanh nghiệp nào, nguồn vốn huy động được sẽ là cơ sở cho các hoạt động khác được tiến hành suôn sẻ và thuận lợi. Có nhiều nguồn tài trợ khác nhau mà doanh nghiệp có thể lựa chọn, trong đó nguồn tài trợ từ các cá nhân cho vay và các TCTD là nguồn tài trợ quan trọng, dồi dào và hiệu quả nếu doanh nghiệp có được kế hoạch cụ thể nhằm khai thác một cách hợp lý. Tuy nhiên do hoạt động cấp tín dụng của các NH đối với doanh nghịêp luôn hàm chứa các rủi ro cho chính người cấp vốn, nên đôi khi việc tìm kiếm nguồn tài trợ này trở nên khó khăn và tương đối phức tạp. Đặc biệt do không có một tiêu chuẩn nào để đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong tương lai, việc cấp tín dụng càng khó khăn hơn trong việc xác định lãi suất cho vay. Bởi vậy trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp phải chấp nhận một mức lãi suất cao để có khoản vốn vay. Vấn đề này đã làm nảy sinh một nhu cầu khách quan đối với công tác xếp hạng doanh nghiệp, vì hạng của doanh nghiệp sẽ là cơ sở để đưa ra các quyết định cho vay cũng như thời hạn của khoản tín dụng. Công tác xếp hạng doanh nghiệp khi được thực hiên bài bản và công khai sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay một cách dễ dàng, góp phần giảm chi phí vốn và thúc đẩy quá trình mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Không chỉ gây khó khăn trong khả năng khai thác nguồn vốn vay của doanh nghiệp, công tác xếp hạng tín dụng doanh nghiệp nếu không được tiến hành, còn gây cả sự bất công do tiềm năng của doanh nghiệp không được đánh giá đúng. Khi không có công tác xếp hạng doanh nghiệp tức là không có thông tin công khai chính xác đánh giá năng lực của doanh nghiệp, các doanh nghiệp có hiệu quả hoạt động cao sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn và hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong khi đó, lại xuất hiện những doanh nghiệp làm ăn kém hơn song lại có thể nhận được nguồn vốn vay với lãi suất thấp hơn và dễ dàng hơn do người cho vay không có đầy đủ các thông tin xác thực về doanh nghiệp. Điều này đã tạo ra sự mất bình đẳng trong hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp, làm giảm đi khả năng cạnh tranh và hạn chế hiệu quả kinh doanh chung của cả nền kinh tế. Khi công tác xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện, hoạt động cấp tín dụng sẽ được tiến hành dựa trên các kết quả xếp hạng có được, nguồn vốn sẽ được chuyển giao đến doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh cao nhất, những doanh nghiệp tốt sẽ nhận được nguồn vốn rẻ và dễ dàng hơn các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Như vậy sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tiếp tục phát triển.
Như vậy hoạt động xếp hạng doanh nghiệp là một đòi hỏi cần thiết khách quan, nó không chỉ ảnh hưởng đến bản thân doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế cho vay mà còn tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Thực hiện được công tác xếp hạng doanh nghiệp một cách khoa học bài bản sẽ là cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động cho các doanh nghiệp, giảm thiểu rủi ro và tăng cao thu nhập cho các tổ chức cho vay.
Vai trò của xếp hạng doanh nghiệp
Xếp hạng doanh nghiệp không những chỉ là công tác rất quan trọng trong hoạt động của NH mà nó còn có vai trò quan trọng với những chủ thể khác trong nền kinh tế. Tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, xếp hạng doanh nghiệp đã được phổ biến từ giữa thế kỷ 20 vì nó có tác động tích cực đến nhiều chủ thể trong nền kinh tế như: NH, các nhà đầu tư, doanh nghiệp, bạn hàng, các nhà quản lý..
Đối với doanh nghiệp
Dựa vào kết quả xếp hạng, doanh nghiệp tự đánh giá được một cách tổng quan tình hình kinh doanh của mình, tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu từ đó đề ra những biện pháp, phương hướng trong tương lai nhằm khắc phục những thiếu sót, phát huy những điểm mạnh để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả hơn. Xếp hạng doanh nghiệp cũng giúp cho doanh nghiệp tiếp xúc được với các nguồn vốn vay một cách dễ dàng hơn vì doanh nghiệp nào có thứ hạng cao sẽ được các TCTD cho vay với những điều kiện ưu đãi về hạn mức tín dụng, về lãi suất cho vay.. đồng thời nâng uy tín của mình, củng cố và xây dựng thương hiệu, uy tín của doanh nghiệp. Ngược lại doanh nghiệp có thứ hạng thấp thì uy tín trên thị trường giảm và trở nên khó khăn hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn. Do đó xếp hạng doanh nghiệp sẽ là động lực để các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn.
Đối với nhà đầu tư
Trước khi đưa ra quyết định đầu tư vào một doanh nghiệp, nhà đầu tư phải nghiên cứu, xem xét tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại, dựa trên các tài liệu thu thập được để từ đó dự đoán được tình hình hoạt động của doanh nghiệp, khả năng thu hồi gốc, lãi trong thời gian tới. Đó cũng chính là công việc của công tác xếp hạng doanh nghiệp, do đó các nhà đầu tư có thể sử dụng kết quả công tác xếp hạng doanh nghiệp mà không phải tốn thời gian đi thu thập, xử lý thông tin để đánh giá doanh nghiệp, không bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Như vậy về mặt nào đó, hệ số tín nhiệm được xem là một hình thức tư vấn đầu tư chứng khoán. Song đây không phải là một lời khuyên mua hay bán bất kỳ một loại chứng khoán nào.
Đối với các tổ chức tín dụng
Do có mối quan hệ thanh toán, tín dụng đối với các doanh nghiệp các TCTD cũng hết sức quan tâm đến công tác xếp hạng doanh nghiệp bởi kết quả của quá trình này sẽ là cơ sở cho các TCTD đưa ra các quyết định liên quan đến công việc cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Các TCTD không thể ra quyết định cho vay khi không nắm rõ thông tin về doanh nghiệp đặc biệt là các thông tin liên quan đến khả năng trả nợ của khách hàng. Xếp hạng tín dụng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các TCTD trong việc tránh rủi ro và tăng thu nhập của NH.
Đối với các cơ quan quản lý
Mục tiêu của các cơ quan quản lý là đảm bảo tính ổn định của thị trường. Thông qua công tác xếp hạng doanh nghiệp, các cơ quan đảm nhiệm chức năng quản lý có thể sử dụng các kết quả xếp hạng doanh nghiệp làm tiêu chuẩn để xem xét tình hình lành mạnh và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp dự báo trước xu hướng của thị trường, đồng thời thấy được những sai phạm để kịp thời điều chỉnh và có biện pháp xử lý, giảm thiểu tính bất ổn của thị trường. Điều này giúp ngăn chặn và hạn chế các hậu quả tiêu cực do các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả gây nên và các quyết định sai lầm của các chủ thể liên quan khác.
2.2 Thực trạng xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp ở Việt Nam
Phần trên đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng của công tác xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp. Và thực tiễn ở trên Thế giới đã kiểm nghiệm điều này, xếp hạng doanh nghiệp là một hoạt động rất phổ biến ở các nước phát triển từ những năm 1960. Chỉ số xếp hạng tín dụng của một số tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp được công nhận rộng rãi, có ảnh hưởng rất lớn về kinh tế, chính trị như: Moody’s, Standard and poor, Experian, Equifax, TransunionRiêng tại Việt Nam việc xếp hạng tín dụng chỉ thực sự bắt đàu từ năm 1999.
2.2.1 Kinh nghiệm của Thế giới
Các mô hình xếp hạng thường được các tổ chức xếp hạng tín dụng áp dụng bao gồm:
Các mô hình phát hiện
Các mô hình phát hiện sử dụng phương pháp chuyên gia và dựa trên những kinh nghiệm đã được đúc kết để có thể tìm ra bản chất của mối quan hệ giữa vỡ nợ và các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Trong xếp hạng tín dụng, những mô hình này sử dụng kinh nghiệm của các chuyên gia về hoạt động của công ty xin vay, khả năng sinh lời/trả nợ trong tương lai và lịch sử vay nợ của công ty đó để đưa ra đánh giá về khả năng trả nợ của các doanh nghiệp và người đi vay trong tương lai. Các tiêu chí thường được xem xét trong quá trình phân tích đó là nhóm các nguy cơ rủi ro trong kinh doanh {gồm các chỉ tiêu: chất lượng quản lý, đặc điểm ngành nghề (độ rủi ro, xu hướng biến động của thị trường), khả năng cạnh tranh/vị trí trên thị trường} và nhóm các nguy cơ rủi ro về tài chính {gồm các chỉ tiêu: chính sách tài chính, khả năng sinh lời, cấu trúc đầu tư, khả năng thanh toán}.
Trong quá trình đánh giá, các chuyên gia thường không nhất trí được về cách xem xét các chỉ tiêu định tính như chất lượng quản lý, đặc điểm ngành nghề, khả năng cạnh tranh hay chính sách tài chính. Do đó, chất lượng của những mô hình này phụ thuộc vào kinh nghiệm chủ quan của các chuyên gia và khó xác đinh thẩm tra. Ngay cả khi chỉ xét tới các chỉ số tài chính được rút ra từ các báo cáo tài chính và báo cáo kết quả kinh doanh của công ty đi vay thì việc xác đinh chính xác các chỉ tiêu tài chính cần xem xét là hết sức khó khăn. Mỗi chuyên gia lựa chọn một số chỉ tiêu khác nhau, khó có thể xác định chỉ tiêu nào có tác động nhất quán và đáng kể tới khả năng trả nợ của doanh nghiệp và các chỉ tiêu đó lại có thể có quan hệ với nhau. Các tổ chức tài chính cũng ít khi lưu đủ các kết quả phân tích để so sánh với thực tế, rút kinh nghiệm nên khả năng suy diễn của các chuyên gia khó được nâng cao.
Ngoài ra, toàn bộ quá trình đánh giá đều phụ thuộc vào tâm lý và nhiều yếu tố chủ quan khác của nhóm chuyên gia. Các công trình nghiên cứu về hành vi đã nêu lên một số hạn chế của con người trong các quá trình phân tích nói chung gồm: đánh giá quá cao trình độ của mình, quá tự tin khi thực hiện những công việc quan trọng, nhớ về các thành công nhiều hơn thất bại, định lượng kém.
Trong mô hình loại này, các nhân tố được sử dụng không được kiểm chứng thống kê và xét tính tối ưu.
Do các hạn chế nói trên nên mặc dù các chuyên gia giỏi có thể đưa ra kết luận chính xác hơn mọi mô hình nhưng một mô hình đơn giản cũng có thể làm tốt hơn, nhanh hơn và tiết kiệm hơn các chuyên gia trung bình.
2.2.1.2 Mô hình thống kê
Các mô hình thống kê kiểm tra các giả thiết bằng cách sử dụng các thủ tục thống kê trên bộ dữ liệu thực nghiệm. Đối với thủ tục đánh giá tín dụng, điều này liên quan tới việc thiết lập giả thuyết đối với các tiêu chuẩn đánh giá khả năng trả nợ tiềm năng. Những giả thuyết này xem xét những giá trị có thể là cao hơn (hoặc thấp hơn) giá trị trung bình đối với những người vay có khả năng trả nợ so với những người vay không có khả năng trả nợ. Khi khả năng trả nợ của mỗi người vay thể hiện rõ trên bộ số liệu thực nghiệm, những giả thuyết này có thể bị bác bỏ hoặc chấp nhận một cách phù hợp. Các thủ tục thống kê có thể đạt được sự lựa chọn khách quan và đặt trọng số cho những nhân tố có khả năng trả nợ từ những thông tin có sẵn về khả năng có thể trả nợ.
Các mô hình thống kê thường sử dụng: mô hình phân tích thống kê nhiều chiều; mô hình hồi quy
Một mô hình thống kê: Mô hình điểm số Z (Z – credit scoring model)
Đây là mô hình đánh giá rủi ro tín dụng đầu tiên trên Thế giới. Mô hình điểm số “Z” do E.I.Altman xây dựng dùng để dự đoán khả năng phá sản của các công ty sản xuất của Mỹ trong vòng 2 năm. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
Trị số của các chỉ tiêu tài chính của người vay (Xi).
Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ
Altman đã xây dựng 3 loại z-score khác nhau. Chỉ số z-score đầu tiên được phát triển từ năm 1968. Công thức này được dùng cho các doanh nghiệp sản xuất có tham gia thị trường chứng khoán và loại trừ doanh nghiệp có giá trị tài sản nhỏ hơn 1 triệu đô la (nghĩa là chỉ áp dụng được đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn). Sau đó, Altman đã xây dựng hai mô hình bổ sung ( thường được gọi là mô hình A và mô hình B). Mô hình A được xây dựng năm 1983 để dùng cho các doanh nghiệp sản xuất không tham gia thị trường chứng khoán. Trọng số cho các chỉ tiêu và ngưỡng phân loại của chỉ số tổng hợp dùng để dự đoán trong mô hình này đều khác so với mô hình ban điểm số z-score ban đầu. Ngoài ra, mô hình A sử dụng giá trị nguồn vốn chủ sở hữu ghi trong bảng tổng kết tài sản thay vì sử dụng giá trị thị trường của nó như trong mô hình ban đầu. Mô hình B được phát triển cho các doanh nghiệp không tham gia thị trường chứng khoán nói chung, trong đó có cả các doanh nghiệp dịch vụ nhưng giá trị tài sản của các doanh nghiệp trong mô hình này khoảng 100 triệu đô la. Trọng số của các chỉ tiêu và ngưỡng phân loại của chỉ số tổng hợp cũng khác các mô hình trước.
Trong các mô hình của mình, Altman sử dụng các chỉ tiêu sau:
X1: tỷ số “vốn lưu động ròng / tổng tài sản”
X2: tỷ số “lợi nhuận giữ lại / tổng tài sản”
X3: tỷ số “lợi nhuận trước thuế và tiền lãi / tổng tài sản”
X4: tỷ số “thị giá cổ phiếu / giá trị ghi sổ của nợ dài hạn” (đối với những doanh nghiệp không tham gia thị trường chứng khoán Altman sử dụng tỷ số “ nguồn vốn chủ sở hữu / tổng tài sản”
X5: tỷ số “doanh thu / tổng tài sản”
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi trị số Z thấp hoặc là Z < 0 sẽ là căn cứ để xếp hạng khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Các mô hình điểm số z-score của Altman như sau:
Mô hình ban đầu
Z = 1.2X1 + 1.4X2 + 3.3X3 + 0.6X4 +1.0X5
Z
Doanh nghiệp
Z>=3
An toàn (có khả năng tồn tại trong khoảng 1 năm tới)
2.7<=Z<3
Có khả năng tồn tại
1.8<=Z<2.7
Có khả năng phá sản trong vòng 2 năm
Z<=1.8
Có nguy cơ phá sản cao
(Để xác định khả năng một doanh nghiệp phá sản hay không với sai số thấp nhất , Altman đề nghị sử dụng mức 2,675)
Mô hình A
Z = 0.717X1 + 0.847X2 + 3.107X3 + 0.420X4 +0.998X5
Z
Doanh nghiệp
Z>2.9
An toàn (có khả năng tồn tại trong khoảng 1 năm tới)
1.23<=Z<2.9
Không xác định chắc chắn
Z<=1.23
Có nguy cơ phá sản
Mô hình B
Z = 6.56X1 + 3.26X2 + 6.72X3 + 1.05X4
Z
Doanh nghiệp
Z>2.6
An toàn (có khả năng tồn tại trong khoảng 1 năm tới)
1.1<=Z<2.6
Không xác định chắc chắn
Z<=1.1
Có nguy cơ phá sản
Theo mô hình cho điểm số “Z”, bất cứ công ty nào bị xếp vào nhóm có nguy cơ cao thì Ngân hàng sẽ không cấp tín dụng cho khách hàng này cho đến khi cải thiện được điểm số Z lớn hơn.
Ngoài những ưu điểm, thì mô hình điểm số tín dụng có những hạn chế sau:
- Mô hình này chỉ cho phép phân biệt khách hàng thành hai nhóm là “vỡ nợ” và “không vỡ nợ”. Trong thực tế, vỡ nợ được phân thành nhiều loại, từ không trả hay chậm trễ trong việc trả lãi tiền vay, đến việc không hoàn trả gốc và lãi tiền vay. Điều này hàm ý, cần có một mô hình cho điểm chính xác hơn, toàn diện hơn theo nhiều thang điểm để phân loại khách hàng thành nhiều nhóm tương ứng với mức độ vỡ nợ khác nhau.
Không có lý do rõ ràng, để giải thích sự bất biến về tầm quan trọng của các biến số theo thời gian, dù là trong ngắn hạn. Tương tự như vậy, các biến số (Xi) cũng không phải là bất biến, đặc biệt là khi điều kiện thị trường và kinh doanh thường xuyên thay đổi. Ngoài ra, mô hình cũng giả thiết rằng các biến số Xi là hoàn toàn độc lập không phụ thuộc lẫn nhau.
Đã không tính tới một số nhân tố quan trọng khó lượng hoá, nhưng lại ảnh hưởng đáng kể đến mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng. Ví dụ, yếu tố “danh tiếng” của khách hàng, yếu tố “mối quan hệ truyền thống” giữa khách hàng và Ngân hàng. Nhìn chung, các nhân tố này thường không được đề cập trong mô hình ghi điểm tín dụng “Z”. Mặt khác, mô hình cho điểm thường không sử dụng các thông tin đại chúng có sẵn, như giá cả thị trường của các tài sản tài chính.
Mô hình z-score còn có một nhược điểm quan trọng là sai lầm trong việc chọn mẫu.Mặc dù đặc điểm của phần lớn các doanh nghiệp biến đổi thường xuyên nhưng mô hình này chỉ xem xét dữ liệu của một năm trước khi doanh nghiệp phá sản, như vậy dữ liệu của nhiều năm trước khi doanh nghiệp phá sản (mặc dù đã lâm vào tình trạng khó khăn) bị bỏ qua.
Cơ cấu chấm điểm của các công ty xếp hạng tín nhiệm trên thế giới (trọng số áp dụng cho các yếu tố) như sau:
Bảng 2.2: Cơ cấu chấm điểm của các công ty xếp hạng tín nhiệm
.
Trong đó: 35% - Lịch sử các khoản vay
30% - Số dư nợ hiện tại
15% -Thời gian sử dụng vốn vay
15% -Loại vốn vay
5% - Số lần có nợ quá hạn
Chương trình phần mềm chấm điểm FICO score được thực hiện dựa trên nguyên tắc sau:
Bảng 2.3: Phần mềm chấm điểm FICO
Điểm
Tỷ lệ
Số điểm
720 -850
5,49%
851$
700 - 719
5,61%
862$
675 - 699
6,15%
914$
620 -674
7,30%
1028$
560 - 619
8,53%
1157$
500 - 559
9,29%
1238$
Trong đó: Số điểm tương ứng độ rủi ro tối thiểu: 850
Số điểm tương ứng độ rủi ro cao nhất: 350
Dựa trên số điểm đưa ra, Ngân hàng sẽ áp dụng mức lãi suất tương ứng cho từng loại khách hàng
Bảng 2.4: Bảng cơ cấu điểm của toàn dân Mỹ
Số liệu về tỷ lệ vỡ nợ của các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế Đức trong những năm 1980
Bảng 2.5: Tỷ lệ vỡ nợ của các ngành kinh tế Đức những năm 1980
Tỷ lệ vỡ nợ theo ngành
Năm 1 (%)
Năm 2 (%)
Năm 3 (%)
Năm 4 (%)
Năm 5 (%)
Nông/lâm/ngư nghiệp
0.31
0.4
0.56
0.56
0.51
Năng lượng/Cấp nước/Khai khoáng
0.1
0.05
0.07
0.07
0.07
Công nghiệp chế tạo
0.48
0.64
0.84
0.86
0.76
Xây dựng
0.71
1.04
1.45
1.31
1.44
Thương mại
0.3
0.4
0.56
0.56
0.55
Giao thông/ Truyền thông
0.41
0.55
0.74
0.73
0.62
Tài chính/ Bảo hiểm
0.64
0.6
0.71
0.8
0.82
Dịch vụ và các ngành khác
0.28
0.36
0.48
0.5
0.47
Tất cả các lĩnh vực
0.38
0.5
0.68
0.68
0.65
2.1.2 Thực trạng tại Việt Nam
Theo hiệp ước Basel ІІ cho phép các Ngân hàng lựa chọn giữa “phương pháp dựa trên đánh giá tiêu chuẩn” và “phương pháp dựa trên đánh giá nội bộ”. Hiện nay hầu như tất cả các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam đều có hệ thống xếp hạng khách hàng và hệ thống này được sử dụng làm căn cứ cho thẩm định tín dụng và ra quyết định cho vay. Và hầu hết các Ngân hàng đều lựa chọn phương pháp đánh giá nội bộ; đây chính là nòng cốt của quản trị rủi ro tín dụng. Phương pháp đánh giá nội bộ hay còn gọi là xếp loại nội bộ, về cơ bản có 2 công cụ chính là xếp loại tín dụng (credit rating) đối với khách hàng là doanh nghiệp và chấm điểm tín dụng (credit scoring) đối với khách hàng là cá nhân. Ví dụ, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chia khách hàng ra thành 10 hạng căn cứ vào số điểm khách hàng có được từ hạng AAA đến hạng D. Căn cứ vào kết quả xếp hạng đó những khách hàng bị xếp vào loại CCC trở xuống sẽ không được vay tiền.
Ở Việt Nam hiện nay chỉ có 2 tổ chức chuyên về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp đó là CIC và Việt Nam Solution. CIC là trung tâm do Ngân hàng Nhà nước thành lập vào năm 1999. CIC xây dựng chỉ số xếp hạng tín dụng bằng phương pháp cho điểm. Quy trình phân tích xếp hạng tín dụng tại CIC gồm các bước sau:
Bước 1: Thu thập thông tin
Bước 2: Phân loại doanh nghiệp theo ngành
Bước 3: Phân loại doanh nghiệp theo quy mô
Bước 4: Xây dựng các chỉ tiêu phân tích
Bước 5: Tổng hợp kết quả tính điểm
Bước 6: Đưa ra chỉ số xếp loại
Bước 7: Nhận xét tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Trước đây, CIC phân loại doanh nghiệp thành 4 ngành kinh tế chủ yếu như sau:
Ngành nông, lâm, ngư nghiệp
Ngành công nghiệp
Ngành xây dựng
Ngành thương mại dịch vụ
Hiện nay, CIC phân doanh nghiệp thành 8 ngành kinh tế như sau:
Trồng trọt, chăn nuôi
Chế biến các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp
Xây dựng
Thương mại hàng hoá
Dịch vụ
Công nghiệp năng lượng (điện, than, dầu khí)
Công nghiệp chế tạo
Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
Đối với các doanh nghiệp có nhiều lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác nhau thì CIC phân loại dựa vào ngành kinh doanh chính. Ngành kinh doanh chính của doanh nghiệp (theo CIC) là hoạt động tạo ra doanh thu lớn nhất cho doanh nghiệp.
CIC phân loại doanh nghiệp theo quy mô thành 3 loại:
Quy mô lớn
Quy mô trung bình
Quy mô nhỏ
Các tiêu chí để CIC thực hiên việc phân loại doanh nghiệp theo quy mô là: nguồn vốn kinh doanh, số lao động, doanh thu thuần, nộp ngân sách nhà nước.
Các chỉ tiêu tài chính được sử dụng để xếp hạng tín dụng là:
Khả năng thanh toán ngắn hạn (đơn vị: lần)
Khả năng thanh toán ngắn hạn
=
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
Tài sản nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán ngắn hạn cho biết quy mô những khoản phải trả ngắn hạn được bù đắp bởi những tài sản có dự kiến sẽ chuyển đổi thành tiền trong một thời gian ngắn.
Chỉ tiêu này dùng để kiểm tra trạng thái vốn lưu động và tính thanh khoản; xem xét mức độ bảo vệ người cho vay trong trường hợp doanh nghiệp vay ngắn hạn để tài trợ vốn lưu động, thể hiện sự an toàn của người cho vay ngắn hạn.
Đối với chỉ tiêu này:
Khoảng giá trị từ 1 → 4 là chấp nhận được.
Nếu khả năng thanh toán ngắn hạn < 1 : dùng vốn ngắn hạn để đầu tư cho tài sản cố định → rủi ro trong thanh toán ngắn hạn.
Nếu khả năng thanh toán ngắn hạn > 4: không tốt, có thể vì sử dụng không tốt khoản tiền đi vay, quỹ tiền mặt tồn đọng nhiều
Khả năng thanh toán nhanh (đơn vị: lần)
Khả năng thanh toán nhanh
=
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn - Hàng tồn kho bình quân
Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ này cho biết khả năng chuyển đổi các tài sản có của doanh nghiệp thành tiền để đáp ứng yêu cầu thanh toán cấp thiết cho các khoản nợ.
Giá trị của tỷ lệ càng cao chứng tỏ độ rủi ro thấp. Tuy nhiên điều này cũng có ý nghĩa rằng hiệu quả quản lý tài sản lưu động chưa tốt vì những tài sản này có tỷ lệ sinh lời thấp đối với doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ nhỏ thì khả năng đáp ứng nghĩa vụ nợ ngắn hạn kém. Giá tri có thể chấp nhận được là 1 → 2.
Vòng quay hàng tồn kho (đơn vị: vòng)
Vòng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0099.doc