Đề án Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, lý luận và thực tiễn ở Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 2

I. Lý luận chung về cổ phần hoá 2

1. Quan niệm về sở hữu trong nền kinh tế thị trường. 2

2. Xã hội hoá sở hữu tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế thị trường 2

II. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước - sự lựa chọn tất yếu 2

1. Sự ra đời cổ phần 2

2. Sự phát triển của các công ty cổ phần. 2

3. Vai trò công ty cổ phần trong nền kinh tế hiện đại 2

4. Đặc điểm của công ty cổ phần 2

5. Vì sao phải cổ phần hóa? 2

6. Kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở một số nước 2

CHƯƠNG II: DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

VÀ THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ 2

1. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước trong bước chuyển sang

kinh tế thị trường 2

1.1. Quá trình hình thành doanh nghiệp Nhà nước 2

1.2. Nguyên nhân của thực trạng 2

2. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 2

3. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 2

3.1. Thực trạng 2

3.2. Nguyên nhân 2

CHƯƠNG III: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM - GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CỔ PHẦN HOÁ DNNN Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỚI 2

1. Quan điểm thực hiện chương trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta 2

2. Giải pháp để đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN ở nước ta. 2

3. Mục tiêu cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước trong

giai đoạn hiện nay ở nước ta. 2

4. Những yếu tố tác động đến quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta 2

5. Một số kết quả ban đầu của việc thực hiện cổ phần hoá 2

PHẦN KẾT LUẬN 2

Tài liệu tham khảo 2

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1603 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h xí nghiệp cổ phần mở. Cổ phần của các xí nghiệp này được bán rộng rãi để thu lại phiếu tư nhân hoá đã phát cho nhân dân. ở cấp xí nghiệp, để thực hiện cổ phần hoá, ban giám đốc cùng với tập thể công nhân sẽ soạn thảo ra một kế hoạch tư nhân hoá, phương án chia quyền lợi cho người lao động, cách thức và tiến trình bán cổ phiếu, có thể bán đấu giá cổ phiếu khống chế hoặc các nhóm cổ phiếu khác. ở cấp Nhà nước, chương trình có nêu ra một số phương án phân chia quyền lợi cho người lao động. Người lao động được chia 25% cổ phiếu ưu đãi không mất tiền và có quyền mua 10% cổ phiếu, có quyền biểu quyết với giá giảm 30% so với giá danh nghĩa. Lãnh đạo xí nghiệp có thể mua 5% tổng số cổ phiếu có quyền biểu quyết. Công nhân có thể mua 51% cổ phiếu có quyền biểu quyết theo những điều kiện do Nhà nước quy định. Công nhân có thể mua 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết giảm giá 30%, và một nhóm công nhân có quyền mua 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết theo những điều kiện đặc biệt, không giảm giá nếu họ không chịu trách nhiệm không để cho xí nghiệp bị phá sản. Phương án này chỉ được áp dụng với những xí nghiệp có quy mô trung bình (vốn cơ bản từ 1 đến 50 triệu rúp) không phải cổ phần hoá bắt buộc. 6.3.2. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở Trung Quốc. Thực tế cho thấy quá trình tư nhân hoá ở Trung Quốc bắt đầu vào những năm đầu thập niên 80. Quá trình này bắt đầu trước hết từ những nhận thức của giới lãnh đạo Trung Quốc khi có sức ép cả bên trong lẫn bên ngoài. Song cần nhấn mạnh rằng, những tham vọng để đạt tới mục tiêu của chương trình 4 hiện đại hoá được giới lãnh đạo quan tâm đặc biệt. Từ ngày 22 đến 25/8/1987, tại Hàng Châu (Sơn Tây), Chính phủ tổ chức hội nghị thảo luận về 3 năm thực hiện cổ phần hoá. Chỉ tính riêng trong 5 tỉnh thành phố (Thẩm Dương, Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Châu, Thiểm Tây) đã có trên 1.500 xí nghiệp quốc doanh cổ phần hoá với tổng số vốn lên đến hàng chục tỉ nhân dân tệ. Có được kết quả như vậy Trung Quốc đã tiến hành cổ phần theo hình thức sau: Cơ cấu cổ phần: cơ cấu cổ phần của doanh nghiệp bao gồm cổ phần Nhà nước, cổ phần cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và cá nhân ngoài doanh nghiệp. Chế độ cổ phần hữu hạn: vốn cổ phần của các xí nghiệp này do những xí nghiệp Nhà nước, tập thể và tư nhân đóng góp. Những xí nghiệp tham gia liên hiệp xã hội cổ phần có thể dùng tài sản dưới những hình thái khác nhau như tiền vốn, tài sản cố định để đóng góp cổ phần. Chế độ cổ phần hỗn hợp: cổ phần của các xí nghiệp là sự hỗn hợp cổ phần trong nội bộ và cổ phần ngoài xã hội. Chúng bao gồm cổ phần Nhà nước, cổ phần xí nghiệp, cổ phần các tổ chức kinh doanh và cổ phần cá nhân. + Xác định cổ phần: Việc xác định cổ phần nhằm làm rõ vai trò sở hữu của người sở hữu cổ phần. Căn cứ vào vốn đầu tư để chia quyền sở hữu cổ phần. Tổng số cổ phần được phân chia làm 4 loại: cổ phần Nhà nước, cổ phần xí nghiệp, cổ phần xã hội và cổ phần cá nhân. Cổ phần Nhà nước chủ yếu là chỉ tài sản được hình thành do đầu tư của Nhà nước vào những xí nghiệp thuộc sở hữu toàn dân, bao gồm tài sản cố định, vốn lưu động do Nhà nước cấp. Cổ phần xí nghiệp nói chung là chỉ tài sản được hình thành từ lợi nhuận để lại cho xí nghiệp. Cổ phần xã hội là cổ phần mà các tầng lớp xã hội ở ngoài xí nghiệp đã mua. Cổ phần cá nhân mà cá nhân trong xã hội và nhân dân mua bằng những thu thập cá nhân từ nguồn vốn nhàn rỗi của họ. + Về phân phối lợi nhuận: Nhìn chung có 3 cách phân phối: Lợi nhuận hình thành trước hết phải trả các khoản vay của ngân hàng, sau đó căn cứ vào các luật thuế để nộp các loại thuế cho Nhà nước. Phần lợi nhuận còn lại phân phối cho các quỹ căn cứ vào số lượng các quỹ và tỉ lệ cụ thể cho mỗi quỹ do Hội đồng quản trị quyết định có liên quan của Nhà nước. Hạ thấp mức thuế doanh thu, phần lợi nhuận còn lại sau khi nộp thuế, trả nợ sẽ đem phân bổ cho các quỹ. Lợi nhuận thực hiện còn lại của xã hội được phân bổ cho các quỹ sau khi nộp thuế, tiền phạt (nếu chiếm dụng vốn của Nhà nước hoặc của các xí nghiệp khác), trả nợ và trả lãi ngân hàng. + Phân phối lợi tức cổ phần: cơ bản đều căn cứ vào tỉ lệ cổ phần để chia lợi tức được hưởng khi hoạt động kinh doanh có lãi và chịu thiệt hại tổn thất khi bị thua lỗ. Lợi tức được phân chia dưới dạng một khoản thu nhập cố định hoặc dưới dạng biến động phụ thuộc vào khối lượng lợi nhuận thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh. + Cơ chế quản lý DNNN: cổ phần hoá trên cơ sở giữ lại nguyên trạng chủ sở hữu là Nhà nước. Trong các công ty cổ phần, các cổ đông bao gồm Nhà nước, tập thể và các cá nhân. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn và trung bình, Nhà nước vẫn giữ số cổ phần khống chế. 6.4. Một số điểm rút ra từ kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước trên thế giới Kinh nghiệm cổ phần hoá ở một số nước trên thế giới như đã trình bày ở trên đặc biệt là Trung Quốc, một nước gần chúng ta về địa lý, có nhiều điểm tương đồng về con người, tự nhiên và xã hội, cùng thuộc nhóm các nước XHCN, có thể gợi ý một số vấn đề mang tính khái quát cho quá trình tiến hành cổ phần hoá các DNNN ở nước ta. Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá: Trong những năm 1980, quá trình chuyển đổi sở hữu Nhà nước đã trở thành một hiện tượng kinh tế trên toàn thế giới. Chỉ tính từ năm 1984 đến năm 1991, trên thế giới đã có 250 tỉ USD tài sản Nhà nước đem bán, chỉ riêng năm 1991 đã chiếm khoảng 50 tỉ USD. Làn sóng cổ phần hoá được khởi đầu từ vương quốc Anh vào cuối những năm 1970, sau đó quá trình này lần lượt diễn ra ở tất cả các nước công nghiệp phát triển với nhiều hình thức phong phú. Bị ảnh hưởng bởi quá trình cổ phần hoá ở các nước có nền kinh tế tiên tiến, các nước đang phát triển cũng gia nhập vào xu hướng cổ phần hoá đang diễn ra phổ biến trên thế giới. Đến nay đã có hơn 80 nước đang phát triển với mọi loại tư tưởng chính trị và kinh tế khác nhau đều xây dựng và thực hiện các kế hoạch cổ phần hoá một cách tích cực. Nếu quá trình cổ phần hoá ở các doanh nghiệp Nhà nước ở nhiều nước tư bản và đang phát triển nhằm vào việc thu hẹp sự can thiệp trực tiếp, kém hiệu quả của Nhà nước và trao lại quyền đó cho thị trường và cho khu vực tư nhân thì đối với các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở nền kinh tế chỉ huy, dưới chính thể mới, vấn đề chuyển đổi sở hữu Nhà nước đã trở thành một thử thách chủ yếu đối với cam kết của Nhà nước trong việc tạo ra một hệ thống kinh tế thị trường và khu vực kinh tế tư nhân mà trước đây nó không được phép tồn tại và hoạt động. Sự khắc phục những hiện tượng trì trệ trong nền kinh tế do hoạt động kém hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước, thâm hụt ngân sách kéo dài và gánh nặng nợ của Nhà nước ngày càng tăng đã buộc các Chính phủ có khu vực kinh tế Nhà nước chiếm tỉ trọng lớn trong tổng tư bản xã hội đều phải tìm cách giảm bớt xuống một tỉ trọng nhất định trong nền kinh tế bằng phương pháp cổ phần hoá. Sự giảm bớt này nhằm mục đích tạo ra một tương quan hợp lý giữa sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân, giữa sự điều tiết của Nhà nước và của thị trường đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Như vậy, trong tiến trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam không thể không có nội dung cơ cấu lại nền kinh tế trong đó có vấn đề thu hẹp sở hữu Nhà nước và hạn chế sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp coi trọng hơn vài trò điều tiết của cơ chế thị trường. Vì vậy, tiến hành cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam là một vấn đề, một nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và cũng là một đòi hỏi khách quan để chuyển sang nền kinh tế thị trường dựa trên những động lực của thị trường về vai trò định hướng của Nhà nước. Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá. Quá trình cổ phần hoá phản ánh những sắc thái khác nhau về mục tiêu, cách tổ chức, bước đi và các biện pháp cụ thể do những đặc điểm và hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước cũng như quan niệm xây dựng và phát triển nền kinh tế của mỗi Chính phủ quy định. Quan niệm về vai trò và các lĩnh vực cần được khu vực kinh tế Nhà nước nắm giữ cũng như hình thức tổ chức các doanh nghiệp Nhà nước đều có sự khác nhau, do đó dẫn đến vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp này cũng khác nhau tuỳ thuộc đặc điểm của mỗi nước. Trong điều kiện nước ta mới vừa thành lập thị trường chứng khoán, còn non trẻ và bỡ ngỡ, khu vực kinh tế Nhà nước vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn thì sự vận dụng những kinh nghiệm của các nước đi trước cần phải đặc biệt chú ý đến tính đặc thù của mỗi nước để sàng lọc và thử nghiệm kỹ càng trong điều kiện nước ta. Tính quá trình của việc thực hiện cổ phần hoá. Quá trình cổ phần hoá diễn ra bao gồm nhiều giai đoạn: chuẩn bị các điều kiện về mặt tổ chức, lựa chọn các mục tiêu, phương pháp thực hiện, kiểm soát và điều chỉnh. Trên thực tế không thể có sự phân định rõ rệt, chắc chắn giữa các giai đoạn. Việc quan niệm cổ phần hoá như một quá trình với nhiều giai đoạn có ý nghĩa chỉ đạo về mặt thực tiễn: Nó truyền đạt một cách rõ ràng và dễ hiểu những biện pháp và nhiệm vụ cơ bản, phức tạp đến những người còn chưa quen với cổ phần hoá. Nó cho phép các nhà phân tích, hạch định và phối hợp chính sách lường định được những gì sẽ xảy ra trong giai đoạn tiếp theo. Nó cho thấy cần phải gạt bỏ những ảo tưởng nóng vội muốn làm tất cả một lúc của những người cực đoan cấp tiến và khuyến khích tính thận trọng với các giải pháp trình tự phù hợp đối với một công việc còn chưa quen với các quan chức Chính phủ. Do vậy, việc tiến hành cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam là một quá trình lâu dài và vừa làm vừa rút kinh nghiệm, có bước đi cụ thể. Tính pháp lý của việc thực hiện cổ phần hoá. Cần tạo ra một môi trường pháp lý khi tiến hành công việc cổ phần hoá. Đó là các bộ luật quan trọng là điều kiện để xác lập và ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra khuôn khổ pháp lý cho sự chuyển hoá và hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hoá và các công ty nói chung. ở Việt Nam để tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp và đổi mới cơ chế kinh tế nói chung, không thể không có vấn đề về môi trường pháp lý và ổn định kinh tế vĩ mô. Chi phí cho quá trình cổ phần hoá. Để thực hiện thành công quá trình cổ phần hoá, thực tiễn ở các nước đều cho thấy Nhà nước cần phải chịu một khoản chi phí nhất định. Điều này nói lên sự khác nhau cơ bản giữa Nhà nước và tư nhân. Đối với tư nhân sau khi đã bán cổ phần của mình để thu lời và không còn chịu trách nhiệm gì đối với doanh nghiệp thì ngược lại, Nhà nước vẫn phải quan tâm đến những vấn đề của doanh nghiệp sau khi đã cổ phần hoá, cũng như những vấn đề chính trị nảy sinh. Các khoản chi phí đó được các Chính phủ quan niệm và xử lý khác nhau. Nó có thể là sự ưu đãi cổ phiếu khi bán hoặc cho không đối với những tầng lớp dân cư nhất định nhằm những mục tiêu về chính trị, xã hội, chi phí cho việc bảo hiểm, trợ cấp thời gian đào tạo lại nghề và tìm việc mới đối với những người lao động bị mất việc làm,... Những khoản chi phí này là cần thiết và có tác dụng bảo đảm cho sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội cho việc thực hiện một chương trình có tầm quan trọng lâu dài trong quá trình cải cách kinh tế. Điều này cũng hết sức cần thiết để đảm bảo thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp đạt được kết quả cao ở nước ta. Tóm lại, gợi ý bước đi cổ phần hoá ở Việt Nam bao gồm: Thứ nhất, về tổ chức thực hiện cổ phần hoá, giao cho một Bộ trưởng chuyên đảm trách vấn đề này, đồng thời có một bộ máy tổ chức và cán bộ chuyên môn để giúp việc, hình thành các công ty thác quản do nhà nước thành lập chuyên lo việc bán, chuyển đổi hình thức sở hữu, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Thứ hai, việc cổ phần hoá xét về mặt thực chất là việc bán các tài sản quốc gia. Vì vậy trước khi thực hiện chủ trương này, nước ta phải ban hành Luật hoặc Pháp lệnh về tư nhân hoá, cổ phần hoá và các Luật, Pháp lệnh khác có liên quan. Thứ ba, việc cổ phần hoá phải được tiến hành theo chương trình đã được chuẩn bị chu đáo, thực hiện theo từng bước có quy mô phù hợp với đặc điểm, điều kiện trong nước. Thứ tư, cổ phần hoá là công việc hết sức phức tạp cần thực hiện trong nhiều năm, kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, sự nôn nóng, muốn làm nhanh đều đặt kết quả không như mong muốn. Thứ năm, phải có tổ chức để thẩm tra, thanh tra việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, nhằm chống và hạn chế tham nhũng trong khi thực hiện chương trình. Thứ sáu, phải đảm bảo tỷ suất lợi nhuận ở các công ty cổ phần hoá bằng hoặc cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân, nếu thấp hơn, người mua phải được bù lại bằng quyền có việc làm,... Thứ bảy, cổ phiếu có khả năng chuyển nhượng để người mua có thể thay đổi nơi đầu tư khi cần thiết. Chương II Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam và thực trạng cổ phần hoá 1. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước trong bước chuyển sang kinh tế thị trường 1.1. Quá trình hình thành doanh nghiệp Nhà nước Các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam được hình thành từ năm 1954 (ở miền Bắc) và từ năm 1975 (ở miền Nam). Do hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau và được xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm, nên các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam có các đặc trưng khác biệt. Qui mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé, vốn ít (1 tỉ) kỹ thuật lạc hậu, cơ cấu phân tán biểu hiện ở số lượng lao động và mức độ tích luỹ vốn. Số lao động trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm một tỷ trọng khá nhỏ trong tổng số lao động xã hội, khoảng 5-6%. Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu so với thế giới 2-3 thế hệ. Mặt khác, đại bộ phận doanh nghiệp Nhà nước được xây dựng bằng kỹ thuật của nhiều nước khác nhau nhưng tính đồng bộ của doanh nghiệp thấp. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước khó có khả năng cạnh tranh cả trong nước và quốc tế. Việc phân bố còn bất hợp lý về ngành và vùng. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước không còn được bao cấp mọi mặt như trước nữa, đã thế lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh tranh khốc liệt, nên nhiều doanh nghiệp Nhà nước không trụ nổi, buộc phải phá sản, giải thể. Hệ thống quản lý nặng nề, kém linh hoạt chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế thị trường. Các quyết định đầu tư, các phương án sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, các phương án đổi mới kỹ thuật và công nghệ, phân phối tài chính có quá nhiều quy định, thủ tục phiền hà. Chế độ tập thể quyết định, trên thực tế không ai chịu trách nhiệm, gây tổn thất lớn đối với tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế trong các doanh nghiệp Nhà nước rất thấp, nhiều doanh nghiệp không bảo toàn được vốn, tốc độ chu chuyển đồng vốn chậm. Theo số liệu tính toán bước đầu đến cuối năm 1994 riêng số doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý thua lỗ lên tới 496 doanh nghiệp. Có thể nhận thấy rằng: hầu hết doanh nghiệp Nhà nước ta hình thành từ thời quản lý tập trung bao cấp, khi chuyển sang cơ chế mới lại thiếu kiểm soát chặt chẽ việc thành lập nên phát triển tràn lan. Một bộ phận quan trọng doanh nghiệp Nhà nước không đủ điều kiện tối thiểu để hoạt động, thiếu vốn tối thiểu, trang bị quá đơn sơ, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng. Mặt khác trong điều kiện kinh tế tư nhân còn quá non yếu, chỉ mới hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp nên doanh nghiệp Nhà nước chưa thể tập trung toàn lực cho yêu cầu phát triển ở những ngành lĩnh vực then chốt. Sau 10 năm đổi mới, các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang chuyển biến khác căn bản, đã sắp xếp lại một bước quan trọng, đã giảm gần được một nửa số doanh nghiệp chủ yếu những doanh nghiệp địa phương, nhỏ bé, hoạt động không có hiệu quả. Số lớn doanh nghiệp còn lại được tổ chức lại và từng bước phát huy quyền làm chủ, làm ăn năng động có hiệu quả. Nhìn chung, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn rất khó khăn, hiệu quả kinh doanh còn thấp. Nhiều doanh nghiệp vẫn làm ăn thua lỗ triền miên, hoạt động cầm chừng sự đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước cho ngân sach chưa tương xứng với phần đầu tư của Nhà nước cho nó, cũng như với tiềm lực của doanh nghiệp Nhà nước. Tình trạng mất và thất thoát lớn về vốn đang diễn ra hết sức nghiêm trọng, việc quản lý đối với doanh nghiệp Nhà nước còn yếu kém, đặc biệt nghiêm trọng là tình hình buông lỏng quản lý tài chính làm Nhà nước mất vai trò thực sự là người chủ sở hữu, tình trạng phân hoá, chênh lệch trong thu nhập ngày càng tăng. 1.2. Nguyên nhân của thực trạng Thứ nhất, đó là do sự ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trong điều kiện chiến tranh kéo dài, tư duy không đúng của mô hình CNXH trước đây. Trong tư duy cũng như trong thực tiễn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH trước đây, người ta xem nhẹ các quy luật kinh tế khách quan của thị trường, coi kinh tế thị trường là riêng có của CNTB. Từ đó dẫn đến hậu quả là việc hạch toán kinh tế ở các doanh nghiệp mang tính hình thức, không có quyền tự chủ kinh doanh. Trong điều kiện như vậy rõ ràng doanh nghiệp Nhà nước rất xa lạ với mô hình doanh nghiệp theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thứ hai, đó là sự yếu kém của nền kinh tế, chủ yếu là lực lượng sản xuất, nói chung các nguồn lực để phát triển sản xuất và kinh tế của ta tuy phong phú, song chủ yếu mới ở dạng tiềm năng. Để biến chúng thành hiện thực và có hiệu quả cần phải có lượng vốn lớn, kỹ thuật công nghệ đồng bộ, đội ngũ công nhân, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý có năng lực, đồng thời phải có trình độ tổ chức và quản lý thích hợp của Nhà nước cũng như của mỗi doanh nghiệp. Sự yếu kém của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay biểu hiện rõ nhất là sự thấp kém lạc hậu của kết cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế, cũng như của mỗi doanh nghiệp. Đây là lực cản hàng đầu đối với sự cất cánh của mỗi doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế, cả nước mới có 32.595 km đường sắt, quốc lộ có 11 vạn km thì 7% đường tốt, 47% đường xấu và rất xấu,... Sự yếu kém của nền kinh tế còn thể hiện ở chỗ chưa có tích luỹ nội bộ, chưa có khả năng chi trả số nợ đến hạn và quá hạn. Mặt khác hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp còn thấp, kinh nghiệm kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới còn yếu kém, các DNNN không được đặt trong môi trường cạnh tranh, không gắn với thị trường do đó dẫn tới chậm đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm. Thứ ba, trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nói chung, đối với doanh nghiệp nói riêng còn nhiều yếu kém. Hệ thống p háp luật, chính sách quản lý chưa hoàn chỉnh, phần lớn vẫn là các văn bản pháp quy dưới luật, có nhiều quy định mâu thuẫn nhau. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, nhiều văn bản quản lý cũ đã lỗi thời, song chưa bị huỷ bỏ những văn bản mới có nhiều sơ hở, nhưng không kịp sửa đổi nên đã bị lợi dụng phục vụ lợi ích trước mắt. Thứ tư, trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, Đảng và Nhà nước chậm và không cương quyết trong việc cải cách chế độ sở hữu của các doanh nghiệp Nhà nước. Tình hình không rõ ai là chủ sở hữu đích thực là nguyên nhân tham nhũng của những kẻ có chức quyền và sự lãnh đạo thiếu trách nhiệm, thiếu kỷ cương và kỷ luật của người lao động, có sự giảm sút về năng suất, chất lượng và hiệu quả,.,.. trong các doanh nghiệp Nhà nước. Tóm lại, các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta do yếu tố lịch sử để lại đã và đang đóng góp vai trò to lớn gần như tuyệt đối trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nhưng lại hoạt động kém hiệu quả và phát sinh nhiều tiêu cực. Quá trình chuyển đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản doanh nghiệp Nhà nước. Đây là mâu thuẫn lớn song bắt buộc phải giải quyết đổi mới, phải có giải pháp và bước đi phù hợp trình độ thực tế cơ sở. 2. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam Chủ trương cổ phần hoá DNNN lần đầu tiên được nêu tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW khoá VII (tháng 11-1991) và tiếp tục được cụ thể hoá tại Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 1-1994), Nghị quyết 10/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 17/3/1995, Thông báo số 63/TB-TW ngày 4/4/1997, và được khẳng định rõ hơn tại Nghị quyết Đại hội VIII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khoá VIII). Mục tiêu nhất quán của cổ phần hoá một bộ phận DNNN để huy động vốn, tạo điều kiện để người lao động được làm chủ thực sự trong doanh nghiệp, tạo động lực bên trong, thay đổi phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời làm tăng tài sản và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp. Từ khi có chương trình cổ phần hoá DNNN, chúng ta có thể chia quá trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam thành 3 giai đoạn: * Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995): Thực hiện Chỉ thị 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về "chuyển một số doanh nghiệp thành công ty cổ phần" và Chỉ thị 84/TTg ngày 4/3/1993 về "xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với DNNN". Kết quả 4 năm thí điểm, trong 10 doanh nghiệp Nhà nước được lựa chọn làm thí điểm thì cuối năm 1995 đã có 5 doanh nghiệp Nhà nước được chuyển thành công ty cổ phần. - Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (Bộ GTVT); - Công ty cổ phần cơ điện lạnh (TP. Hồ Chí Minh); - Công ty cổ phần giày Hiệp An (Bộ Công nghiệp); - Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu (tỉnh Long An); - Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (Bộ Nông nghiệp). * Giai đoạn mở rộng cổ phần hoá (từ tháng 5-1996 đến tháng 6-1998): Từ kết quả thí điểm của giai đoạn trước, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định 28/CP về "chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần". Nghị định này đã tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ hơn để tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Tính đến tháng 5/1998, cả nước đã chuyển được 25 doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần với tổng số vốn điều lệ là 281 tỷ đồng và gồm 6.000 lao động. - Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hoá (từ tháng 6/1998) Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 đã thay thế Nghị định 28/CP với tinh thần tạo động lực mạnh mẽ hơn cho các doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần, cũng như đơn giản hoá một số thủ tục liên quan. Tính đến cuối năm 1999, cả nước đã chuyển sang được 370 doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần (trong đó từ tháng 6/1998 đến cuối 1998 chuyển được 90 doanh nghiệp và 1999 chuyển được 250 doanh nghiệp, gấp 7 lần so với 6 năm trước đó (1992-1997) cộng lại. Đến cuối năm 2000, cả nước có 523 DNNN chuyển thành công ty cổ phần chiếm 8,5% tổng số DNNN hiện có. Đến tháng 9/2001 thì cả nước có khoảng 700 DNNN được cổ phần hoá). Kết quả, số DNNN cổ phần hoá tăng chưa từng thấy từ trước đến nay. Tính đến cuối năm 2001 cả nước có gần 1.000 công ty cổ phần, có trên 500 công ty cổ phần với số vốn đăng ký 2.000 tỉ đồng. Đây là kết quả tương đối khả quan cho một thị trường chứng khoán còn rất non trẻ và mới lạ ở Việt Nam, đó chính là bước ngoặt cực kỳ quan trọng cho công cuộc cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam. 3. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 3.1. Thực trạng Tính đến hết quí I/2000, chúng ta đã cổ phần hoá được 396 doanh nghiệp và 10 doanh nghiệp bán, khoán cho thuê. Các doanh nghiệp được cổ phần hoá có quy mô vốn Nhà nước không lớn, bình quân 4 tỉ đồng/1 doanh nghiệp, chỉ có khoảng hơn 40 doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 10 tỉ đồng trở lên và có trên 50% doanh nghiệp có thể lựa chọn để bán cổ phần ở trung tâm giao dịch chứng khoán. Quá trình cổ phần hoá đã huy động được khoảng gần 1.000 tỉ đồng của các cá nhân và tổ chức kinh tế, xã hội trong đó số thu về do bán một phần giá trị vốn Nhà nước tại các DNNN thực hiện cổ phần hoá là 300 tỉ đồng. Trong quá trình thực hiện cổ phần hoá, nhiều Bộ, ngành, địa phương, các Tổng công ty tích cực thực hiện và có những kết quả đáng khích lệ, hiệu quả và khả năng cạnh tranh đã rõ ràng: lao động, tiền lương, lợi nhuận, ngân sách đều tăng hơn so với trước khi cổ phần hoá. Điển hình là các địa phương Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Nam Định, Thanh Hoá,...; các bộ, xây dựng, Nông nghiệp và phát triển nông thôn,..; các Tổng công ty: Hàng hải, than, xi măng, dệt may,... Tuy nhiên, bên cạnh các Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty đã coi trọng cổ phần hoá, còn một số Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty vẫn còn chần chừ, chờ đợi, còn nêu ra nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa tích cực tổ chức học tập kinh nghiệm những nơi làm tốt để quyết tâm thực hiện cổ phần hoá DNNN một cách triệt để hơn. Các bộ, ngành,... nhìn chung đã có đề án sắp xếp lại DNNN thuộc phạm vi quản lý. Song đa số lại chưa có lộ trình và kế hoạch hàng năm cụ thể về cổ phần hoá, công việc chỉ đạo còn chung chung nên kết quả còn thấp. Có thể nói, ý nghĩa, mục tiêu, yêu cầu cổ phần hoá DNNN đã khá rõ, nhưng trên thực tế quá trình cổ phần hoá chưa tạo nên sự chuyển biến đáng kể về đổi mới cơ cấu DNNN, cơ cấu lại nguồn vốn Nhà nước và huy động vốn ngoài ngân sách Nhà nước. Đồng thời chưa tạo ra sự quan tâm và hưởng ứng tích cực của xã hội đối với việc cổ phần hoá. Nhìn chung, quá trình cổ phần hoá DNNN thời gian qua còn quá chậm về tốc độ, khiêm tốn về kết quả so với mục tiêu kế hoạch đề ra. 3.2. Nguyên nhân Thứ nhất, chưa tạo ra được môi trường thuận lợi để thúc đẩy nhanh cổ phần hoá DNNN. Cơ chế chính sách cổ phần hoá DNNN ban hành cò

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, lý luận và thực tiễn ở Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan