MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG PHÂN PHỐI BÁN LẺ MẶT HÀNG THỰC PHẨM 3
1.1. Hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm và sự cần thiết khách quan phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm. 3
1.1.1. Mặt hàng thực phẩm, phân loại, đặc điểm và vai trò 3
1.1.2. Hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm. 6
1.1.2.1. Chợ truyền thống. 6
1.1.2.2. Trung tâm thương mại, siêu thị và chuỗi hệ thống các cửa hàng hiện đại. 7
1.1.2.3. Các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong. 8
1.1.2.4. Đặc điểm chung của hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm 8
1.1.3. Sự cần thiết khách quan của việc phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm ở nước ta. 9
1.2. Nội dung phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm 10
1.2.1. Về các chợ truyền thống 10
1.2.1.1. Phát triển hệ thống chợ theo chiều rộng 10
1.2.1.2. Phát triển hệ thống chợ theo chiều sâu. 11
1.2.2. Về các trung tâm thương mại, các siêu thị và các chuỗi cửa hàng hiện đại. 12
1.2.2.1. Phát triển theo chiều rộng 12
1.2.2.2. Phát triển theo chiều sâu. 13
1.2.3. Về các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong. 14
1.2.3.1. Phát triển theo chiều rộng. 14
1.2.3.2. Phát triển theo chiều sâu. 15
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm. 15
1.3.1. Môi trường chính trị pháp luật 16
1.3.2. Môi trường kinh tế vĩ mô. 17
1.3.3. Yếu tố văn hoá xã hội. 17
1.3.4. Vấn đề nội tại của từng hệ thống. 18
1.3.5. Thị trường và các đối thủ cạnh tranh. 19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÂN PHỐI BÁN LẺ MẶT HÀNG THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 20
2.1. Khái quát chung về tình hình kinh tế - thương mại Hà Nội những năm qua. 20
2.2. Thực trạng hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội. 22
2.2.1. Chợ truyền thống. 22
2.2.2. Trung tâm thương mại, siêu thị và các chuỗi cửa hàng hiện đại 26
2.2.3. Các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong. 30
2.3. Đánh giá chung về hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội 33
2.3.1. Những thành tựu đạt được. 33
2.3.2. Những mặt hạn chế. 34
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG PHÂN PHỐI BÁN LẺ MẶT HÀNG THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 36
3.1. Dự báo thị trường thực phẩm Hà Nội. 36
3.2. Giải pháp phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội. 37
3.2.1. Phát triển các chợ truyền thống. 37
3.2.2. Phát triển các trung tâm thương mại, các siêu thị và chuỗi hệ thống các cửa hàng hiện đại. 39
3.2.3. Phát triển các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong. 42
3.2.4. Một số kiến nghị vĩ mô. 44
KẾT LUẬN 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 49
52 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2882 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các hành động hợp lý giúp hoạt động kinh doanh trở nên thuận lợi và tiến tới thành công.
1.3.4. Vấn đề nội tại của từng hệ thống.
Muốn phát triển hệ thống trước hết phải xem trong hệ thống của mình
đang tồn tại những vấn đề gi ? Những điểm mạnh điểm yếu ra sao ? Ví dụ cụ thể đưa ra ở đây là hệ thống các siêu thị phân phối bán lẻ thực phẩm của Việt Nam. Các siêu thị này có điểm mạnh là am hiểu thị trường trong nước. Các doanh nghiệp nắm bắt được dân số, thu nhập, thị hiếu, tâm lý, văn hóa… của người tiêu dùng từ đó có các chiến lược về giá, chiến lược sản phẩm phù hợp. Bên cạnh đó chúng ta chủ động được nguồn hàng thực phẩm trong nước tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình kinh doanh. Tuy nhiên nội tại các siêu thị này còn nhiều hạn chế. Tiềm lực về vốn các doanh nghiệp trong nước còn yếu, quy mô các siêu thị còn nhỏ, trang thiết bị chưa thục sự hiện đại, hàng hoá chất lượng chưa cao… Không chỉ hạn chế về điều kiện vật chất, chúng ta còn thua kém các doanh nghiệp nước ngoài ở trình độ, năng lực và kinh nghiệm quản lý, chất lượng độ ngũ nhân viên. Doanh nghiệp muốn phát triển được theo chiều rộng hay chiều sâu đều đòi hỏi yêu cầu về vốn, về nhân lực. Các vấn đề còn tồn tại trong doanh nghiệp sẽ tác động ảnh hưởng trực tiếp tới việc phát triển hệ thống. Sau khi nghiên cứu kĩ các vấn đề này sẽ giúp doanh nghiệp có phương hướng, hành động phát huy các điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu để phát triển doanh nghiệp.
1.3.5. Thị trường và các đối thủ cạnh tranh.
Khi nói tới thị trường và đối thủ cạnh tranh chúng ta chủ yếu đề cập
tới các doanh nghiệp, các chủ thương bởi vì bản chất chợ được hình thành từ nhiều cửa hàng nhỏ và trong nội bộ chợ cũng có sự cạnh tranh lẫn nhau. Thị trường là nơi diễn ra hoạt động trao đổi hàng hoá, và mỗi doanh nghiệp có một thị trường mục tiêu riêng. Đặc điểm thị trường sẽ ảnh hưởng tới các quyết định của doanh nghiệp. Thị trường có quy mô rộng lớn trong đó các khách hàng có thu nhập trung bình thì hệ thống phân phối sẽ cung cấp các sản phẩm chất lượng trung bình và có mức giá bình dân. Ngược lại số lượng khách hàng có thu nhập cao chiếm tỉ lệ lớn sẽ gợi cho các doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm hàng hoá chất lượng cao và giá cả giúp thể hiện một phần cái “tôi” của khách hàng.
Bên cạnh thị trường thị các đối thủ cạnh tranh cũng có tác động lớn tới việc phát triển hệ thống phân phối bán lẻ. Các doanh nghiệp sẽ phải tính toán làm sao cho các hệ thống phát triển có hiệu quả để có thể cạnh tranh được với các đối thủ khác trên thị trường. 1-1-2009 là thời hạn Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ theo cam kết khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Các doanh nghiệp trong nước sẽ phải cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới như: Wall-mart, Lotte, Parkson…. Các tập đoàn này có tiềm lực về vốn, có kinh nghiệm và trình độ quản lý cao. Chắc chắn cạnh tranh trên thị trường phân phối bán lẻ nói chung và phân phối bán lẻ thực phẩm nói riêng sẽ trở nên hết sức khốc liệt. Các doanh nghiệp cần có những chiến lựơc, hành động đúng đắn, kết hợp phát triển hệ thống phân phối bán lẻ theo cả chiều rộng và chiều sâu để có thể tồn tại và phát triển.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÂN PHỐI BÁN LẺ MẶT HÀNG THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
2.1. Khái quát chung về tình hình kinh tế - thương mại Hà Nội những năm qua.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiên đại hoá phát triển kinh tế, thủ
đô Hà Nội luôn là đầu tàu kinh tế của khu vực phía Bắc. Tốc độ tăng trưởng bình quân các năm đều rất cao trung bình khoảng 11,35% ( giai đoạn 2001-2008), mức sông nhân dân được nâng cao. Các nhà cao tầng, trung tâm thương mại, các khu đô thị mới được xây dựng đã làm thay đổi diện mạo thủ đô. Các công viên, khu vui chơi giải trí, nhà hàng hình thành nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Bảng 2.1. Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế của Hà Nội giai đoạn 2001-2008
Đơn vị %
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Bình quân
2001-2008
Tốc độ tăng
trưởng chung
10,03
12,04
11,43
11,58
11,6
11,53
12,0
10,62
11,35
Tăng trưởng
công nghiệp
9,23
13,44
17,19
13,85
12,94
13,0
13,50
12,57
12,23
Tăng trưởng
nông nghiệp
1,16
7,39
2,02
-1,74
1,54
1,10
1,90
1,73
1,88
Tăng trưởng
dịch vụ
11,07
11,50
8,53
10,82
10,43
11,00
12,0
10,87
10,77
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội
Cùng với sự tăng trưởng cao, nền kinh tế thủ đô đã có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ. Tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ tăng nhanh, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm. Đồng thời cơ cấu nội bộ các ngành cũng chuyển dịch hết sức tích cực. Các ngành công nghiệp kĩ thuật cao, các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp phụ trợ phát triển mạnh. Các ngành dịch vụ rất phát triển trong đó các dịch vụ tiện ích, dịch vụ chất lượng cao có đóng góp rất lớn. Sản xuất nông nghiệp giảm để tăng diện tích đất xây dựng các nhà máy và khu đô thị.
Bảng 2.2. Cơ cấu kinh tế Hà Nội giai đoạn 2001-2008
Đơn vị %
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Công nghiệp
36,8
37,8
40,5
40,6
40,8
40,8
41,2
40,9
Nông nghiệp
2,7
2,5
2,3
1,9
1,6
1,5
1,3
1,5
Dịch vụ
60,5
59,7
57,2
57,5
57,6
57,7
57,5
57,6
Tổng
100
100
100
100
100
100
100
100
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội
Hoạt động kinh tế thương mại tại Hà Nội diễn ra hết sức sôi động. Các doanh nghiệp thương mạị tăng lên nhanh chóng, năm 2001 có khoảng 3000 doanh nghiệp thì đã tăng lên hơn 9000 doanh nghiệp vào năm 2007 giải quyết công ăn việc làm cho hơn 165.000 lao động thủ đô và lao động các tỉnh. Cùng với đó, hoạt động bán lẻ hàng hoá cũng có bước phát triển nhanh chóng. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ của Hà Nội đã tăng từ 4.203 tỷ đồng (năm 2001) lên 68.554 tỷ đồng(năm 2007) trong đó mặt hàng thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn ( khoảng trên 40%).
Giai đoạn 2001-2007 nền kinh tế đang phát triển mạnh thì giai đoạn 2008 đến quý đầu năm 2009 tình hình kinh tế có những diễn biến xấu. Trong năm 2008 tình hình giá cả hết sức biến động, lạm phát tăng cao. Theo tính toán thì lạm phát đã lên tới trên 25%/năm, nền kinh tế bị tác động lớn do giá xăng dầu, giá nguyên liệu tăng cao. Cuối năm 2008, Hà Tây và một số địa phương lân cận được sát nhập vào Hà Nội. Thủ đô đã được mở rộng địa giới hành chính tạo ra các điều kiện để phát triển kinh tế. Tuy nhiên trong giai đoạn cuối 2008 đầu 2009 kinh tế thế giới lâm vào đại suy thoái đã tác động xấu đến kinh tế nước ta. Xuất khẩu giảm mạnh, hàng hoá sản xuất ra không bán được. Các nhà máy bị phá sản làm cho thất nghiệp gia tăng, đời sống một bộ phận lớn người dân gặp nhiều khó khăn. Cũng trong xu thế đó thì ngành kinh doanh bán lẻ cũng bị ảnh hưởng lớn, tốc độ tăng trưởng giảm mạnh. Thực phẩm là một mặt hàng thiết yếu nên dù kinh tế suy thoái thì mọi người cũng vẫn phải tiêu dùng. Tuy nhiên sức tiêu thụ đã giảm mạnh, nhân dân thắt chặt chi tiêu để tiết kiệm vì lo lắng cho một tương lai không mấy sáng sủa. Trước tình hình đó chính phủ đã có nhiều biện pháp thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong đó có gói kích cầu trị giá 1tỉ dola. Nền kinh tế cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng đang từng bước khắc phục khó khăn, cố gắng nhanh chóng thoát ra khỏi khủng hoảng.
2.2. Thực trạng hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội.
2.2.1. Chợ truyền thống.
Chợ là một hình thức phân phối bán lẻ có lịch sử hình thành, tồn tại và
phát triển từ rất lâu. Có các chợ kinh doanh tổng hợp, có các chợ chuyên doanh một loại hàng hoá trong đó mặt hàng thực phẩm là một trong những mặt hàng kinh doanh hết sức phổ biến. Hoà chung nhịp phát triển kinh tế đất nước thì hệ thống chợ Hà Nội cũng đã đạt được các kết quả rất đáng ghi nhận:
+ Hệ thống chợ đã phát triển mạng lưới rộng khắp các khu vực trên địa bàn Hà Nội cung cấp hàng hoá phục vụ nhu cầu của nhân dân. Trên địa bàn Hà Nội khi chưa mở rộng có khoảng 135 chợ trong đó trên 90% các chợ có phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm. Hàng hoá trong chợ hết sức dồi dào, phong phú đáp ứng đầy đủ và đa dạng nhu cầu nhân dân thủ đô. Các chợ phân bố không đồng đều, phần lớn các quận nội thành ít chợ hơn khu vực ngoại thành. Nguyên nhân là do các quận nội thành diện tích chật hẹp, quỹ đất để mở rộng hệ thống chợ không còn, phần lớn các chợ đều được xây dựng từ lâu và không xây thêm chợ mới.
Bảng 2.3. Tình hình phân bố các chợ trên địa bàn Hà Nội
Quận, huyện
Số Chợ
Hoàn Kiếm
6
Hai Bà Trưng
9
Đống Đa
12
Ba Đình
7
Tây Hồ
7
Cầu Giấy
9
Thanh Xuân
4
Hoàng Mai
8
Long Biên
7
Gia Lâm
14
Đông Anh
21
Sóc Sơn
13
Thanh Trì
5
Từ Liêm
13
Tổng
135
Nguồn: Sở thương mại Hà Nội
+ Hệ thống chợ góp phần vào việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chợ giúp lưu thông hàng hóa, là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Thực phẩm sản xuất ra muốn tiêu thụ đựợc thì phải thông qua các hệ thống phân phối mà chợ là một trong những hình thức điển hình. Bên cạnh đó chợ Hà Nội đã tạo nguồn thu nhập, tạo công ăn việc làm cho hàng chục nghìn lao động góp phần giải quyết vấn đề an sinh xã hội.
+ Chợ là hình thức kinh doanh bán lẻ truyền thống không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn mang những giá trị văn hoá, lịch sử. Một số chợ ở Hà Nội chính là các di tích lịch sử, các di tích văn hóa như chợ Đồng Xuân, Chợ Mơ, chợ 19-12,… Giá trị văn hoá, lịch sử của chợ đã góp phần thúc đẩy ngành du lịch phát triển. Không một du khách quốc tế nào đến Hà Nội mà không tới các chợ. Họ tới chợ không chỉ để mua hàng hoá mà còn để tìm hiểu các nét đẹp văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy văn hoá chợ đã góp phần giới thiệu quảng bá các nét văn hoá truyền thống của đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì hệ thống chợ trên địa bàn Hà Nội còn tồn tại một số hạn chế:
+ Thực trạng cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng của các chợ hiện này còn rất yếu kém. Hầu hết các chợ có quy mô nhỏ hẹp, theo số liệu của sở thương mại Hà Nội năm 2007 thì có tới 74% các chợ có diện tích dưới 5000m2. Đường giao thông đi đi vào các chợ cũng như đường đi trong chợ thường xuyên bị ách tắc. Khách hàng khi đi chợ cũng gặp rất nhiều khó khăn về nơi để xe, có nơi khách phải để xe trên vỉa hè hoặc dưới lòng lề đường khiến cho tình trạng tắc nghẽn giao thông càng xảy trầm trọng hơn. Các điều kiện đảm bảo an toàn cháy nổ còn rất thiếu dẫn tới tình trạng nguy hiểm khi có tai nạn xảy ra. Vụ cháy chợ Đồng Xuân vài năm trước là một minh chứng cụ thể. Do các trang thiết bị cứu hoả không được trang bị đầy đủ, một số có dụng cụ nhưng không sử dụng được kết quả là lửa bắt nguồn từ một gian hàng và lan ra toàn thể khu chợ. Thiệt hại lúc đó ước tính hàng chục tỉ đồng, đời sống các chủ thương trong chợ gặp rất nhiều khó khăn. Không chỉ hoả hoạn mà nước cũng chính là một thực trạng đáng báo động. trong các chợ hiện nay thì hệ thống thoát nước cũng chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt ra. Sau mỗi một trận mưa thì tình trạng nước ứ đọng, ngập lụt thường xuyên xảy ra. Các chất thải, thực phẩm hỏng, đồ ăn thừa… trôi nổi, phân huỷ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Trong trận mưa lụt lich sử năm 2008 vừa qua thì hầu hết các chợ đều bị ngập lụt, rác thải lênh láng. Môi trường chợ và môi trường sống của các hộ dân xung quanh bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
+ Chất lượng thực phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm cũng là một thực trạng đang tồn tại trong các chợ hiện nay. Hệ thống các lò giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn Hà Nội với điều kiện vệ sinh kém đã không được đảm bảo đựoc yêu cầu vệ sinh đối với mặt hàng thực phẩm. Tình trạng thực phẩm tươi sống, các loại rau củ… từ các nơi đưa về mà không qua kiểm soát, không có dấu xác nhận của cơ quan kiểm dịch vẫn được bày bán công khai chính là nguồn gốc lây lan bệnh dịch và ngộ độc thực phẩm. Không chỉ mặt hàng thực phẩm chưa qua chế biến mà các thực phẩm chín chất lượng cũng rất kém thậm chí gây nguy hiểm cho người tiêu dùng. Khi bộ y tế đưa các đoàn kiểm tra về chất lượng thực phẩm thì đã phát hiện trong các loại thực phẩm đã qua chế biến có chứa các chất phụ gia độc hại như : Phoóc môn, hàn the… Theo nghiên cứu khoa học thì khi con người ăn phải các chất này sẽ có khả năng mắc bệnh ung thư, các bệnh về gan, tim mạch… Do chưa quy hoạch đựơc chỗ đổ rác và ý thức của một bộ phận người dân còn kém nên rác và các chất thải từ thực phẩm được đổ, vứt lung tung, bừa bãi gây ô nhiễm môi trưòng. Trong điều kiện như vậy thì dù các loại thực phẩm có được chế biến đảm bảo nhưng vẫn nhiễm các vi khuẩn gây hại cho cơ thể.
+ Thực trạng kinh doanh của các chợ vẫn còn chưa tốt. Việc tiến hành mua bán hàng hoá của các chủ thương mang tính tự phát. Các chợ cóc, chợ tạm hình thành nên mặc dù mang lại một số tiện ích cho người dân nhưng gây ùn tắc giao thông nghiêm trọng. Các chủ thương thường xuyên lấn chiếm lòng lề đường gây mất trật tự an toàn giao thông. Do thực trạng kinh doanh tự phát nên cũng không thể quy hoạch được nơi vệ sinh, đổ rác gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Không chỉ có vậy khi tiến hành kinh doanh trong chợ, các chủ thương không có một mức giá hoặc một khung giá cố định gây khó khăn cho khách hàng. Khi có một sự kiện gì đó họ đã lấy cớ đẩy giá lên cao. Cụ thể là trong trận mưa lụt năm 2008, cả thành phố Hà Nội ngập trong nước, diện tích hoa màu, các hộ nuôi trồng thực phẩm từ tôm cá, gia cầm, rau quả … bị thiệt hại nặng nề, nguồn cung thực phẩm bị hạn chế. Trước thưc trạng đó các hộ kinh doanh đã tăng giá lên cao quá mức gây nên khó khăn cho đời sống nhân dân.
+ Công tác tổ chức, quản lý hệ thống chợ cũng chưa thực sự đạt kết quả như mong muốn. Sự phân bố và mật độ chợ trên địa bàn đều do nhu cầu trao đổi mua bán mà hình thành nên. Rất nhiều các chợ đang hoạt động đều tự phát hình thành rồi mới được đưa vào quản lý. Hiện nay có 3 mô hình cơ bản quản lý các chợ đó là mô hình ban quản lý chợ, doanh nghiệp quản lý chợ và hợp tác xã. Mô hình doanh nghiệp quản lý chợ là mô hình mới mang tính năng động, linh hoạt. Tuy nhiên các doanh nghiệp này vừa có chức năng quản lý lại vừa có chức năng kinh doanh sẽ gây sự lẫn lộn, thiết tính khách quan, minh bạch. Mô hình hợp tác xã ít phổ biến mà chủ yếu là các ban quản lý chợ. Các ban quản lý này thời gian qua vẫn chưa hoạt động tốt như mong muốn và để thất thoát trong việc thu thuế của nhà nước. Không chỉ có vậy công tác giữ gìn an ninh trật tự trong khu vực chợ cũng cần lưu tâm. Thực tế đã có những tranh chấp, ẩu đả nảy sinh gây rối loạn, ảnh hưởng tới việc kinh doanh của các chủ thương và đời sống nhân dân.
2.2.2. Trung tâm thương mại, siêu thị và các chuỗi cửa hàng hiện đại
Các trung tâm thương mại, siêu thị, các chuỗi cửa hàng tiện ích … là
hệ thống thống phân phối bán lẻ hiện đại đã xuất hiện tại Việt Nam và phát triển mạnh trong những năm gần đây. Hệ thống này ở Hà Nội phân phối bán lẻ nhiều loại hàng hóa trong đó mặt hàng thực phẩm chiếm tỉ trọng lớn. Trong quá trình hoạt động hệ thống này đã đạt được một số kết quả rất tốt.
+ Các trung tâm thương mại, siêu thị, các cửa hàng tiện ích… đã phát triển nhanh chóng, số lượng tăng nhanh, mạng lưới phân bố rộng khắp các quận nội thành. Theo số liệu của Hội siêu thị Hà Nội thì số lượng các siêu thị , cửa hàng tiện ích năm 2000 chỉ là 26 thì con số này đã tăng lên thành hơn 150 vào năm 2008. Các siêu thị này cung cấp hết sức đa dạng chủng loại hàng hoá đặc biệt đã đáp ứng được nhu cầu về thực phẩm và hàng tiêu dùng của nhân dân.
Bảng 2.4. Hàng hoá kinh doanh chủ yếu trong các siêu thị ở Hà Nội.
Đơn vị : Mặt hàng
Nhóm hàng
2004
2005
2006
2007
2008
1. Thực phẩm
9695
10550
12886
13157
13336
TP đông lạnh
2326
2550
3221
3283
3315
Đồ hộp
2132
2360
2834
2897
2922
TP chế biến
2035
2290
2845
2901
2953
Đồ uống
1075
1100
1418
1450
1478
Bánh mứt kẹo
1260
1370
1675
1725
1746
Rau quả tươi
867
880
893
901
922
2. Phi thực phẩm
5221
5367
6347
6532
6804
Đồ gia dụng
2140
2252
2665
2715
2820
Hoá mĩ phẩm
998
1000
1182
1211
1275
Đồ dùng trong bếp
835
850
1015
1034
1048
Gốm sứ_thuỷ tinh
627
650
761
790
801
Các mặt hàng khác
621
615
724
782
860
Tổng
14916
15917
19233
19689
20140
Nguồn: Sở thương mại Hà Nội
+ Hàng hoá trong siêu thị không những đa dạng phong phú mà còn đảm bảo chất lượng tốt, giá cả ổn định. Tất cả các sản phẩm hàng hoá trong siêu thị đều có nguồn gốc xuất sứ rõ ràng. Đặc biệt đối với mặt hàng thực phẩm thì các loại thịt gia súc, gia cầm, cá… đều có dấu xác nhận của cơ quan kiểm dịch đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Trong siêu thị có cung cấp các sản phẩm hàng hoá chất lượng tốt, hàng hoá đáp ứng nhu cầu của các khách hàng có thu nhập cao. Giá cả trong siêu thị ổn định hơn ngoài chợ. Ví dụ điển hình là vào thời gian mưa lụt năm 2008 khi Hà Nội bị khan hiếm thực phẩm. Các hộ chủ thương nhỏ lẻ đã lợi dụng và đồng loạt tăng giá lên cao bất thường khiến cho đời sống nhân dân vốn đã khó khăn do ngập lụt lại càng khó khăn hơn do giá cả tăng cao. Thế nhưng trong hoàn cảnh đó các siêu thị vẫn không tăng giá hoặc tăng ở một mức độ nhất định góp phần bình ổn giá cả và giúp đỡ người dân. Đó là một nỗ lực hết sức đáng khen.
+ Hệ thống các trung tâm thương mại, siêu thị và các chuỗi cửa hàng hiện đại đã góp phần thúc đẩy kinh tế Hà Nội phát triển. Hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại này giúp đẩy nhanh việc tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá sản xuất ra, kích kích sản xuất phát triển. Trong những năm gần đây mức bán lẻ hàng hóa trong các siêu thị tại Hà Nội tăng khá nhanh, trong giai đoạn 2005-2008 trung bình đạt gần 27%. Trong năm 2008 mặc dù nền kinh tế có nhiều biến động lớn, tốc độ có giảm mạnh nhưng vẫn đạt mức khá cao khoảng trên 23%. Các doanh nghiệp đạt mức lợi nhuận cao và có đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước. Các siêu thị hiện đại được xây dựng lên đã làm thay đổi diện mạo thủ đô, thúc đẩy các khu vực xung quanh phát triển. Bên cạnh đó các hệ thống phân phối bán lẻ này đã tạo ra một số lượng lớn việc làm giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Bảng 2.5. Tốc độ tăng mức bán lẻ hàng hoá của các siêu thị trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2005-2008
Đơn vị : %
2005
2006
2007
2008
Bình quân
2005-2008
Tốc độ tăng
25,73
28,52
30,07
23,57
26,97
Nguồn: Hội siêu thị Hà Nội
Mặc dù các siêu thị đã phát triển khá nhanh trong những năm gần đây nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế.
+ Hầu hết các siêu thị của chúng ta quy mô vừa và nhỏ. Do tiềm lực về vốn của các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị còn rất yếu nên các doanh nghiệp không thể đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại, các siêu thị lớn mà chủ yếu là các siêu thị vừa và nhỏ. Số lưọng quy cách chủng loại hàng hoá còn hạn chế và giá còn tương đối cao so với các hình thức phân phối bán lẻ truyền thống. Với năng lực tài chính còn hạn chế thì các doanh nghiệp này không thể đầu tư phát triển mạng lưới, nâng cao chất lượng dẫn tới khả năng cạnh tranh kém hơn so với các siêu thị được đầu tư của nước ngoài.
+ Hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng còn thiếu và yếu. Các siêu thị Hà Nội chưa đáp ứng được yêu cầu về nhà kho, khu vận chuyển nội bộ, các phương tiện vận chuyển chuyên dùng… Đời sống người dân thủ đô những năm gần đây đã được cải thiện đáng kể. Thu nhập tăng cao khiến cho số lượng phương tiện giao thông tăng vọt đặc biệt là ôtô và xe máy. Do hạ tầng còn yếu kém nên các chỗ để xe của các siêu thị này chưa đáp ứng được yêu cầu, có chăng chỉ đáp ứng được chỗ để xe máy còn chỗ để ôtô thì còn thiếu. Câu hỏi đặt ra là nếu khách hàng đi ôtô tới siêu thị mua hàng thì làm thế nào? Chính điều này đã gây nên phiền toái cho khách hàng từ đó dẫn tới việc khách hàng sẽ lựa chọn những nơi có cơ sở hạ tầng tốt hơn. Các siêu thị có vốn đầu tư nước ngoài như Big C, Metro có ưu thế hơn hẳn về cơ sở vật chất kĩ thuật và đang gây ra áp lực cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong nước.
+ Chất lượng đội ngũ nhân viên của chúng ta còn thấp, chưa đáp úng được yêu cầu của hình thức kinh doanh hiện đại. Hầu hết các nhân viên bán hàng trong các siêu thị nội chưa qua đào tạo hoặc đào tạo chưa đạt yêu cầu. Đội ngũ nhân viên này thiếu tính chuyên nghiệp trong hoạt động kinh doanh và giao tiếp với khách hàng. Các cán bộ quản lý chưa có trình độ cao, chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thương mại hiện đại.
+ Các trung tâm thương mại và siêu thị của chúng ta phân bố không đồng đều, chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực nội thành nên chưa khai thác hết tiềm năng thị trường. Có khoảng 2/3 số siêu thị tập trung ở các quận Đống Đa, Hai Bà Trưng, Cầu giấy, Hoàn Kiếm, Ba Đình còn lại phân bố giải rác. Quận Tây Hồ trong những năm gần đây có sự phát triển kinh tế tương đối nhanh, mức sống người dân tăng cao nhưng ở đây không có một trung tâm thương mại nào và cũng chỉ có một vài siêu thị và cửa hàng tiện ích.
+ Các doanh nghiệp trong nước có năng lực cạnh tranh yếu nhưng lại thiếu sự liên kết để tạo sức mạnh. Thực tế hiện nay các doanh nghiệp mới chỉ chú trọng tới việc phát triển hệ thống của doanh nghiệp mình mà chưa tiến hành liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác. Thời hạn 1-1-2009 đã qua và các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới sẽ đầu tư vào thị trường Việt Nam. Các doanh nghiệp trong nước với tiềm lực còn hạn chế sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh rất lớn. Cần có những hướng đi, những hành động đúng đắn để phát triển hệ thống.
2.2.3. Các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong.
Mặc dù hệ thống chợ và hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm hiện đại
Có bước phát triển mạnh nhưng do những thói quen và tiện ích đem lại mà các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong vẫn tồn tại và phát triển. Hệ thống này đã đạt được một số kết quả sau:
+ Các hộ kinh doanh cá thể đã tăng lên với số lượng lớn trong các năm qua. Theo số liệu của tổng cục thống kê thì tính đến năm 2007 Hà Nội có khoảng 111.452 hộ kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ cá thể trong đó khoảng 77,5% là các hộ kinh doanh bán lẻ. Đến năm 2008 sau khi Hà Tây và một số địa phương được sát nhập vào Hà Nội thì số cơ sở kinh doanh đã tăng vọt lên khoảng 187.741. Các cửa hàng này đã đáp ứng nhu cầu trao đổi mua bán của nhân dân góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hoá. Các cửa hàng kinh doanh mặt hàng thực phẩm chiếm tỉ trọng lớn khoảng 75% đã cung cấp thực phẩm và các dịch vụ ăn uống cho nhân dân thủ đô.
Bảng 2.6. Cơ sở kinh doanh thương nghiệp và dịch vụ cá thể tại Hà Nội 2001-2008
2001
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng số cơ sở
63.162
76.836
79.438
88.422
101.357
111.452
187.741
Cơ cấu theo ngành nghề (%)
Thương nghiệp
67,64
67,60
67,88
65,49
65,10
64,04
67,33
Khách sạn,
nhà hàng
21,67
18,88
18,02
18,76
18,86
18,96
17,58
Dịch vụ
10,60
13,52
14,10
15,75
16,04
17
15,09
Nguồn : Niên giám thống kê Hà Nội
+ Các cửa hàng phân bố đều và rộng khắp đặc biệt một số tập trung thành các phố chuyên kinh doanh một loại mặt hàng; các quán bán rong len lỏi vào khắp các ngõ ngách đã làm tăng tính tiện ích cho nhân dân. Trong cơ chế thị trường, mức sống nhân dân tăng lên đồng thời thì thời gian nhàn rỗi giảm xuống vì thế khách hàng muốn tăng tính tiện ích, tiết kiệm thời gian. Khi muốn mua một sản phẩm nhỏ lẻ nào đó mà phải lấy xe, đi tới vài trăm mét trong tình trạng giao thông ở Hà Nội thì thời gian, công sức và chi phí tăng lên rất nhiều. Hệ thống hàng quán này phát triển đã giúp cho nhân dân tiết kiệm thời gian và chi phí. Nếu muốn mua một sản phẩm nào đó bạn chỉ cần ra đầu ngõ, thậm chí ngay tai cửa nhà cũng có thể mua được. Nhiều cửa hàng cung cấp dịch vụ đưa hàng tại nhà khiến cho khách hàng ngày càng cảm thấy được chăm sóc tốt hơn.
+ Hệ thống các cửa hàng, các quầy sạp, các quán rong đã góp phần phát triển kinh tế thủ đô. Hệ thống đã đẩy nhanh quá trình lưu thông, thúc đẩy sản xuất phát triển. Không chỉ có vậy các cửa hàng, sạp quán đã tạo ra trên 80ngàn việc làm góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm cho lao động thủ đô và các tỉnh thành khác.
+ Không chỉ mang ý nghĩa kinh tế, các hàng quán này còn là một nét đẹp văn hoá riêng của Hà Nội. Đối với các du khách thì đến với Hà Nội là đến với ba mươi sáu phố phường, cảnh đẹp, ngắm cảnh đẹp và thưởng thức các món ăn ngon. Hàng ngày trên các con đường, trong các ngõ ngách xuất hiện những sạp, những gánh hàng với tiếng giao “ai mua dưa di… hay bánh mì nóng đây…” thật thú vị biết bao.
Bên cạnh những kết quả đạt được thị hệ thống này vẫn còn nhiều hạn chế tồn tại :
+ Các hàng quán này quy mô nhỏ bé, các sản phẩm còn hạn chế về chủng loại và chất lượng. Thực tế các cửa hàng chủ yếu là tận dụng diện tích mặt đường của các hộ kinh doanh nên diện tích rất chật trội. Quy mô nhỏ nên số lượng các quy cách chủng lọai hàng hoá cũng bị hạn chế. Bên cạnh đó mặc dù giá cả thực phẩm tại các hàng quán này có rẻ hơn trong siêu thị nhưng chất lượng không được đảm bảo. Khi mua hàng chúng ta không biết rõ được nguồn gốc xuất xứ hay chất lượng sản phẩm. Thực trạng hiện nay các nhà hàng cung cấp thực phẩm tươi sống bày bán cả những loại thực phẩm chưa qua kiểm dịch là nguy cơ gây bùng phát các dịch bệnh như: cúm gia cầm, lợn tai xanh… Không chỉ thực phẩm tươi sống mà các sản phẩm thực phẩm đã qua chế biến cũng vi phạm nghiêm trọng. Các thực phẩm này chứa các chất độc hại như hàn the, đất đèn… Tình trạng gian lận trong kinh doanh thường xuyên xảy ra như : cân thiếu trọng lượng, pha trộn các chất, t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội.DOC