MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN MỘT: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI 2
1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm tiền gửi 2
2. Đối tượng và đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi 5
3. Phạm vi bảo hiểm tiền gửi 5
4. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm 6
PHẦN HAI: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM 8
1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 8
2. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 8
3. Hoạt động Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 10
4. Kết quả đạt được của Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 12
5. Những vấn đề còn tồn tại của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 13
1. Về đối tượng tiền gửi được bảo hiểm 14
2. Hình thức Bảo hiểm 14
3. Phí bảo hiểm 14
4. Hình thức nộp phí 15
5. Việc tổ chức gíam sát rủi ro của BHTG đối với các đối tượng tham gia BHTG là vấn đề cần phải xem xét trên các khía cạnh 15
6. Những hạn chế ngay trong cơ quan bảo hiểm tiền gửi 16
7. Khó khăn trong công tác thanh lý QTDND bị giải thể 17
8. Về Bảo hiểm tiền gửi và bảo toàn tiền gửi 20
PHẦN III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM 25
I. Định hướng hoạt động bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 25
II. Giải pháp và kiến nghị phát triển bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 26
A. Giải pháp 26
1. Về phía bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 27
2. Về phía đối tượng tham gia bảo hiểm 30
3. Về phía nhà nước 30
B. Kiến nghị 31
KẾT LUẬN 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
39 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2881 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tự bù đắp chi phí, có tư cách pháp nhân và được miễn nộp các loại thuế.Trong trường hợp thiếu vốn tạm thời, tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải báo cáo NHNN để NHNN trình thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép tổ chức bảo hiểm tiền gửi được vay từ các TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính Phủ
c.Phí bảo hiểm tiền gửi
Mức phí hiện hành là 0,15%/năm trên số dư tiền gửi bình quân tại các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi, được nộp làm 4 lần trong năm tài chính.
Phí phạt đối với các trường hợp nộp chậm/ ngày; nếu tình trạng tiếp tục kéo dài tới 30 ngày, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền yêu cầu NHNN trích tài khoản tiền gửi của các tổ chức TD để chuyển nộp phí bảo hiểm và các khoản tiền phạt
d.Số tiền bảo hiểm
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sẽ tiến hành chi trả tiền gửi được bảo hiểm với giới hạn tối đa là 30 triệu đồng/cá nhân , căn cứ vào chứng từ hợp lệ và danh sách do tổ chức bảo hiểm và tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lập : số tiền gửi vượt quá mức tối đa sê được thanh toán theo quy định của luật phá sản
d.Loại tiền gửi cần được bảo hiểm và hình thức áp dụng
Như chúng ta đều biết, tiền gửi chia làm 2 loại: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không có kỳ hạn, bảo hiểm tiền gửi lại là một việclàm hoàn toàn mới mẻ ở nước ta , chúng ta còn thiếu kinh nghiệm trong khâu quản lý kinh doanh bảo hiểm tiền gửi, mặt khác do tính chất luân chuyển vốn, tiền gửi không kỳ hạn mang tính thất thường nên việc tính toán phức tạp. Do đó ở thời kỳ đầu chúng ta chỉ nên bảo hiểm tiền gửi loại có kỳ hạn.
Để thực sự đảm bảo niềm tin cho khách hàng khi gửi tiền, khai thác tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư phù hợp với thưc tế ở nước ta hiện nay, việc tham gia Bảo hiểm tiền gửi mang tính chất bắt buộc.
e.Giám sát rủi ro và các biện pháp xử lý
Các kênh thông tin về hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có quyền tiếp cận, bao gồm: Báo cáo định kỳ theo qui định của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, các báo cáo đột xuất khi tổ chức tham gia bảo hiểm gặp khó khăn về khả năng chi trả, thay đổi thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát tổng giám đốc.Ban kiểm soát đặc biệt báo cáo tình hình hoạt động của tổ chức( trong trường hợp tổ chức này bị đặt dưới sự kiểm soát đặc biệt); Trực tiếp kiểm tra việc chấp hành các qui định tại nghị định này của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
d. Quyền quản lý và thanh lý tài sản của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ trở thành chủ nợ với tổ chức tham gia bảo hiểm bị phá sản trên cơ sở số tiền đã chi trả cho người gửi tiền, do đó được tham gia vào quá trình quản lý và thanh lý tài sản của các tổ chức bị phá sản theo luật phá sản.
4.Kết quả đạt được của Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
Trên địa bàn 11 tỉnh phía Nam do chi nhánh BHTG TP Hồ Chí Minh phụ trách hiện có 160 TCTD tham gia BHTG và số tiền được bảo hiểm chiếm 52,11% so với tổng vốn huy động bằng tiền đồng, đạt hơn 20.496 tỉ đồng. Số tiền không đựoc bảo hiểm khoảng 18.83 tỉ đồng là từ trái phiếu vô danh, tiền gửi của các tổ chức
Sau hơn 4 năm hoạt động, Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam đã chi trả bảo hiểm với tổng số tiền là 14 tỷ 668 triệu đồng cho 1.351 người đến gửi tiền tại 32 quỹ tín dụng nhân dân bị chấm dứt hoạt động và khả năng thanh toán ở 10 tỉnh, thành phố.
Bảo hiểm Tiền Gửi Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với chi nhánh ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố, các cấp chính quyền sở tại và từng hội đồng thanh lý QTDND tổ chức theo dõi sát tình hình thanh lý các QTDND giải thể được chi trả tiền bảo hiểm, phân tích thực trạng các khoản phải thu và các khoản phải trả trong thanh lý của từng quỹ, tìm biện pháp thu hồi các khoản nợ để có nguồn chi trả cho các chủ nợ theo trật tự ưu tiên thanh toán.
Công tác chi trả tiền chi những người gửi tiền được tiến hành nhanh gọn, chính xác an toàn theo đúng quy định của pháp luật, tạo niềm tin của nhân dân địa phương, tạo tâm lý an toàn an tâm cho người dân gửi tiền vào các Quỹ tín dụng nhân dân chấm dứt hoạt động cũng như các địa phương khác có Quỹ tín dụng nhân dân khác hoạt động bình thường.
Quá trình chi trả tiền gửi cho người dân không xảy ra bất cứ hiền tượng tiêu cực nào, được cấp uỷ, chính quyền địa phương đồng tình, ủng hộ. Đặc biệt là hoạt động Bảo hiểm tiền gửi tạo điều kiện cho các Tổ chức tín dụng thu hút được hàng trăm nghìn tỉ đồng vốn của dân, an tâm gửi vào các ngân hàng và Quỹ tín dụng… để đầu tư cho các mục tiêu phát triển quốc gia, các dự án và các nhu cầu vay của mọi thành phần kinh tế
Về công tác thanh lý tái 31 quỹ tín dụng nhân dân bị giải thể, số tiền phải thu là 49 tỷ 794 triệu đồng, trong 3 năm đã thu được 28%, trong đó thu nợ cho vay đạt 28,5% thu nợ cho vay có đảm bảo bằng tài sản đạt 22,2%. không có tài sản đảm bảo đạt 21,2%, các khoản thu khác đạt 3,6%.
5.Những vấn đề còn tồn tại của Bảo hiểm tiền gửi Viêt nam
Bảo hiểm là một loại hình cần thiết cho rất nhiều hoạt động xã hội và nó ngày càng phát triển đa dạng và phong phú. Riêng về Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) ở nước ta mới được hình thành về mặt tổ chức và mới đi vào hoạt động (tháng 7/2000). Quá trình nghiên cứu và cho ra đời BHTG cũng là quá trình tiếp cận với những vấn đề mới trong điều kiện hệ thống ngân hàng ở nước ta đang thực hiện việc chấn chỉnh và sắp xếp lại (trước đó các Quỹ tín dụng nhân dân đã tham gia bảo hiểm trong hệ thống bảo hiểm Việt Nam). BHTG cũng là một loại hình bảo hiểm nói chung (tương tự như bảo hiểm tàu thuyền , bảo hiểm nhân thọ…) nhưng là một loại hoạt động đặc thù và có ý nghĩa đặc biệt trong việc bảo đảm lòng tin của người gửi tiền vào ngân hàng và cũng vì vậy mà các ngân hàng sẽ có điều kiện tăng khả năng huy động vốn để mở rộng kin doanh.
Bảo hiểm nói chung và BHTG nói riêng đã hình thành và hoạt động phổ biến ở các nước trên thế giới. Có một số nước, BHTG và bảo toàn tiền gưỉ (BTTG) cùng song song tồn tại hoặc có nước chỉ có loại hình BTTG (như ở Cộng hòa liên bang Đức). Khi cả hai tổ chức này cùng được hoạt động, thì các Ngân hàng thương mại được chủ động trong việc lựa chọn cho mình một loại hình hoặc là bảo hiểm hoặc là bảo toàn, cũng có thể vừa bảo hiểm vừa bảo toàn.
Các quy định của Chính phủ tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/01/1999, Thông tư số 03/2000/TT-NHNN5 của NHNN hướng dẫn thực hiện điều 23 Nghị định số 89-1999/ND-CP trên là cơ sở pháp lý để tổ chức Bảo hiểm tiền gưỉ Việt Nam đi vào hoạt động và sẽ góp phần làm sôi động thêm các hoạt động Ngân hàng ở nước ta. Tuy nhiên, hoạt động Bảo hiểm Tiền Gửi vẫn còn tồn tại những điểm đáng lưu ý sau:
Về đối tượng tiền gửi được bảo hiểm
Theo quy định của chính phủ thì đối tượng tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi của cá nhân (cả tiền gửi trên tài khoản) của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi . Trong khi đó mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền nhỏ.Nhưng thực tế thời gian qua quy định trên lại được hiểu là bao gồm tất cả các loại tiền gửi của cá nhân, tiền gửi của hộ gia đình và của cả các hàng kinh doanh.Từ đó gây ra sự phức tạp trong việc phân loại tiền gửi đươc bảo hiểm và không được bảo hiểm.
2.Hình thức Bảo Hiểm
Đây là loại hình bảo hiểm, bảo hiểm bắt buộc và là tổ chức BHTG duy nhất, điều này sẽ nảy sinh sự bất bình đẳng trong cơ chế thị trường và sự độc quyền.
3, Phí Bảo Hiểm
Tỉ lệ phí bảo hiểm 0,15%/năm tính trên số tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Theo nhiều ý kiến (cả những người quan tâm và những người tổ chức tín dụng) là cao, ảnh hưởng đến hoạt động, đặc biệt là trong điều kiện các tổ chức tín dụng vừa phải xử lý tồn tại cũ, vừa phải trích dự phòng rủi ro và như vậy sẽ ảnh hưởng đến hoạt động thu chi tài chính và đời sống cán bộ, nhân viên của tổ chức tín dụng. Đối với các TCTD Nhà nước hiện nay thì phí đóng bảo hiểm tiến gửi là lớn nhất, nhưng việc BHTG phải can thiệp thì hầu như ít xảy ra do có những đặc thù riêng (năng lực huy động vốn thường xuyên dồi dào, do là ngân hàng nhà nước…)
4. Hình thức nộp phí
Những quy định về trích và nộp phí bảo hiểm còn cứng (do là bảo hiểm bắt buộc). Mặt khác, một tổ chức tài chính của Nhà nước (thực chất như là một công ty) Không có chức năng quản lý nhà nước (vừa thực hiện hoạt động bảo hiểm, vừa có tính kinh doanh) nhưng lại được phép xử lý vi phạm hành chính đối với các đơn vị tham gia BHTG (cảnh cáo, phạt tiền…).
5, Việc tổ chức giám sát rủi ro của BHTG đối với các đối tượng tham gia BHTG là vấn đề cần phải xem xét trên các khía cạnh.
(1)- Xuất phát từ chức năng của BHTG, có cần tổ chức giám sát đến mức như các quy định hiện có không? hay là trước mắt có thể phối hợp với thanh tra ngân hàng để cung cấp kết quả giám sát rui ro, theo yêu cầu của BHTG (có trong quy định hiện hành), vì hiện tại Thanh tra Ngân hàng đã và đang tổ chức giám sát thường xuyên (cả giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ). Các tiêu chí tài chính, yêu cầu về mẫu biểu và nội dung báo cáo của các tổ chức tín dụng (nếu tham gia BHTG) đều có trong hệ thống báo cáo chung của NHNN và hầu như các số liệu hoạt động của hệ thống Ngân hàng nước ta đều có trên mạng chung trong hệ thống truyền dẫn số liệu… của Cục công nghệ tin học Ngân hàng. Nên chăng trước mắt chỉ yêu cầu báo cáo và giám sát những nội dung có tính đặc thù phù hợp với chức năng của BHTG để phục vụ các yêu cầu về hỗ trợ khi đối tượng tham gia BHTG gặp khó khăn về khả năng chi trả (ngay) và thực hiển bảo hiểm khi đối tượng tham gia BHTG có nguy cơ phá sản.
(2)- Song song với việc này là tiến hành xây dựng một hệ thống giám sát riêng của BHTG tương tự như hệ thống giám sát từ xa của thanh tra NHNN hiện nay.
6.Những hạn chế ngay trong cơ quan bảo hiểm tiền gửi.
Do mới thành lập và đi vào hoạt động nên các tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không thể không có sai sót. Những sai sót này có thể kể đến là:
Thứ nhất: Trong công tác kiểm tra giám sát.
-Do kết hợp với thanh tra ngân hàng nhà nước trong quá trinh kiểm tra, giám sát nên còn có sự chồng chéo giữa bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và thanh tra ngân hàng nhà nước.
-Chưa tích cực đôn đốc các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nộp phí và các loại báo cáo theo quy định.
- Trong quá trình kiểm tra phát hiện thấy có những tổ chức tiến dụng vi pham nhưng chỉ nhắc nhở và xử phạt nhẹ đã làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của luật.
-Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi rất rộng từ trung ương đến cơ sở nhưng tổ chức bảo hiểm tiền gửi mới chỉ có 6 chi nhánh cơ sở nên việc kiểm tra giám sát còn bị hạn chế.
Thứ hai: Trong công tác chi trả.
Thời gian qua bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã chi trả một khoản tiền khá lớn và việc chi trả cho những người gửi tiền tại các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở nằm rải rác trên 9 tỉnh, nên việc tiến hành thẩm định hồ sơ và tiến hành chi trả đã gặp rất nhiều khó khăn.Hơn nữa việc chi trả lại toàn bằng tiền mặt thông qua UBND xã phường hoặc tổ chức tiến dụng tại nơi bị phá sản.
Thứ ba: Về trình độ cán bộ.
Do mới được tách ra từ ngân hàng nông nghiệp nên hầu hết các cán bộ của tổ chức BHTGVN là cán bộ từ nghành ngân hàng chuyển sang và lại chưa được đào tạo kịp thời về nghiệp vụ bảo hiểm .Vì vậy nên họ đã gặp rất nhiều khó khăn trong công việc kiểm tra giám sát bởi họ vẫn còn chuyên về những nghiệp vụ ngân hàng hơn , từ đó làm ảnh hưởng đến hoạt động của cả tổ chức.Hơn thế vì không nắm rõ nghiệp vụ bảo hiểm nên họ đã gặp không ít khó khăn trong việc tuyên truyền, giải thích cho người dân hiểu đúng về bảo hiểm tiền gửi.
Bên cạnh những khó khăn, hạn chế ngay trong phạm vi hoạt động của mình,bảo hiểm tiền gửi còn gặp phải những hạn chế khác từ phía các tổ chức tiến dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi.Về việc chấp hành những quy định chung của nhà nứoc, về nghĩa vụ tham gia bảo hiểm tiền gửi của mình.Không những vậy mà các quỹ tín dụng đã tham gia bảo hiểm tiền gửi thì lại không quản lý chặt chẽ các khoản cho vay, chưa giám sát được mục tiêu sử dụng vốn vay của người đi vay, từ đó tạo ra những rủi ro tiến dụng và dẫn đến nguy cơ giải thể quỹ tiến dụng.
7.Khó khăn trong công tác thanh lý QTDND bị giải thể
Công tác thanh lý tại 31 QTDND bị giải thể, số tiền phải thu là 49 tỷ 794 triệu đồng, thu nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản đạt 22,2%, thu nợ cho vay không có tài sản đảm bảo đạt 36,1%, thu cho vay các tổ chức tín dụng khác đạt 100, thu thanh lý tài sản đạt 21,2%, thu các khoản phải thu khác đạt 36%. Đáng chú ý là việc thu hồi bồi thường vật chất và quy trách nhiệm chỉ đạt 3,8%. Một số hạn chế tồn tại của công tác thanh lý các QTDND bị giải thể được BHTGVN đánh giá là hiệu quả thấp, có dấu hiệu của sự trì trệ tại Hội đồng thanh lý dẫn đến kết quả thu hồi chỉ đạt 28% tổng các khoản phải thu và 27% tổng các khoản phải trả không đạt tiến độ thanh lý theo phương án được duyệt.
Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại trên cũng được dánh giá là một số cán bộ tham gia thành viên Hội đồng thanh lý chưa nhận thức đúng ý nghĩa của công tác thanh lý đối với việc củng cố chấn chỉnh hoạt động của hệ thống QTDND nên chưa tập trung quan tâm chỉ đạo thực hiện; nhiều cán bộ địa phương kiêm nhiệm công tác, trình độ năng lực thấp, nên không phát huy tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo. Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập đối với những khoản nợ không còn khả năng thu, qui định về chi phí thanh lý hay hướng dẫn về trình tự và thủ tục kết thúc thanh lý khi khong còn khả năng thu nợ và thanh toán nợ.
Bảo Hiểm Tiền Gửi Với Tâm Tư Người Trong Cuộc.
Sau khi Thông tư số 03/2000/TT-NHNN ngày 16/3/2000 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành nghị địng 89/1999/ND-CP của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi được ban hành, đã có không ít ý kiến trao đổi giữa các nhà ngân hàng. Những người chủ yếu có liên quan tới việc thực thi chế độ BHTG nói trên trong hoạt động kinh doanh tiền tệ hàng ngày. Sau đây là một số trong những ý kiến phản ánh tâm tư của những người trong cuộc:
1-Nếu chế độ bảo hiểm tiền gửi được thực thi, điều này có hấp dẫn được khách hàng hay không? Sự hấp dẫn ở đây cần được hiểu theo 2 khía cạnh: BHTG có hấp dẫn được các khách hàng của mình (là các tổ chức tham gia BH), và TC tham gia BH, đến lượt nó, có hấp dẫn được khách hàng (gửi tiền) nhờ việc tham gia vao BHTG hay không?
Xin được đề cập đến khía cạnh thứ nhất:
Bất cứ chế độ bảo hiểm nào nói chung sẽ có sức hấp dẫn và khả năng bắt rễ, hòa nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế – xã hội một quốc gia, khi và chỉ khi nó chứng minh được rằng những thủ tục và biểu hiện của nó đã tạo thuận lợi tối đa (với những chi phí tối thiểu nhất có thể) để các đối tượng tham gia, người được bảo hiểm và các bên liên quan khác, nếu có, thực sự được hưởng các tiện ích và quyền lợi mà nó hứa hẹn mang lại.
Theo quy định hiện của Thông tư hướng dẫn nói trên về bảo hiểm tiền gửi, thì khả năng Tổ chức tham gia bảo hiểm nhận được sự hỗ trợ của BHTG trong trường hợp cần thiết cấp bách, điều kỳ vọng lớn lao mà các TCTD chờ đón từ BHTG (nhằm ngăn ngừa và cứu vãn nguy cơ mất khả năng thanh toán và đổ vỡ do hoảng loạn dây chuyền) vẫn còn tỏ ra quá mơ hồ và phụ thuộc vào thiện chí chủ quan của phía cơ quan BHTG, điều này chưa thể hiện tính chất bình đẳng, sòng phẳng và công khai về quyền lợi và nghĩa vụ cần có giữa hai chủ thể trong một quan hệ kinh tế và đã làm giảm đi tính hấp dẫn của BHTG đối với các khách hàng của nó.
Phải chăng do tính chất bắt buộc “phải tham gia” bảo hiểm (tựa như hiện nay người ta buộc phải “mua điện” của Ngành điện lực) mà cơ quan BHTG chẳng cần quan tâm đến tính hấp dẫn của sản phẩm trong cơ chế thị trường?
Khía cạnh thứ hai: Vẫn còn quá sớm để đánh giá về hiệu quả của chế độ BHTG mới ban hành đối với khách hàng, dân cư cứ gửi tiền tại các TCTD. Song, xét dưới góc độ của người đi huy động vốn, thì có thể thấy ngay được rằng với quy định giới hạn tối đa số tiền được bảo hiểm (30triệu VNĐ/người, cả gốc và lãi) như hiện nay, thì các NH cũng không có thêm cơ may để gia tăng được đối tượng khách hàng cá nhân thường xuyên có số dư tiền gửi lớn. Thậm chí, nếu các khách hàng thuộc đối tượng này mà đồng loạt vận dụng cách đối phó theo kiểu đánh “du kích” (như một khách hàng đã thổ lộ: chia tách số tiền lớn ra làm nhiều món đứng tên người gửi khác nhau, hoặc chia ra gửi ở nhiều nơi, nhằm tối đa hóa số tiền được BH bồi thường, nếu có bất trắc xảy ra), thì tất yếu sẽ làm tăng thêm chi phí ấn chỉ, chứng từ và phí quản lý của một hoặc nhiều TCTD đối với cùng một số tiền gửi mà thôi. Đó là sự lãng phí, mà lãng phí thì đồng nghĩa với giảm hiệu quả kinh tế, nó “bào mòn” khả năng tài chính – một trong những yếu tố sống còn trong hoạt động kinh doanh của hệ thống TCTD – và từ đó đe dọa tính an toàn cho tiền gửi của dân cư. Vô hình dung kết quả này sẽ đi ngược lại mục đích tư thân của BHTG.
2- Với việc các ngân hàng phải tham gia đóng BHTG, liệu lãi suất tiền gửi sắp tiền gửi sắp tới của các ngân hàng có bị giảm đi không? Đó là mối băn khoăn hòa trộn với niềm hy vọng vừa le lói của người gửi tiền, khi nghe nói các ngân hàng sắp tới sẽ mua bảo hiểm cho tiền gửi của dân cư tại ngân hàng.
Với mức phí bảo hiểm hiện hành (0,15%/năm) thì chi phí đóng bảo hiểm của mỗi kỳ 3 tháng sẽ tương đương với việc lãi suất huy động vốn bị tăng thêm 0,0375% so với trước kia tính trên cùng một số dư vố huy động bình quân trong kỳ. Có nghĩa là chi phí đầu vào sẽ càng trở lên tốn kém nếu TCTD càng nỗ lực huy động tiền gửi của cá nhân, trong khi mà “đầu ra” còn nhiều quản ngại. Qua đó có thể tiên liệu khả năng một số TCTD càng lỗ lực huy động tiền gửi của cá nhân, trong khi mà đầu ra còn nhiều quả ngại. Qua đó có thể tiên liệu khả năng một số TCTD buộc phải có động thái điều chỉnh giảm lãi suất huy động tiền gửi của dân cư, khi không còn khả năng nào khác để cân đối thu chi.
3- Sức hấp dẫn của Ngân hàng TMCP so với Ngân hàng quốc doanh sẽ như thế nào nếu áp dụng BHTG?
BHTG ra đời, thoạt nhìn tưởng như chí ít cũng đã đặt được các TCTD cổ phần vào một “sân chơi bình đẳng”, thậm chí còn tăng được sức hấp dấn so với các ngân hàng quốc doanh. Tuy nhiên, do mức vốn tự có và đặc biệt là mức độ uy tín còn “mong manh”, liệu các TCTD cổ phần có đủ lực để chơi bình đẳng hay không, lại là chuyện khác. Thật vậy, với việc phải tăng thêm chi phí cho hoạt động nguồn vốn của mình, thì TCTD nào mà cơ cấu nguồn vốn có tỷ trọng lớn về tiền gửi của khách hàng là TCKT, pháp nhân (với lãi suất huy động thấp) thì vẫn có khả năng cân đối thu chi nguồn vốn cho phép, giữ nguyên lãi suất huy động tiền gửicá nhân, kể cả khi áp dụng BHTG, từ đó sẽ thực sự tạo thêm được một lợi thế cạnh tranh thu hút khách hàng. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, lợi thế này vẫn đang nghiêng về phía các Ngân hàng thương mại quốc doanh.
Mặt khác, BHTG áp dụng một mức phí “khoán chung” cho tất cả các đối tượng tổ chức nhận tiền gửi dân cư, chưa có tiêu chí phân loại, đánh giá lựa chọn các TCTD hoạt động an toàn, có hiệu quả để đề ra được và công khai hóa chế độ khuyến khích ( về mức phí, về các nghĩa vụ khác, nếu có) cho phù hợp với mức độ rủi ro của TCTD đó, nên dưới con mắt của cộng đồng dân cư, cho dù một Ngân hàng thương mại cổ phần nào đó hoạt động rất tốt thì cũng chẳng có gì để phân biệt hơn so với một Ngân hành thương mại quốc doanh, khi mà cả hai cùng tham gia bảo hiểm tiền gửi.
8.Về Bảo Hiểm Tiền Gửi Và Bảo Toàn Tiền Gửi
Bảo tòan tiền gửi
- Là tổ chức tài chính do bản thân chủ ngân hàng lập lên, mang tính tự nguyện, liên kết nhằm hỗ trợ nghề nghiệp, đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh vừa cho ngân hàng, vừa cho người gửi tiền.
- Là sở hữu chung của các thành viên tham gia BTTG và đặt dưới sự giám sát của của Hiệp hội ngân hàng.
- vì là chủ sở hữu, hơn nữa lại là vì mục đích tương hỗ, liên kết nghề nghiệp nên BTTG dễ dàng có các hình thức hỗ trợ, ứng cứu kịp thời, linh hoạt và thích hợp mà không sợ phải lệ thuộc vào các nguyên tắc hành chính.
- Góp phần chống độc quyền, đa dạng hóa các hình thức đảm bảo tiền gửi. Nâng cao tính cạnh tranh và chủ động hội nhập với khu vực và quốc tế.
- Góp phần chống ỷ lại vùa dựa dẫm vào sự bao cấp của Nhà nước. Điều đó cũng góp phần nâng cao tính tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh và chống rủi ro đạo đức.
Nêu lên nhưng đặc trưng đó, và từ kinh nghiệm nhiều năm của các nước có nền kinh tế thị trường ông Oánh cho rằng cần thiết lập mô hình Quỹ bảo toàn tiền gửi trong quá trình triển khai Luật các TCTD và đưa ra mô hình mẫu mang tính nguyên tắc sau:
TCTD bắt buộc tham gia BTTG hoặc tham gia BHTG, hoặc cả hai. Quỹ BTTG hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, được miễn thuế.
Đối tượng tham gia: các TCTD trong nước và nước ngoài, kể cả các QTDND.
Phạm vi bảo toàn: Tiền gửi bằng VND và ngoại tệ bao gồm: Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không kỳ hạn của dân cư, kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng đích danh, các chứng chỉ tiền gửi ngân hàng đích danh.
Hình thức sở hữu: Tài sản Quỹ BTTG thuộc sở hữu chung của các thành viên tham gia, khi không tham gia nữa, thành viên có quyền rút phần tài sản tương ứng hiện có của Quỹ với một số điều kiện nhất định.
Nguồn vốn của Quỹ BTTG:
Vốn tự có: Đó là vốn điều lệ do thành viên đóng góp được trích từ vốn tự có. Vốn này dùng để xây dựng trụ sở và mua sắm phương tiện làm việc của Quỹ.
Vốn bảo toàn: Bao gồm:
- Vốn góp: Trích từ vốn huy động của thành viên tham gia (tính theo tỷ lệ % trên số tiền gửi được bảo toàn). Vốn này vẫn thuộc sở hữu của người góp và người được trả lãi (với mức thấp hơn thị trường).
- Lệ phí bảo toàn: được ghi vào chi phí. Nếu TCTD tham gia BHTG và BTTG thì lệ phí cũng được phân chia theo 1 tỷ lệ nhất định.
Nguyên tắc lệ phí:
* Số tiền gửi được bảo toàn càng lớn lệ phí càng thấp.
* Mức rủi ro càng lớn, phí càng cao (Quỹ dự phòng rủi ro/tài sản có càng lớn, lệ phí càng thấp).
* Thành viên mới tham gia phải đóng góp phí lần đầu cao hơn so với thành viên cũ.
* Quỹ càng lớn, phí càng thấp.
- Tiền lời: Tiền gửi do sủ dụng vốn nhàn rỗi chủa Quỹ đem lại.
- Phí bảo toàn: do người gửi tiền mua bảo đảm tiền gửi (hình thức này được áp dụng ở một số nước. Việt Nam có thể áp dụng khi có điều kiện).
6-Sử dụng vốn của Quỹ BTTG: Quỹ BTTG chỉ được sử dụng trong trường hợp thành viên mất khả năng trả nợ (Slovency).
a- Tạm thời mất khả năng trả nợ:
Khi thành viên tạm thời mất khả năng trả nợ sẽ được Quỹ BTTG:
Cho rút phần vốn đã đóng góp.
Cho vay: thông thường là khoản cho vay ngắn hạn từ tháng 6 tới 1 năm với lãi suất thấp.
Tài trợ: Nếu 2 biện pháp trên chưa giải quyết được khó khăn tạm thời của thành viên thì Quỹ sẽ hỗ trợ vốn không lấy lãi, nhưng áp đặt một chế độ quản lý chặt chẽ. Khi tình hình ổn định kinh doanh có lãi thì người được hỗ trợ nộp cho Quỹ BTTG 10% số lợi nhuận thu được trong một vài năm.
Phá sản: Khi thành viên phá sản Quỹ sẽ chi trả tiền gửi theo tỷ lệ, hoặc mức quy định. Lúc này quỹ sẽ trở thành chủ nợ đối với các khế ước cho vay của thành viên.
Ta có mô hình so sánh BHTG và BTTG
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi nhà nước
Quỹ bảo toàn tiền gửi của hiệp hội Ngân hàng
1- Tính chất
- Nhà nước can thiệp trực tiếp, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với người gửi tiền nhỏ(nhứng người không đủ thông tin và khả năng đánh giá).
- Thuộc sở hữu Nhà nước, Nhà nước cấp vốn ban đầu và giám sát thanh tra.
- Can thiệp có tính chất hành chính- kinh tế.
- Nhà nước không can thiệp trực tiếp, chỉ tạo điều kiện pháp lý cho thành lập và họat động.
- Đây là sự quan tâm trực tiếp của từng thành viên Hiệp hội đến người gửi, với tư cách họ là thân chủ của ngân hàng.
- Tương hỗ vì lợi ích chung của Hội viên, không vì mục đích kinh doanh chia lời.
2.Tư cách pháp nhân
- là 1 pháp nhân
- Quỹ bảo toàn tiền gửi không phải là 1 pháp nhân.Đây là tài sản chung của Hiệp hội, của hội viên
3.Sử dụng tài chính và vai trò quyết định
- Để giải quyết tình huống; hoàn toàn do quyết định của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
Hiệp hội có thể quyết định một cách chủ động cứu vãn tình hình hoặc chủ động can thiệp trước khi 1 ngân hàng xảy ra tình trạng mất khả năng thanh trả nợ.
Phần sinh lời của Quỹ bảo toàn được nhập lại Quỹ, làm cho Quỹ nhanh chóng phát triển.
4.Quy mô can thiệp
- Có giới hạn phụ thuộc vào thuộc vào thực lực tài chính của Bảo Hiểm tiền gửi và chỉ có giới hạn theo pháp luật
Có giới hạn tùy theo mức độ phát triển của Quỹ, song có cơ hội mở rộng đối tượng, mức độ trong sự chủ động của hiệp hội và khả năng phát triển của hội viên.
5- Tâm lý
- có thể tạo nên tâm lý ỷ lại Nhà nước
- Không tạo tâm lý ỷ lại Nhà nước. Mỗi hội viên ý thức được việc”tự mình cứu trước khi trời cứu”
6- Giám sát xử lý
- Hỗ trợ, giám sát, xử lý, với tư cách Nhà nước.
- Hỗ trợ, tự giám sát trong Hiệp hội là tự cứu mình.
PHẦN III
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
I.ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM.
Để tiến tới hòa nhập nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thế giới, để phù hợp với xu hướng phát triển nhanh hệ thống ngân hàng, của các tổ chức tín dụng và của hoạt động bảo hiểm tiền gửi là tất yếu khách quan.
Đồng thời do đặc điểm cụ thể của Việt Nam, trong giai đoạn đầu chỉ nên bảo hiểm loại tiền gửi có kì hạn của QTD – ND.
Trách nhiệm mua bảo hiểm thuộc về QTD – ND và cần có sự tài trợ của Nhà nước.
Nhà nước cũng nên quy định mức phí đóng bảo hiểm tương ứng với mức của các nước trên thế giới và cũng cần
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.doc