Như chúng ta đã bàn: hệ thống thủ tục hành chính nước ta còn có quá nhiều tồn tại và bất cập làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước. Thủ tục nặng nề, phiền hà là cơ hội cho nạn tham nhũng, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, không khuyến khích sự phát triển kinh tế, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài muốn vào nước ta làm ăn. Sở dĩ như vậy là do thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, nhiều khâu nhiều cửa không cần thiết và phù hợp, làm mất nhiều thời gian và chi phí, từ đó làm nản chí nhà đầu tư.
Với những tồn tại và hạn chế đó, vấn đề cải cách hành chính được đặt ra cấp thiết. Đó không chỉ là nguyện vọng bức xúc của nhân dân, tổ chức mà còn là các nhà đầu tư nước ngoài. Bởi nước ta được xem là có tiềm năng và triển vọng nhưng hệ thống thủ tục hành chính còn lạc hậu, kém sự thông thoáng, không phù hợp với xu thế phát triển chung của khu vực cũng như của thế giới.
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 32901 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cải cách hành chính: lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hướng phục vụ nhân dân, vì sự thuận tiện của nhân dân, giảm bớt sự phiền hà, sách nhiễu, chi phí và thời gian cho nhân dân. Đây được xem là thành tựu quan trọng bước đầu đáng ghi nhận. Trong hầu hết các lĩnh vực có cải cách, nói chung thủ tục hành chính đã được đổi mới hướng theo sự thuận lợi cho nhân dân và doanh nghiệp, từng bước xóa bỏ tình trạng thủ tục hành chính chỉ dành sự thuận lợi cho cơ quan nhà nước, đẩy khó khăn cho nhân dân, cụ thể được biểu hiện như sau:
Thứ nhất, những công việc của nhân dân và doanh nghiệp được quy về một đầu mối (chỉ một cơ quan nhận yêu cầu và tổ chức giải quyết). Những thủ tục quá rườm rà, phức tạp không cần thiết đã được bãi bỏ, những thủ tục cần được thu gọn đã thu gọn lại.
Điển hình nhất là việc cải cách hành chính trong lĩnh vực thành lập và đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, trước khi thông tư 05/1998/TTLN- KHĐT- TP được ban hành tháng 8/1998 thì theo luật doanh nghiệp muốn thành lập một doanh nghiệp tư nhân, luật công ty và các văn bản liên quan, chủ doanh nghiệp muốn thành lập một doanh nghiệp phải thực hiện 02 bước sau: Thủ tục xin phép thành lập; thủ tục đăng ký kinh doanh và đăng báo công khai. Những thủ tục này phải đăng ký ở các đầu mối khác nhau, trong đó mỗi thủ tục phải qua nhiều cửa. Tóm lại, để thành lập được một doanh nghiệp thì nhà đầu tư phải qua hàng chục cửa với hàng chục con dấu, tốn nhiều chi phí mà thời gian kéo dài hàng năm gây thất vọng, nản chí cho các nhà đầu tư nhất là nhà đầu tư nước ngoài. Sau khi thông tư liên nghành số 05/1998/ TTLN- KHĐT- TP được ban hành đã cải cách đáng kể tủ tục phiền hà trên. Đặc biệt, tháng 6/1999 Quốc hội đã thông qua luật doanh nghiệp mới thì thủ tục thành lập doanh nghiệp chỉ còn một bước là đăng ký kinh doanh và đăng báo công khai, làm thủ tục đăng ký tại một cửa duy nhất là phòng đăng ký kinh doanh thuộc sở kế hoạch đầu tư tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính
Như vậy, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp đã được rút gọn đáng kể tạo sự thuận lợi và môi trường đầu tư thông thoáng cho các nhà đầu tư. Thêm vào đó, ngày 3/12/2000, Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định 19/2000/QĐ- Ttg về việc bãi bỏ 84 loại giấy phép không cần thiết hiện đang tồn tại trong các ngành quản lý nhà nước. Bằng quyết định này và các văn bản ban hành sau đó, có thể nói, nhà nước đã giảm một lượng công việc về thủ tục hành chính không cần thiết cho các nhà đầu tư trong tất cả các nghành kinh tế quốc dân. Trong thời gian tới, chính phủ tiếp tục nghiên cứu nhằm bãi bỏ một số loại giấy phép của các ngành, các cấp nhằm làm thông thoáng môi trường đầu tư nước ta. Có thể thấy, đó là những kết quả và những tín hiệu đáng mừng cho giới đầu tư kinh doanh của Việt Nam cũng như nước ngoài.
Tiếp đến là Chính phủ mới ban hành nghị quyết 165/1999/NĐ- CP và nghị quyết số 08/2000/NĐ- CP về giao dịch có đảm bảo và thực hiện việc đăng ký giao dịch có đảm baortaij một hệ thống cơ quan thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Hệ thống cơ quan này được ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đăng ký giao dịch ngày càng lớn, đa dạng và phong phú khi nền kinh tế thị trường Việt Nam ngày một phát triển sôi động. Bằng việc đơn giản hóa thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm này chắc chắn sẽ tạo điều kiện để cai quản hộ kinh tế dân sự trong đời sống xã hội vận hành một cách an toàn và hiệu quả ; đáp ứng được đòi hỏi của công cuộc đổi mới kinh tế- xã hội ở Việt Nam
Thứ hai, hạn chế tối đa việc ban hành các thủ tục hành chính của cấp chính quyền địa phương , chính từ việc có nhiều cơ quan ban hành thủ tục hành chính mới tạo ra sự thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ. Hiện nay, tình trạng này về cơ bản đã được khắc phục. Ví dụ: theo điều 2 nghị định 02/2000/NĐ-CP đã nói ở trên thì các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh không được ban hành cac quy định về đăng kí kinh doanh áp dụng riêng cho nghành hoặc địa phương minh. Thêm nữa trình tự giải quyết công việc cho nhân dân và doanh nghiệp hầu hết được một cách rõ ràng nhất quán trong phạm vi toàn quốc. Đến nay chính phủ đều đã ban hành được văn bản quy định về thủ tục giải quyết của nhân dân và doanh nghiệp. Các bộ, nghành đều đã có các quy định cụ thể hướng dẫn thi hành
Thứ ba, hồ sơ giấy tờ có liên quan tới việc giải quyết công việc của nhân dân đã được mẫu hóa một cách thống nhất. Điều nay hạn chế tối đa hiện tượng cơ quan thẩm định hồ sơ viện cớ hồ sơ chưa rõ ràng để hạch sách dân, tạo ra sự lành mạnh trong việc giải quyết công việc của dân, đồng thời lấy lại niềm tin của dân đối với chính quyền.
Thứ tư, trình tự, lệ phí giải quyết công việc ở hầu hết các cơ quan đều được công khai hóa tại trụ sở làm việc của cơ quan. Cán bộ công chức tiếp dân về cơ bản được bố trí đủ và thường trực, tránh sự dán đoạn trong việc giải quyết công việc của nhân dân. Trong các hướng dẫn thi hành văn bản có liên quan tới thủ tục hành chính của nhân dân mà các bộ ban hành hầu hết đều có quy định yêu cầu tất cả các cơ quan có trách nhiệm giải quyết công việc của nhân dân, phải bố trí đầy đủ các bộ cần thiết để tiếp dân bố trí thời gian giải quyết công việc của nhân dân cho phù hợp.
-Nhà nước đã bãi bỏ nhiều thủ tục, nội dung kiểm soát không hợp lí, đặt niềm tin về sự làm ăn chân chính của công dân và đội ngũ doanh nghiệp nâng caom ý thúc tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của công dân và doanh nghiệp về công việc làm ăn của mình.
Điều này thể hiện một tư duy mới về quản lý nhà nước, tư duy có thể diễn đạt một cách cô đọng như Thủ tướng chính phủ đã từng nói: không thể vì một vài cá nhân doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật mà yêu cầu tất cả các doanh nghiệp, doanh nhân phải chụi sự kiểm soát quá cứng nhắc và phiền phức. Về điều này có rất nhiều minh chứng để chứng minh, ở đây xin đơn cử 02 lĩnh vực tiêu biểu:
Thứ nhất, trong việc thành lập và đăng ký doanh nghiệp: Trước đây, khi lập hồ sơ xin phép thành lập hoặc đăng ký kinh doanh pháp luật đòi hỏi nhiều loại thông tin trong hồ sơ như: sơ yếu lý lịch của nhà đầu tư, tình trạng sức khỏe, vốn pháp định... đều phải có sự xác nhận của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hiện nay, những thủ tục không cần thiết như vậy đã được loại bỏ.
Thứ hai, trong lĩnh vực xuất- nhập khẩu hiện nay nhà nước cho phép các chủ hàng tự kê khai hàng hóa, số thuế phải nộp. Hải quan chỉ kiểm tra, giám sát quá trình này và chỉ kiểm tra cụ thể khi có biểu hiện nghi vấn, có hành vi vi phạm.
Cơ quan trung ương đã đặt niềm tin nhiều hơn vào cơ quan địa phương, cơ quan cấp trên đã tin tưởng vào cơ quan cấp dưới nhiều hơn, các cơ quan trung ương đã mạnh dạn giao nhiều quyền hơn cho các cơ quan cấp dưới, nhất là các công việc mang tính sự vụ cụ thể.
Để chứng minh cho điều này, xin đơn cử 2 ví dụ:
Thứ nhất, trong việc phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài theo quyết định 38/Ttg ngày 7/6/1997 và quyết định 41/1998 QĐ-Ttg ngày 20/2/1998 của Thủ tướng chính phủ đã phân cấp cho nhiều cơ quan có quyền cấp phép đầu tư như: UBND cấp tỉnh, Ban Quản lý các khu công nghiệp cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Thứ hai, trong lĩnh vực xuất- nhập cảnh: Trước kia chỉ có 03 cấp được quyền quyết định nhân sự xuất- nhập cảnh là Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng hoặc tương đương và Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Hiện nay, ngoài 03 cấp nói trên, các Thủ trưởng, cơ quan thuộc bộ, thủ trưởng thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tổng giám đốc các doanh nghiệp nhà nước lớn cũng được giao thẩm quyền này.
Như vậy, bằng sự phân quyền này, đã làm giảm bớt số lượng công việc mang tính vụ cụ thể của các cơ quan nhà nước ở trung ương, từ đó các cơ quan ở trung ương có nhiều thời gian hơn để tập trung vào hoạt động có tính vĩ mô như hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật và chỉ đạo theo dõi, kiểm tra các ngành, các cấp, các địa phương trong việc thực thi các chính sách pháp luật.
Những thành tựu đạt được nêu trên là những thành tựu đáng ghi nhận bước đầu của tiến trình cải cách thủ tục hành chính ở nước ta. Những kết quả đó cho thấy bộ máy hành chính đã bước đầu được củng cố, dần lấy lại niềm tin của nhân dân và giới doanh nghiệp vào bộ máy nhà nước. Nhà nước đã bước đầu thực sự sát cánh cùng nhân dân và doanh nghiệp đấu tranh chống đói nghèo, vươn lên giàu có, vì sự phồn vinh của đất nước. Vươn tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2.4.Những tồn tại và hạn chế của công cuộc cải cách hành chính
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thì tiến trình cải cách thủ tục hành chính hiện nay còn bộc lộ những tồn tại và hạn chế. Tồn tại đó do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, song để trước mắt là phải tìm ra biện pháp khắc phục những yếu điểm đó. Tồn tại và hạn chế cụ thể được biểu hiện ở những điểm sau:
Cải cách thủ tục hành chính trong thời gian qua vẫn nặng nề về giải pháp tình thế, thiếu tính tổng thể.
Thủ tục hành chính là biểu hiện tập trung nhất các hoạt động của nhà nước can thiệp vào nền kinh tế và xã hội, tuy nhiên hiện nay mức độ và phương pháp can thiệp của nhà nước vào từng lĩnh vực quản lý cụ thể vẫn chưa đáp ứng một cách thỏa đáng. Việc xây dựng một chính sách vĩ mô mang tính tổng thể vẫn nằm trong tình trạng cấp bách, nặng nề đề phòng, trói buộc, thiếu sự linh hoạt, chủ động và thông thoáng. Vì vậy, thủ tục hành chính nhìn chung vẫn chưa ổn định, chưa tạo được sức thu hút, giải phóng và khai thác mọi nguồn lực trong nước, trong dân và quốc tế. Thủ tục hành chính luôn bị động trước yêu cầu phát triển nhanh của đời sống thực tiễn.
Các biện pháp cải cách thủ tục hành chính trong thời gian qua vẫn mang tính thử nghiệm, phương châm cải cách về cơ bản vẫn là vừa làm vừa lấy kinh nghiệm, vừa học hỏi. Vì thế, chính phủ chưa hoạch định được một chiến lược tổng thể để cải cách hành chính và cải cách thủ tục hành chính nói riêng. Điều này làm cho tiến trình cải cách gặp nhiều lúng túng, bị động trước sự đòi hỏi của xã hội.
Chất lượng dịch vụ công nhà nước cung cấp cho nhân dân vẫn còn thấp chưa đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân và giới doanh nghiệp.
Biểu hiện của điều tồn tại này là nạn tham nhũng, hạch sách, thái độ thờ của cán bộ công chức đối với công việc của nhân dân càng phổ biến. Khi có việc người dân đi đến cơ quan chức năng để giải quyết, nhìn chung vẫn bị đối xử như những người đi nhờ vả, đi xin. Mặt khác, phương tiện hiện đại cho một nền hành chính công hoạt động hiệu quả còn thiếu, vì thế năng xuất giả quyết công việc của dân còn thấp.
Cải cách thủ tục hành chính chưa tương ứng trong tất cả các lĩnh vực những khuyết tật trong nền hành chính gây ra những biến dạng trong sự hiện hành của thủ tục hành chính mới.
Cho đến nay, không phải mọi lĩnh vực tiến hành cải cách đều đạt được thành tựu mà thực sự vẫn còn nhiều lĩnh vực như: khiếu nại, tố cáo, hộ khẩu hộ tịch... . Mức độ cải cách thủ tục hành chính vẫn chưa đáp ứng được so với yêu cầu thực tiễn. Một trong những yếu tố trở thành vật cản lớn làm cho thủ tục hành chính mới khó đi vào đời sống là thực chất kém phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn của cán bộ công chức nhà nước. Chẳng hạn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, để thông qua một container hàng thì doanh nghiệp phải đút tay cho cán bộ hải quan một số tiền. Trong lĩnh vực công chứng, nhân viên tự đặt ra các lệ nghỉ giữa giờ, không tiếp dân, thu lệ phí không đúng vẫn còn. Việc mẫu hóa các giấy tờ giải quyết cho dân trong nhiều lĩnh vực còn chưa dồng bộ, gây hạch sách cho những người có công việc cần giải quyết.
Như vậy, là sau một thời gian tiến hành cải cách thủ tục hành chính, bên cạnh những thành quả đạt được còn bộc lộ những tồn tại, những điểm bất cập. Những tồn tại đó đang có xu hướng làm cản trở tiến trình cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam. Do đó, trong thời gian tới đòi hỏi nhà nước phải có biện pháp kịp thời để khắc phục.
Nguyên nhân của tồn tại và hạn chế
Nguyên nhân của tồn tại và hạn chế cải cách thủ tục hành chính ở nước ta bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vì vậy, việc đi sâu và làm rõ nguyên nhân này có ý nghĩa thiết thực trong việc tìm ra định hướng để tháo gỡ.
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do tính chất mới của bản thân đối tượng quản lý, sự nghiệp đổi mới diễn ra chưa lâu, nên chưa tích lũy được kinh nghiệm, các quy luật của nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường mới bước đầu bộc lộ, do đó việc nhận thức còn chưa đầy đủ và đúng đắn. Vì vậy, sự chậm chạp trong việc tìm ra phương thức quản lý là điều dễ hiểu.
Thứ hai, do tính mới mẻ của hoạt động cải cách thủ tục hành chính phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Đây thực sự là một công việc chưa có tiền lệ ở nước ta. Vì vậy, trong những bước đi đầu tiên có những vấp váp nhất định là điều khó tránh khỏi. Cùng đó là thói quen quản lý theo kiểu cũ còn ăn sâu vào trong đại bộ phận các cán bộ công chức, quản lý nhà nước- vốn là những người được đào tạo, kinh qua cơ chế cũ, mức độ đổi mới thích nghi với cơ chế mới không chỉ là công việc muốn là được.
Thứ ba, trình độ lý luận của các nàh khoa học trong nghành và các nàh chính trị vẫn chưa đáp ứng đầy đủ đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống đặt ra, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song hiện tại nhiều vấn đề lý luận về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế, về vai trò của giới doanh nhân với sự phát triển kinh tế xã hội về lý thuyết thiết kế bộ máy nhà nước hiệu quả vẫn chưa có sự thống nhất.
2.5.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, do sự yếu kém nhận thức của các cơ quan liên quan chưa thống nhất hết được tầm quan trọng và tính cấp thiết của công tác cải cách thủ tục hành chính đối với đòi hỏi của nhân dân và đất nước hiện nay. Từ đó dẫn đến sự chỉ đạo điều hành chưa kịp thời. Hiện tượng này không chỉ diễn ra ở địa phương và diễn ra ngay ở cấp chính phủ và bộ. Ví dụ, những bất cập của các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thành lập và đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp đã trở nên bức xúc từ nhiều năm, và từ năm 1994 chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành nghiên cứu và ban hành thủ tục mới, song phải tới cuối năm 1998 các văn bản thể hiện tinh thần ấy mới được ban hành,... Sự yếu kém về nhận thức này đòi hỏi phải sớm khắc phục.
Thứ hai, công tác tổng kết, đúc kết rút kinh nghiệm thực tiễn, phát triển lý luận, giải đáp và dẫn đường cho thực tiễn còn chưa được chú trọng đúng mức, ngay cả những nhà khoa học đầu ngành cũng gặp nhiều lúng túng khi giải đáp các vấn đề của thực tiễn phát sinh trong cải cách thủ tục hành chính. Các nguồn lực như: thời gian, công sức, kinh phí... dành cho hoạt động cải cách thủ tục hành chính còn chưa tương xứng. Ví dụ: hiện tại mỗi tỉnh chỉ có một phòng đăng ký kinh doanh (thuộc sở kế hoạch đầu tư tỉnh) bố trí số cán bộ công chức là 03 đến 04 người được trang bị một máy tính hầu hết là chưa nối mạng. Vậy mà pháp luật quy định cho họ nhiệm vụ đăng ký kinh doanh cho hành trăm doanh nghiệp mỗi năm, đồng thời theo dõi tình hình hoạt động của hàng trăm, thậm chí hàng ngàn doanh nghiệp trên địa bàn. Qua đó ta thấy sự đầu tư chưa thỏa đáng về mọi mặt cho việc cải cách thủ tục. Rõ ràng với biên chế và nguồn lực như vậy thì đòi hỏi việc giải quyết công việc đạt chất lượng cao là điều khó có thể thực hiện được.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ công chức về cơ bản còn yếu và thiếu cả về trình độ chuyên môn lẫn phẩm chất đạo đức chính trị.
Thứ tư, chế độ đãi ngộ cho cán bộ, công chức còn nhiều bất hợp lý dẫn đến trong cuộc cải cách hành chính thiếu động lực: đội ngũ cán bộ, công chức không thiết tha, tận tâm lắm với công việc.
2.6. Hướng khắc phục và một số kiến nghị về cải cách thủ tục hành chính ở nước ta trong thời gian tới
Để công tác cải cách thủ tục hành chính đạt hiệu quả tốt, tạo ra môi trường thông thoáng, hài hòa về mức độ và phương thức can thiệp của nhà nước vào các lĩnh vực kịnh tế- xã hội. Trong thời gian tới chúng ta phải tập trung các nguồn lực về thời gian, công sức và kinh phí để tìm ra các biện pháp cấp bách nhằm khắc phục những tồn tại vướng mắc sau một thời gian tiến hành cải cách thủ tục hành chính. Tuy vấn đề này không đơn giản, có thể khắc phục trong một sớm một chiều song không thể không khắc phục. Trên cơ sở đó, phương hướng đổi mới trong thời gian tới có thể là:
Dành các nguồn lực thỏa đáng, tập trung nghiên cứu và đưa ra giải pháp tối ưu nhất về mức độ và phương thức can thiệp của nhà nước vào các lĩnh vực kinh tế xã hội. Tuy đây không phải là bài toán dễ giải đáp vì không có câu trả lời chung cho tất cả các nghành, các lĩnh vực. Song không thể không giải đáp bởi lẽ sự can thiệp, quản lý của nhà nước vào đời sống kinh tế- xã hội là tuyến đồ phát sinh của thủ tục hành chính. Nếu không có lời giải thì việc đưa ra các giải pháp cải cách thủ tục hành chính không có căn cứ chắc chắn về tính phù hợp của nó đối với đời sống thực tiễn.
Đây cũng chính là nguyên nhân của tình trạng thủ tục hành chính thường rơi vào trạng thái: hoặc là kiểm soát quá chặt chẽ, cứng nhắc; hoặc là buông lỏng quá mức. Để khắc phục tình trạng này cần tổng rà soát lại một lần nữa tất cả các lĩnh vực có sự kiểm soát của nhà nước bằng thủ tục hành chính, đặc biệt là các lĩnh vực chủ chốt, mạnh dan xã hội hóa những lĩnh vực mà nhân dân làm sẽ hiệu quả hơn nhà nước. Để làm tốt việc này nhà nước cần mạnh dan đầu tư tài chính cho giới khoa học chủ chốt để hoạt động sáng tạo của họ có hiệu quả. Khi thực hiện cần kiên trì và linh hoạt để có những điều chỉnh kịp thời.
Cẩn quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa nhân dân và tập thể, giữa cơ quan nhà nước với nhân dân, xây dựng chính sách thưởng phạt thỏa đáng. Nâng cao tính hiệu quả và chất lượng của các dịch vụ công. Tổng kết đánh giá hiệu quả trong ncoong việc của các cơ quan được giao nhiệm vụ . để từ đó có những điều chỉnh hợp lí về nguồn lực, tránh sự lãng phí không cần thiết
Cần quan tâm đúng mức về vấn đề lương , thưởng đối với những người chịu thiệt thòi từ cải cách thủ tục hành chính nói riêng và cải cách thủ tục hành chính nói chung. Vì khi tiến hành cải cách, ít nhiều sẽ động chạm tới lợi ích của một bộ phận cán bộ công chức, từ đó những trường hợp này đáng lẽ phải đi tiên phong trong cải cách thủ tục hành chính thì họ lại trở thành vật cản với tiến trình cải cách. Bên cạnh đó, trong thời gian tới cần nghiên cứu để tăng lương cho công chức. Đây là một biện pháp để đẩy nhanh quá trình cải cách bởi lúc đó cán bộ công chức sẽ tập trung thời gian cho công việc không phải lo về vấn đề cuộc sống đời thường. Đúng với tinh thần cải cách chế độ tiền lương của Đảng đề ra trong nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ 7 khóa VIII là “ Tiền lương phải gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, trả lương đúng cho người lao động chính là thực hiện đúng đầu tư cho phát triển, nâng cao năng xuất lao đông và hiệu quả công tác; góp phần làm lành mạnh , trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức; bảo đảm giá trị thực của tiền lương và từng bước cải thiên sự phát triển kinh tế xã hội’.
Tiếp tục mở rộng cải cách thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực có sự kiểm soát của nhà nước theo hướng giảm thiểu sự kiểm soát phi hiệu quả và không cần thiết, nhưng vẫn đảm bảo được vai trò quản lý của nhà nước. Rút ngắn tối đa thời gian giải quyết các hồ sơ, công việc của công dân và doanh nghiệp, phù hợp với thực lực hiện có. Các loại giấy tờ trong hồ sơ của công dân hoăc doanh nghiệp có nội dung cần thẩm định thì đều phải được mẫu hóa thống nhất, tạo sự thuân lợi cho người dân và cơ quan khi giải quyết công việc. Mọi thủ tục , trình tự giải quyết, lịch làm việc, lệ phí cần niêm yết công khai tai trụ sở làm việc. Bố trí cán bộ, nhân viên có mặt thường xuyên để tiếp dân. Đối với những thủ tục liên quan chặt chẽ đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp như thủ tục hải quan, thủ tục đăng kí kinh doanh nên duy trì cả chế độ làm việc cả ngày thứ bảy và chủ nhật.
Xây dựng một cơ chế kiểm tra giám sát có hiệu quả đối với cán bộ công chức đẻ từ đó phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh đối với những người có hành vi vi phạm, có biểu hiện nhũng nhiễu, hách dịch trong mối quan hệ với dân. Mặt khác phải đọng viên, khen thưởng kịp thời những người có thành tích tốt trong công tác.
Tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao trau dồi kiến thức nghiệp vụ lẫn đạo đức chính trị cho cán bộ công chức, kiên quyết loại bỏ hoặc chuyển công tác khác đối với những người có tư duy cũ, chậm tiến và bảo thủ, mạnh dạn giao việc cho lớp trẻ để họ có điều kiện phát huy nội lực.
Phân công nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể cho các cấp , các nghành , tiếp tục trao quyền hơn nữa cho cấp địa phương. Vì chính quyền địa phương có điều kiện và lợi thế hơn so với chính quyền trung ương bởi họ sâu sát với dân vadf công việc hơn. Chính quyền trung ương chỉ nên giám sát chỉ đạo, uốn nắn những sai xót của chính quyền cấp dưới, tạo ra sự thống nhất, hài hòa về mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương.
Có thể nói , phương hướng đổi mới và một số đề xuất trong thời gian tới đối với vấn đề cải cách thủ tục hành chính không thể một lúc nêu ra được hết, bởi chúng ta chỉ có thể đúc rút kinh nghiệm khi trải qua thực tiễn. do vậy trong thời gian tới chủ yếu là vừa làm vừa điều chỉnh, vừa học hỏi. Với phương châm đó trong tương lai cải cách thủ tục hành chính sẽ có diện mạo mới, góp phần to lớn vào sự phát triển của đất nước trong thời kì đổi mới, đẩy nhanh sự hội nhập vào cộng đồng quốc tế.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TẠI XÃ KHÁNH THỦY-HUYỆN YÊN KHÁNH-TỈNH NINH BÌNH
3.1. Tình hình kinh tế xã hội tại xã Khánh Thủy-huyện Yên Khánh-tỉnh Ninh Bình.
Khánh Thủy là xã nằm ở phía Đông huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, cách quốc lộ 1A 20km và thành phố Ninh Bình 25km về phía đông.
Về vị trí địa lý: phía Bắc giáp xã Chất Bình, huyện Kim Sơn, phía Nam giáp xã Khánh Thành huyện Yên Khánh, phía Tây giáp xã Khánh Hội, phía Đông giáp xã Khánh Bằng, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
Tính đến năm 2006, dân số toàn xã là 14.540 người với tổng số hộ là 3500 hộ, trong đó số lao động nông nghiệp là 2800 hộ, chiếm 80% toàn xã, 20% còn lại là các hộ buôn bán và dịch vụ nhỏ lẻ.
Tổng diện tích tự nhiên có 1824 ha, trong đó đất nông nghiệp là 924 ha, đất chuyên dùng là 196 ha, đất thổ cư là 69 ha, đất chưa sử dụng là 624 ha.
Về sản xuất ngành nghề chỉ có 2 Hợp tác xã nông dịch vụ nghiệp chủ yếu là dịch vụ điện, dịch vụ thủy nông, ngoài ra còn một số lao động tự tạo ngành nghề mới như dịch vụ xây dựng, nghề mộc, hằng năm có từ 800 đến 1000 lao động đi làm ăn xa ở các tỉnh thành.
3.2. Thực trạng về công tác cải cách thủ tục hành chính tại UBND xã Khánh Thủy từ năm 2001 đến nay.
3.2.1. Thực trạng cải cách thủ tục hành chính tại xã Khánh Thủy.
Đầu năm 2001, thực hiện Nghị quyết số 38 CP của Chính phủ và Quyết định số 49/QĐ-UB ngày 11thangs 4 năm 2001cua ủy ban nhân dân huyện về việc phê duyệt Đề án cải cách thủ tịc hành chính ở các cơ quan nhà nước thuộc ủy ban nhân dân huyện Yên Khánh. Ủy ban nhân dân xã Khánh Thủy đã tiến hành tổ chức, triển khai thực hiện công cuộc cải cách thủ tục hành chính một cách triệt để và có hiệu quả nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết yêu cầu, khiếu nại của người dân một cách nhanh chóng, hiệu quả và đúng đắn, tạo được niềm tin trong nhân dân.
Thực tiễn trong thời gian qua, từ khi triển khai thực hiện nghị quyết số 38/CP, Quyết định số 49/2001/QĐ-UB ngày 11 tháng 4 năm 2001 của UBND huyện Yên Khánh về việc phê duyệt đề án cỉa cách thủ tục hành chính theo mô hình một cửa ở các cơ quan nhà nước thuộc UBND huyện Yên Khánh, công dân, tổ chức đến giải quyết các loại hồ sơ, giấy tờ được lấy kết quả ngay hoặc lấy trong ngày như các lĩnh vực dông chứng, chứng thực, ngoại trừ các loại hồ sơ được niêm yết một thời gian nhất định theo quy định của pháp luật hoặc cần được xác minh làm rõ. Nhìn chung thời gian giải quyết xong sớm hơn thời gian được giới hạn trong trong quy định của huyện đã niêm yết công khai, giải quyết giấy tờ cho công dân, tổ chức được thực hiện tương đối nhanh gọn, đáp ứng được nhu cầu chính đáng của nhân dân, giảm được phiền hà cho nhân dân, đảm bảo dúng pháp luật.
Qua 8 năm triển khai công cuộc cải cách thủ tục hành chính theo mô hình một cửa, bược đầu đã đạt những thành tựu nổi bật sau:
Về phía cơ quan nhà nước:
Đôị ngũ cán bộ công chức làm việc tại tổ tiếp nhận và trả hồ sơ bước đầu còn bở ngỡ, lúng túng, nhất là chưa nắm kĩ các yêu cầu về thủ tục hành chính của nhiều lĩnh vực khác nhau. Song qua thực tiễn xử lý công việc, kết hợp với hướng dẫn trao đổi nghiệp vụ, rút kinh nghiệm những nơi làm việc nên chất lượng công việc được giải quyết tại ủy ban nhân dân xã được nâng lên rõ rệt, cán bộ công chức tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả nắm kỹ hơn về mọi thủ tục hành chính và quy trình giải quyết công việc.
Mối quan hệ giữa các phòng ban chuyên môn nghiệp vụ và lãnh đạo đơn vị trở nên đồng bộ và chặt chẽ hơn.
Hồ sơ của công dân, tổ chực được giải quyết sớm hơn hoặc đúng hẹn, ngăn ngừa được tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực.
Về phía công dân:
Khi có nhu cầu giải quyết việc hành chính, công dân không phải đi lại nhiều nơi, yêu cầu giải quyết công việc được nhanh hơn, tránh được sác nhiễu, phiền hà.
Công dân có điều kiện giám sát cơ quan nhà nước và cán bộ công chức, góp phầm tham gia xây dựng chính quyền ngày càng vững mạnh.
Việc tiếp nhận hồ sơ,giải quyết hồ sơ theo quy chế “một cửa” tại Ủy ban nhân dân xã Khánh Thủy được thực hiện trên một số linh vực sau:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nien luan cua thanh.doc