CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CNH - HĐH
I. CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP:
1. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Cơ cấu là một phạm trù triết học phản ánh cấu trúc bên trong của một đối tượng. Cơ cấu được hiểu như một tập hợp những quan hệ cơ bản, tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành của đối tượng xem xét.
Cơ cấu kinh tế (CCKT) là phạm trù rộng biểu thị những phạm vi và khía cạnh khác nhau. Đứng trên góc độ kinh tế quốc dân, đó là những hoạt động có mối quan hệ lẫn nhau của tất cả các xí nghiệp, cơ quan và tổ chức được tiến hành trên cơ sở phân công lao động xã hội, trong một giai đoạn lịch sử nhất định của một đất nước, để sản xuất và lưu thông của cải vật chất, cũng như để thoả mãn các yêu cầu không có tính sản xuất của cá nhân và xã hội.
Như vậy, có thể hiểu CCKT là phạm trù kinh tế biểu hiện cấu trúc bên trong của nền kinh tế, là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu về chất và lượng tương đối ổn định của các yếu tố do các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản xuất xã hội với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Các mối quan hệ đó được biểu hiện bằng các mối quan hệ giữa các ngành, các thành phần, cũng như giữa các vùng lãnh thổ của nền kinh tế.
Trong CCKT xét cả ở tầm vĩ mô và vi mô, cơ cấu ngành là CCKT quan trọng nhất. Nó biểu thị quan hệ giữa các ngành kinh tế, những tổng thể đơn vị kinh tế cùng thực hiện một loại chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội theo ngành để sản xuất ra những sản phẩm hoặc những dịch vụ có những đặc tính chung nhất định.
Cơ cấu lãnh thổ phản ánh sự phân công lao động xã hội về mặt không gian địa lý. Ở mỗi vùng lãnh thổ được bố trí các ngành sản xuất khác nhau theo một tỷ lệ thích ứng để khai thác triệt để ưu thế, đặc thù của từng vùng, đồng thời hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển.
Cơ cấu kinh tế - xã hội phản ánh trình độ phát triển của quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu trong nền kinh tế. Biểu hiện là cơ sơ cấu thành phần kinh tế, qua đó có thể thấy được mức độ thống trị của quan hệ sản xuất chủ đạo trong tiến trình phát triển của phương thức sản xuất đang được hình thành và phát triển.
Cơ cấu kinh tế - tổ chức biểu hiện trình độ tập trung hoá, chuyên môn hoá, tức là trình độ phát triển của phân công lao động trong các đơn vị kinh tế. Quy mô, hình thức tổ chức các đơn vị kinh tế, vị trí và sự kết hợp các hình thức tổ chức đó trong nền kinh tế là một trong những vấn đề trọng yếu của Nhà nước ta về quản lý kinh tế.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể bao gồm các mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, trong những khoảng thời gian và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao gồm cơ cấu các ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu kỹ thuật. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, điều đó được thể hiện qua sự gắn bó giữa nông - lâm - ngư nghiệp cùng với công nghiệp chế biến.
39 trang |
Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 2838 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần Mở Đầu
Lịch sử phát triển của xã hội loài người gắn liền với lịch sử phát triển của các quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Trước hết là sản xuất nông nghiệp nhằm tạo ra lương thực, thực phẩm để nuôi sống con người tồn tại và phát triển. Mác viết:"Trước hết con người phải có ăn, ở, mặc, sau đó mới lo làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo". Đối với nhiều quốc gia nông nghiệp luôn luôn là lĩnh vực quan trọng nhất.
Nông nghiệp là nơi sản xuất và cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, lao động cho công nghiệp, đồng thời là thị trường tiêu thụ sản phẩm lớn của công nghiệp. Giữa nông nghiệp và công nghiệp có mối quan hệ mật thiết với nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Đối với một nước 80% dân số và 70% lao động sống ở nông thôn, làm nông nghiệp thì việc phát triển thứ tự ưu tiên các ngành nông- lâm - ngư nghiệp là một tất yếu khách quan. Đó là những căn cứ khẳng định CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn là vấn đề then chốt và có ý nghĩa chiến lược.
Chúng ta không thể tiến hành CNH - HĐH đất nước bắt đầu từ một nền nông nghiệp lạc hậu, phân tán và thuần nông. Vậy nhiệm vụ mang tính chiến lược đặt ra là tổ chức lại sản xuất trong ngành nông nghiệp với cơ cấu hợp lý. Vì đây là hướng đột phá quan trọng hướng tới nền nông nghiệp hiện đại, phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Nghi quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: "Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH là nhằm khắc phục tính tự cấp, tự túc, khép kín chuyển mạnh sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, gắn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài. Đẩy mạnh xuất khẩu tăng cường tích luỹ nội bộ nền kinh tế quốc dân nhanh chóng đưa đất nước tiến lên văn minh, hiện đại". Vận dụng những quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế, Vân Đồn là một huyện miền núi, hải đảo đã và đang có những bước đổi mới. Về vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn được quan tâm và triển khai tích cực trên địa bàn huyện.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng còn có nhiều hạn chế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, chưa khai thác triệt để tiềm năng sẵn có của địa phương như các tài nguyên rừng, biển , đất đai. Nền kinh tế chủ yếu còn mang tính nông nghiệp thuần nông, tỷ trọng sản xuất hàng hoá thấp, nông nghiệp vẫn là ngành chiếm tỷ trọng cao. Việc đầu tư thâm canh, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp còn hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu đề ra các phương hướng, giải pháp xây dựng một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý để khai thác hết tiềm năng, nguồn lực, lợi thế của địa phương vào việc phát triển kinh tế - xã hội là một vấn đề được đặt ra cấp bách và thiết thực đối với Đảng bộ và nhân dân huyện Vân Đồn. Coi đó là yêu cầu, đòi hỏi lớn nhằm thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của huyện trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH - HĐH. Vì vậy em chọn nghiên cứu đề tài:" Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh theo hướng CNH - HĐH".
Phần I:
CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CNH - HĐH
I. CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP:
1. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Cơ cấu là một phạm trù triết học phản ánh cấu trúc bên trong của một đối tượng. Cơ cấu được hiểu như một tập hợp những quan hệ cơ bản, tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành của đối tượng xem xét.
Cơ cấu kinh tế (CCKT) là phạm trù rộng biểu thị những phạm vi và khía cạnh khác nhau. Đứng trên góc độ kinh tế quốc dân, đó là những hoạt động có mối quan hệ lẫn nhau của tất cả các xí nghiệp, cơ quan và tổ chức được tiến hành trên cơ sở phân công lao động xã hội, trong một giai đoạn lịch sử nhất định của một đất nước, để sản xuất và lưu thông của cải vật chất, cũng như để thoả mãn các yêu cầu không có tính sản xuất của cá nhân và xã hội.
Như vậy, có thể hiểu CCKT là phạm trù kinh tế biểu hiện cấu trúc bên trong của nền kinh tế, là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu về chất và lượng tương đối ổn định của các yếu tố do các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản xuất xã hội với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Các mối quan hệ đó được biểu hiện bằng các mối quan hệ giữa các ngành, các thành phần, cũng như giữa các vùng lãnh thổ của nền kinh tế.
Trong CCKT xét cả ở tầm vĩ mô và vi mô, cơ cấu ngành là CCKT quan trọng nhất. Nó biểu thị quan hệ giữa các ngành kinh tế, những tổng thể đơn vị kinh tế cùng thực hiện một loại chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội theo ngành để sản xuất ra những sản phẩm hoặc những dịch vụ có những đặc tính chung nhất định.
Cơ cấu lãnh thổ phản ánh sự phân công lao động xã hội về mặt không gian địa lý. Ở mỗi vùng lãnh thổ được bố trí các ngành sản xuất khác nhau theo một tỷ lệ thích ứng để khai thác triệt để ưu thế, đặc thù của từng vùng, đồng thời hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển.
Cơ cấu kinh tế - xã hội phản ánh trình độ phát triển của quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu trong nền kinh tế. Biểu hiện là cơ sơ cấu thành phần kinh tế, qua đó có thể thấy được mức độ thống trị của quan hệ sản xuất chủ đạo trong tiến trình phát triển của phương thức sản xuất đang được hình thành và phát triển.
Cơ cấu kinh tế - tổ chức biểu hiện trình độ tập trung hoá, chuyên môn hoá, tức là trình độ phát triển của phân công lao động trong các đơn vị kinh tế. Quy mô, hình thức tổ chức các đơn vị kinh tế, vị trí và sự kết hợp các hình thức tổ chức đó trong nền kinh tế là một trong những vấn đề trọng yếu của Nhà nước ta về quản lý kinh tế.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể bao gồm các mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, trong những khoảng thời gian và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao gồm cơ cấu các ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu kỹ thuật. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, điều đó được thể hiện qua sự gắn bó giữa nông - lâm - ngư nghiệp cùng với công nghiệp chế biến.
2. Đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Những đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp được biểu hiện như sau:
Do đặc điểm của kinh tế nông nghiệp nên cơ cấu kinh tế nông nghiệp bị chi phối mạnh mẽ bởi cấu trúc của kinh tế nông nghiệp. Điều đó biểu hiện ở chỗ trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông nghiệp thường chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành và chúng chỉ có thể chuyển biến cách mạng khi cơ cấu kinh tế nông nghiệp biến đổi theo hướng có tính quy luật giảm tương đối và tuyệt đối lao động hoạt động trong khu vực nông nghiệp với tư cách là lao động tất yếu, lao động này ngày càng thu hẹp để tăng lao động thặng dư.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp hình thành và biến đổi gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Từ thời kỳ kinh tế sinh tồn chuyển sang thời kỳ du canh, du mục, tự cấp tự túc, kinh tế nông nghiệp có cơ cấu là hai ngành trồng tỉa lương thực và chăn thả đại gia súc gắn liền với hai bộ phận trồng trọt và chăn nuôi. Khi chuyển sang thời kỳ nông nghiệp sản xuất hàng hoá, cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hình thành và vận động theo hướng đa dạng, có hiệu quả, sự phân công lao động chi tiết tỉ mỉ hơn, từ đó những loại cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao được phát triển và mở rộng, mở mang nhiều ngành nghề, dần dần đưa kỹ thuật và công nghệ mới vào nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hình thành và vận động trên cơ sở điều kiện tự nhiên và mức độ lợi dụng, khai thác cải thiện điều kiện tự nhiên (độ ẩm, ánh sáng, lượng mưa... tức là những nguồn lực của đầu vào được ban phát bởi tạo hoá). Cơ cấu kinh tế nông nghiệp hướng tới sự chuyển dịch nhằm khai thác tối ưu và cải thiện điều kiện tự nhiên để có lợi cho con người nhất. Đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tác động của hàng loạt các quy luật tự nhiên, kinh tế- xã hội đến phát triển toàn diện của nông nghiệp. Quá trình xác lập và biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp như thế nào là phụ thuộc các điều kiện kinh tế- xã hội, những điều kiện và hoàn cảnh tự nhiên nhất định chứ không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của con người. Con người chỉ có thể nhận thức để tác động thúc đẩy hoặc hạn chế quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng ngày càng có hiệu quả cao theo mục tiêu xác định.
II. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CNH - HĐH.
1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Xét cả về hình thức và nội dung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp được thể hiện ở mối quan hệ về lượng và chất của các yếu tố cấu thành kinh tế nông nghiệp. Vì vậy, ở mỗi thời điểm khác nhau có một quan hệ tỷ lệ về các yếu tố cấu thành của kinh tế nông nghiệp khác nhau. Bởi vì trong quá trình vận động của cơ cấu kinh tế nông nghiệp, mỗi yếu tố có sự vận động khác nhau và có sự chuyển hoá cho nhau. Xét trên phương diện đó, cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng đều có sự thay đổi. Đó là tất yếu khách quan do sự vận động nội tại của cơ cấu kinh tế dưới sự tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới chúng.
Tuy nhiên, để nền kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng vận động theo đúng quy luật, khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế so sánh cần phải có sự tác động thích hợp. Qúa trình tác động vào nền kinh tế và kinh tế nông nghiệp theo đúng quy luật và mục tiêu xác định trước được coi là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là sự vận động và thay thế cấu trúc của các yếu tố cấu thành trong kinh tế nông nghiệp theo các quy luật khách quan dưới sự tác động của con người vào các nhân tố ảnh hưởng đến chúng theo những mục tiêu xác định. Đó là sự chuuyển dịch theo những phương hướng và mục tiêu nhất định.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH - HĐH là quá trình chuyển dịch theo hướng từ cơ cấu độc canh thuần nông sang chuyên môn hoá và kinh doanh tổng hợp. Chuyển từ cơ cấu mang tính tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá trong quá trình CNH - HĐH. Chuyển từ cơ cấu sử dụng ít lao động hiệu quả thấp sang nền nông nghiệp sử dụng nhiều lao động, có hiệu quả cao. Quá trình chuyển dịch cơ cấu hợp lý phải nhằm mục đích: Sử dụng tốt nhất các lợi thế so sánh nói chung và mỗi địa phương nói riêng, khai thác tối đa các tiềm năng tạo khối lượng tích luỹ ngày càng lớn cho nền kinh tế quốc dân, góp phần vào ổn định phát triển nền kinh tế - xã hội. Đồng thời từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Về mặt lý luận sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trước tiên phải chuyển dịch giống cây trồng, vật nuôi, cơ cấu giữa lao động trong trồng trọt và lao động chăn nuôi, chế biến. Tức là phải phát triển một nền nông nghiệp toàn diện lấy sản xuất lương thực làm trọng điểm, thực hiện chuyên môn hoá kết hợp với kinh doanh tổng hợp. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là xác định tỷ lệ thích hợp giữa nông - lâm - ngư nghiệp và chế biến. Ngoài ra, phải gắn với cải biến kinh tế nông thôn. Cơ cấu kinh tế mới ở nông thôn không chỉ bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp chế biến mà bao gồm các ngành như công nghiệp, thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch và các dịch vụ khác.
Cơ cấu kinh tế nông thôn phải được ổn định theo hướng phát triển mạnh các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Phát triển đa dạng công nghiệp chế biến, các ngành nghề, nhất là làng nghề làm nghề xuất khẩu. Mối quan hệ giữa nông nghiệp - công nghiệp và dịch vụ phải đảm bảo cân đối, hợp lý để tất cả các ngành ổn định tăng trưởng.
2. Tính tất yếu khách quan của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH - HĐH.
Hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý là một quá trình biến đổi mang tính khách quan và phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể ở mỗi nơi. Vì vậy, quá trình biến đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải nắm vững những đặc trưng vốn có của nó.
2.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính khách quan, được hình thành trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
Với trình độ phát triển nhất của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội thì sẽ có một cơ cấu kinh tế cụ thể thích ứng. Điều đó khẳng định rằng việc xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần phải tôn trọng tính khách quan của nó và không thể áp đặt một cách tuỳ tiện.
Các Mác viết: "Trong sự phân công lao động xã hội thì con số tỷ lệ là một tất yếu không sao tránh khỏi. Một tất yếu thầm kín yên lặng". Vì thế một cơ cấu kinh tế cụ thể trong nông nghiệp như thế nào? và xu hướng chuyển dịch của nó ra sao? là phụ thuộc vào sự chi phối của những điều kiện kinh tế - xã hội, những điều kiện và hoàn cảnh tự nhiên nhất định chứ không tuỳ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
Tuy nhiên, không giống các quy luật tự nhiên, các quy luật kinh tế lại biểu hiện và vận động thông qua hoạt động của con người. Con người có thể tác động để góp phần thúc đẩy hoặc hạn chế quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý và ngược lại. Nhằm đạt được hiệu quả và phù hợp với mục tiêu thì sự tác động đó phải tôn trọng tính khách quan của cơ cấu kinh tế.
2.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính lịch sử, xã hội nhất định.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể các mối quan hệ kinh tế được xác lập theo những tỷ lệ nhất định về mặt lượng trong thời gian cụ thể. Tại thời điểm đó, do những điều kiện cụ thể về kinh tế, xã hội và tự nhiên, các tỷ lệ đó được hình thành và xác lập theo một cơ cấu kinh tế nhất định. Song một khi có những biến đổi trong các điều kiện nói trên thì lập tức các mối quan hệ này cũng thay đổi và hình thành một cơ cấu kinh tế mới thích hợp hơn. Tuỳ hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mỗi vùng, mỗi quốc gia mà xác định cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Không thể có cơ cấu kinh tế mẫu làm chuẩn mực cho mọi vùng nông thôn.
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng vân động, phát triển và chuyển hoá từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới đòi hỏi phải có một thời gian và phải qua những bước phát triển tích luỹ nhất định về lượng, rồi đến một độ nhất định nào đó sẽ tất yếu dẫn đến sự biến đổi về chất. Đó là quá trình từng bước chuyển hoá dần từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới hoàn thiện và hiệu quả hơn.
Quá trình chuyển dịch từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự tác động của con người có ý nghĩa quan trọng thông qua các giải pháp, các cơ chế chính sách quản lý thích ứng để định hướng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự nóng vội hay bảo thủ, trì trệ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đều gây tác hại đến việc phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình tất yếu. Nhưng quá trình đó không phải là quá trình vận động tự phát, mà con người cần phải có tác động để thúc đẩy quá trình chuyển dịch này nhanh và hiệu quả hơn. Trên cơ sở nhận thức và nắm bắt được quy luật vận động khách quan, con người tìm và đưa ra các biện pháp đúng đắn tác động để làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn đúng mục tiêu và định hướng đã vạch ra.
3. Những nhân tố ảnh hướng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH - HĐH.
Xét về lô gíc và lịch sử, cơ sở khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được thể hiện ở sư biến động của các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế. Điều đó được biểu hiện cụ thể như sau:
3.1. Sự phát triển của khoa học - công nghệ.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ là một trong các nhân tố chủ yếu tạo những điều kiện tiền đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng.
Thật vậy, sự phát triển của khoa học và công nghệ là yếu tố quan trọng và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Bởi vì, sự phát triển của khoa học và công nghệ không những làm thay đổi các công cụ sản xuất theo hướng hiện đại, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, mà nó còn làm thay đổi phương thức lao động, tạo khả năng đổi mới những nguyên tắc và công nghệ sản xuất trong các ngành kinh tế. Từ đó làm cho năng suất lao động ngày càng tăng cao, tạo khả năng mở rộng sản xuất của các ngành truyền thống, cũng như sự hình thành các ngành mới, đó chính là sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng dưới sự tác động của khoa học và công nghệ.
Trong nông nghiệp, nông thôn khoa học kỹ thuật đã có những tác động mạnh mẽ về cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, cách mạng về sinh học. Từ đó hàng loạt giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao và hiệu quả kinh tế lớn từng bước được đưa vào sản xuất. Nhu cầu của xã hội về nông sản, trước hết là lương thực đã được đáp ứng. Nhờ đó, nông nghiệp có thể rút bớt các điều kiện sang sản xuất các ngành trồng trọt với giá trị sử dụng và giá trị kinh tế cao (các ngành trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu và cây sinh vật cảnh), các ngành chăn nuôi cũng như các ngành kinh tế khác của khu vực nông thôn (công nghiệp và dịch vụ nông thôn). Có thể nói sự phát triển của khoa học và công nghệ đã tạo những điều kiện tiền đề cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó có cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Sự phát triển của nông nghiệp nhờ sự tác động của khoa học và công nghệ đã tạo ra những ngành mới trong nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp đến lượt nó sẽ tạo những điều kiện cho khoa học và công nghệ phát triển. Nền sản xuất xã hội và kinh tế nông nghiệp, nông thôn từng bước phát triển và chuyển dịch theo những hướng vận động mang tính quy luật. Do đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là kết quả tất yếu của quá trình phát triển khoa học. Khi xác định được một cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo điều kiện đầu tư, phát triển khoa học- công nghệ, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Vấn đề là ở chỗ, đối với các nước kém phát triển làm sao đưa được tiến bộ khoa học- công nghệ vào nông nghiệp khi hầu hết nông dân đều có trình độ văn hoá thấp, cơ sở hạ tầng thấp kém, thiếu vốn, trình độ và tập quán canh tác lạc hậu. Lời giải không phải chỉ riêng ở người nông dân, mà cả cộng đồng xã hội, trước hết là vai trò quản lý Nhà nước về kinh tế của chính quyền các cấp.
3.2. Quá trình phân công lao động theo hướng chuyên môn hoá.
Xuất phát từ sự ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất, năng suất lao động nông nghiệp, nhất là năng suất lao động sản xuất lương thực tăng lên không ngừng, khi đạt đến một mức độ nhất định đảm bảo đủ nhu cầu lương thực cho xã hội thì có sự phân công giữa những người sản xuất lương thực với những người chăn nuôi, sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp... tạo nên sự phân công lao động giữa những người làm nông nghiệp và những người làm nghề khác. Các-Mác đã khẳng định rằng do tổ chức quá trình lao động và phát triển kỹ thuật một cách mạnh mẽ mà làm đảo lộn toàn bộ cơ cấu kinh tế xã hội.
Phân công lao động có tác dụng to lớn, là đòn bẩy tăng năng suất lao động, thúc đẩy quá trình phát triển khoa học - công nghệ. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là hệ quả trực tiếp của sự phân công lao động xã hội trong nông nghiệp, nông thôn, nhiều ngành nghề hình thành, tính chất chuyên môn hoá càng cao, xoá dần tư tưởng tự cấp, tự túc, tiến lên sản xuất hàng hoá. Từ sản xuất để nuôi sống bản thân và gia đình mình, người nông dân đã chuyển sang sản xuất hàng hoá để bán. Vì mục đích lợi nhuận, họ phải suy nghĩ, nghiên cứu từng loại giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật canh tác, lợi dụng các điều kiện thuận lợi và né tránh sự khắc nghiệt, bất lợi của thiên nhiên.
3.3. Tác động của cơ chế thi trường và sự mở rộng thi trường.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn hình thành và biến đổi gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Lượng dân cư lớn ở nông thôn đã tạo ra một thị trường sôi động và các hàng hoá nông sản có giá tri kinh tế cao rất gần gũi và quen thuộc với đời sống hàng ngày của con người. Nếu mức thu nhập của nhân dân cao tạo sức mua lớn thì thị trường nông thôn là cơ sở đảm bảo chắc chắn để các khu vực công nghiệp và dịch vụ tiếp tục có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Từ xa xưa đã có thị trường nông thôn, song thị trường đó chỉ có tác dụng điều tiết sản xuất ở quy mô nhỏ và mang tính tự cung, tự cấp. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã thay đổi đời sống của đa số nhân dân lao động. Thị trường là nhân tố và động lực chính quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiêp, nông thôn phát triển.
3.4. Định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước.
Bất kỳ Nhà nước nào đều có chức năng kinh tế, tuy nhiên vai trò của Nhà nước đối với kinh tế trong các xã hội khác nhau và các thời kỳ khác nhau hoàn toàn không giống nhau. Trong cơ chế thị trường Nhà nước trở thành trung tâm hướng dẫn, điều khiển kinh tế phát triển theo những mục tiêu xác định. Để thực hiện các chức năng kinh tế, Nhà nước sử dụng các công cụ bao gồm: Pháp luật, kế hoạch hoá, chính sách kinh tế và thực lực kinh tế của nhà nước.
Định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước có vai trò to lớn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước tác động vào nông nghiệp, nông thôn trước hết thông qua hệ thống kế hoạch định hướng, điều tiết nền kinh tế theo mục tiêu xác định trong từng thời kỳ. Chính sách kinh tế có vai trò cực kỳ quan trọng tác động trực tiếp vào môi trường sản xuất kinh doanh ở nông thôn. Có chính sách kinh tế đúng, phù hợp, kịp thời nhất là các chính sách về tài chính, tiền tệ, tín dụng, thuế, ruộng đất, các thành phần kinh tế sẽ trở thành những động lực kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển. Tuy nhiên, các biện pháp quản lý kinh tế không thể tách rời thực lực kinh tế của Nhà nước. Với ngân sách quốc gia, dự trữ quốc gia, kho bạc Nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước là cơ sở vật chất quan trọng để Nhà nước tác động, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
3.5. Điều kiện kinh tế- xã hội.
Điều kiện kinh tế- xã hội là một tiền đề quan trọng hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trước hết, về mặt địa lý đây là điều kiện tự nhiên vốn có để hình thành cơ cấu ngành. Vùng nông thôn ven đô thị có điều kiện thuận lợi để hình thành vùng sản xuất rau quả, chế biến nông sản, thương mại. Vùng nông thôn ven biển thuận lợi để phát triển cây công nghiệp, lâm nghiệp, du lịch sinh thái, trong đó thuận lợi về đất đai để phát triển loại hình kinh tế trang trại.
Điều kiện về dân cư, truyền thống, tập quán cũng là các yếu tố khách quan cấu thành quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Các vùng nông thôn có trình độ tương đối khá, có truyền thống về các làng nghề, tập quán sản xuất canh tác tiến bộ dễ tiếp thu khoa học - kỹ thuật thì thuận lợi hơn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghệp, nông thôn, có điều kiện đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Ngược lại, vùng đồng bào dân tộc ít người với trình độ văn hoá thấp, truyền thống tập quán canh tác lạc hậu có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, dù có sự hỗ trợ, đầu tư rất lớn của Nhà nước thì cũng chỉ phát triển trong một chừng mực nào đó, không thể đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong khu vực này.
4. Những quan điểm của Đảng khi thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH là quá trình biến đổi nền kinh tế cơ cấu chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công - nông nghiệp và dịch vụ hiện đại. Quá trình đó sẽ làm cho nền kinh tế nước ta tăng nhanh tốc độ và tăng tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế. Chúng ta tiến hành CNH - HĐH trong diện 80% dân số và 70% lao động sống ở nông thôn thì nhiệm vụ CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn là một vấn đề lớn cần quan tâm.
Vì vậy, Đảng ta có những quan điểm lớn khi thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng như sau:
Thứ nhất: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phù hợp mô hình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Điều đó có nghĩa là trước hết phải tạo ra tỷ suất hàng hoá lớn, khắc phục tình trạng tự cung, tự cấp, khép kín. Đó là một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thứ hai: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát huy tốt hơn sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác tốt sức mạnh của của mọi thành phần kinh tế tự nguyện, phấn khởi đi vào sản xuất kinh doanh, các thành phần kinh tế đều lấy mục đích sinh lợi của mình, đồng thời cũng vì mục tiêu:" Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh theo hướng CNH - HĐH.doc