Đề tài Đánh giá ứng dung công nghệ thông tin trong nhà trường phổ thông và ứng dụng phần mềm Emptest trong kiểm tra đánh giá môn tin học 10

Trắc nghiệm theo nghĩa rộng là một hoạt động được thực hiện để đo lường năng lực của các đối tượng nào đó nhằm những mục đích xác định. Trong giáo dục trắc nghiệm được tiến hành thường xuyên ở các kỳ thi, kiểm tra để đánh giá kết quả học tập, giảng dạy đối với một phần của môn học, toàn bộ môn học, đối với cả một cấp học; hoặc để tuyển chọn một số người có năng lực nhất vào học một khoá học.

Có thể phân chia các phương pháp trắc nghiệm ra làm 3 loại:

1. Loại quan sát: giúp xác định những thái độ, những phản ứng vô ý thức, những kỹ năng thực hành và một số kỹ năng về nhận thức, chẳng hạn cách giải quyết vấn đề trong một tình huống đang được nghiên cứu.

2. Loại vấn đáp: có tác dụng tốt khi nêu các câu hỏi phát sinh trong một tình huống cần kiểm tra. Trắc nghiệm vấn đáp thường được dùng khi tương tác giữa người chấm và người học là quan trọng, chẳng hạn cần xác định thái độ phản ứng khi phỏng vấn

3. Loại viết: thường được sử dụng nhiều nhất vì nó có những ưu điểm sau:

- Cho phép kiểm tra nhiều thí sinh một lúc

- Cho phép thí sinh cân nhắc nhiều hơn khi trả lời

- Đánh giá được một vài loại tư duy ở mức độ cao

- Cung cấp bản ghi rõ ràng các câu trả lời của thí sinh để dùng khi chấm

- Dễ quản lý hơn vì bản thân người chấm không tham gia vào bối cảnh kiểm tra.

Trắc nghiệm viết được chia thành 2 nhóm chính:

- Nhóm các câu hỏi trắc nghiệm buộc trả lời theo dạng mở, thí sinh phải tự trình bày ý kiến trong một bài viết dài để giải quyết vấn đề mà câu hỏi nêu ra. Người ta gọi trắc nghiệm theo kiểu này là kiểu tự luận (essay). Phương pháp tự luận rất quen biết với mọi người chúng ta.

- Nhóm các câu trắc nghiệm mà trong đó đề thi thường gồm rất nhiều câu hỏi, mỗi câu nêu ra một vấn đề cùng với những thông tin cần thiết sao cho thí sinh chỉ phải trả lời vắn tắt cho từng câu. Người ta thường gọi nhóm phương pháp này là trắc nghiệm khách quan (objective test).

 

doc33 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 2037 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá ứng dung công nghệ thông tin trong nhà trường phổ thông và ứng dụng phần mềm Emptest trong kiểm tra đánh giá môn tin học 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất lượng của quá trình đào tạo, mặt khác nó tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với quá trình đào tạo, phương pháp đào tạo, thái độ học tập và giảng dạy; đảm bảo sự nghiêm túc kết quả, công bằng, khách quan, tạo mối quan hệ đúng đắn giữa thầy và trò, tạo điều kiện để công tác quản lý đào tạo có hiệu quả. Như vậy, đổi mới kiểm tra-đánh giá sẽ có tác động tới quá trình dạy học. - Vai trò: Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy học, thông qua kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh giúp cho giáo viên thu được những thông tin ngược từ học sinh, phát hiện thực trạng kết quả học tập của học sinh cũng như những nguyên nhân cơ bản dẫn tới thực trạng kết quả đó. Đó là cơ sở thực tế để giáo viên điều chỉnh, hoàn thiện hoạt động học của học sinh và hướng dẫn học sinh tự điều chỉnh, tự hoàn thiện hoạt động học của bản thân. Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một bộ phận hợp thành rất quan trọng và tất yếu của toàn bộ quá trình dạy học. Kết quả toàn bộ quá trình dạy học ở một mức độ quan trọng phụ thuộc vào việc tổ chức kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh một cách đúng đắn. Công tác đánh giá trong dạy học-giáo dục là một việc làm phức tạp, bởi lẽ kết quả cuối cùng là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố tác động. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh vừa đóng vai trò bánh lái, vừa giữ vai trò động lực của dạy học. Nó định hướng, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động dạy học và hoạt động quản lý giáo dục. Kiểm tra đánh giá có tác động đến việc canh tân trong đào tạo. G.K.Miler đã khẳng định:“Thay đổi một chương trình hoặc những kỹ thuật giảng dạy mà không thay đổi hệ thống đánh giá, chắc chắn là chẳng đi tới đâu! Thay đổi hệ thống đánh giá mà không thay đổi chương trình giảng dạy, có thể có một tiếng vang đến chất lượng học tập hơn là một sự sửa đổi chương trình mà không sờ đến kiểm tra, đánh giá, thi cử. ” Trong mọi sự đánh giá, vai trò hàng đầu của kiểm tra, đánh giá là giúp thực hiện được quyết định cho điểm, cho lên lớp. Vì quá trình đánh giá cung cấp những cơ sở cho một sự phán xét về giá trị. Sự phán xét này cho phép giáo viên ra được những quyết định sư phạm tốt nhất. Kiểm tra, đánh giá không chỉ đóng vai trò kích thích mà còn đóng vai trò dạy học. Kiểm tra, đánh giá là nhiệm vụ cần thiết nhất để tổ chức quá trình dạy học, điều chỉnh quá trình dạy học, cũng như giúp chọn lựa những phương pháp làm việc và tính chất tài liệu học tập, phân hóa bài tập một cách hợp lý đối với học sinh. Kiểm tra, đánh giá không những là một nhân tố dạy học mà còn là một nhân tố kích thích. Hai yêu cầu này liên quan mật thiết với nhau: Nếu đánh giá mà không kích thích học sinh học tập thì nó chỉ là nhân tố dạy học đơn thuần và ngược lại nếu vai trò dạy học mất đi hay bị lu mờ thì tất yếu điều đó sẽ được phản ánh lên tác dụng của đánh giá. Đánh giá càng chính xác bao nhiêu, thì càng giúp giáo viên trong việc cải tiến, hoàn thiện được nội dung đào tạo, quy định chính xác tài liệu, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học thích hợp bấy nhiêu. Vai trò của kiểm tra đánh giá có thể được tóm lược thông qua từng đối tượng cụ thể như sau: - Đối với học sinh: Kiểm tra và đánh giá giúp cung cấp những thông tin “ liên hệ ngược trong”, giúp người học tự điều chỉnh hoạt động học. Qua kiểm tra, đánh giá người học tự thấy mình đã tiếp thu những điều đã học đến mức nào, có những lỗ hổng nào cần phải bổ khuyết trước khi bước vào một phần mới của chương trình học tập. Cũng qua kiểm tra đánh giá học sinh còn có cơ hội thể hiện, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ như: ghi nhớ, tái hiện, chính xác hóa, phân tích, tổng hợp,…Kiểm tra và đánh giá còn tạo động cơ khuyến khích học sinh phát huy tinh thần học tập, tự học và nâng cao ý thức tự giác, tổ chức, kỷ luật. Học sinh sẽ so sánh kết quả của các bạn và thi đua học tập với bạn bè, đề ra phương hướng phấn đấu, ý chí vươn lên đạt kết quả học tập cao hơn. - Đối với giáo viên: Kiểm tra và đánh giá cung cấp cho giáo viên những thông tin “liên hệ ngược ngoài” giúp người dạy điều chỉnh hoạt động dạy. Việc kiểm tra, đánh giá được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc cung cấp cho giáo viên những thông tin về trình độ chung của cả tập thể học sinh và giúp giáo viên đánh giá chính xác năng lực học tập và nhận thức của từng cá nhân học sinh để kịp thời có biện pháp giúp đỡ, bồi dưỡng thích hợp. Kết quả bài kiểm tra của học sinh còn là cơ sở để dựa vào đó giáo viên có thể phân loại kết quả học tập của học sinh trong lớp. - Đối với các cấp quản lý: Kiểm tra đánh giá cung cấp những thông tin cơ bản về thực trạng dạy và học để có thể có những chỉ đạo kịp thời, uốn nắn những lệch lạc, khuyến khích và hỗ trợ những sáng kiến hay, đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu giáo dục. Kiểm tra, đánh giá cũng giúp cho các cơ quan quản lý đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo để cấp phát chứng chỉ, văn bằng được chính xác và có những biện pháp quản lý giáo dục thích hợp. - Chức năng: Kiểm tra và đánh giá có những chức năng sau: + Chức năng định hướng: Đánh giá nhằm phân tích các phương tiện vật chất và định ra một kế hoạch lý tưởng về tiến trình của hành động. Đây là đánh giá chẩn đoán hay đánh giá dự báo; Kiểm tra-đánh giá để dự báo khả năng của học sinh- trình độ đạt tới những chỉ tiêu trong quá trình học tập đồng thời xác định những điểm mạnh yếu của học sinh. Việc kiểm tra-đánh giá cũng làm cơ sở cho việc lựa chọn bồi dưỡng năng khiếu, đồng thời giúp giáo viên có thể chọn cách dạy phù hợp với khả năng học tập của học sinh và học sinh có thể lựa chọn con đường học tập, phương pháp, tài liệu, các hình thức học tập… phù hợp + Chức năng điều chỉnh: Đánh giá là khâu quan trọng nhằm tác động ngược trong thời điểm hiện thực. Đây là đánh giá uốn nắn; Kiểm tra-đánh giá nhằm hỗ trợ việc học tập. Chức năng này đòi hỏi phải có cách xử lý thông tin để vừa thâu tóm được các thời diểm khác nhau của quá trình học tập, vừa có tính chất thúc đẩy củng cố, mở rộng và nâng cao chất lượng tri thức. Kiểm tra-đánh giá chẩn đoán được tiến hành thường xuyên, cung cấp cho người học những tín hiệu ngược về học tập, từ đó khắc phục những thiếu sót, điều chỉnh cách học cho phù hợp. + Chức năng xác nhận hay xếp loại: Đây là chức năng đánh giá tổng hợp. Khi thực hiện chức năng này cần xác định rõ mục tiêu cuối cùng mà ta nhằm tới. Mục tiêu này phải có ý nghĩa đối với cá nhân cũng như đối với toàn xã hội. Ngoài ra, Trình độ mong muốn phải được đánh giá trong những điều kiện xem xét càng gần điều kiện thực tế càng tốt. đánh giá xác nhận cung cấp những số liệu để thừa nhận hay bác bỏ sự hoàn thành hay chưa hoàn thành khoá học, chương trình học hoặc môn học để đi đến quyết định là cấp chứng chỉ, cấp bằng hoặc cho lên lớp… hoặc nhằm xếp loại người học theo mục đích nào đó, thường được tiến hành sau một giai đoạn học tập. Chức năng này có ý nghĩa xã hội quan trọng. Đánh giá góp phần xác nhận sự bộc lộ tính hiệu quả của hệ thống đào tạo. - Các hình thức kiểm tra đánh giá Kiểm tra đánh giá có thể sử dụng những hình thức sau: + Theo câu hỏi: Giáo viên có thể sử dụng câu hỏi vấn đáp để kiểm tra, đánh giá-Đây là một hình thức kiểm tra vừa có hiệu quả vừa nhanh và linh hoạt, toàn diện. + Kiểm tra viết theo yêu cầu của giáo viên: Kiểm tra chủ quan này thường kiểm tra sâu một lĩnh vực không những về kiến thức mà còn kiểm tra cả kĩ năng viết, theo cách trình bày tự do qua đó xem cấu trúc có chặt chẽ không, ý tứ sắp xếp có logic không, tình cảm có chân thật không hoặc những sự kiện, thuật ngữ…nêu ra có chính xác không. Kiểm tra viết đánh giá ổn định hơn vì có văn bản rõ ràng. + Kiểm tra thực hành: Qua một bài tập, một tình huống học sinh vận dụng những kiến thức đã học vào những công việc thực tế-đây là mục đích cuối cùng của việc học tập và cũng là mục đích của việc đánh giá. 2.2. Định hướng đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá 2.2.1. Thực trạng của việc kiểm tra đánh giá hiện nay ở các trường phổ thông Qua nghiên cứu thực trạng em thấy trong nhà trường phổ thông của chúng ta, việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh chưa được chú ý một cách đúng mức. Một số giáo viên còn thể hiện những thiếu sót về cả tổ chức, quy trình, phương pháp lẫn nội dung kiểm tra. Giáo viên giảng dạy thường cho các đề thi có nội dung câu hỏi chủ yếu nằm trong sách giáo khoa, hoặc đã giảng trên lớp, rất ít có các câu hỏi kiểm tra trong phần tự học ở nhà đòi hỏi sự sáng tạo của học sinh. Các đề kiểm tra, đề thi được đưa ra dựa trên kinh nghiệm cá nhân, thiếu cơ sở lý luận về mục tiêu, phương pháp kiểm tra đánh giá. Những thiếu sót trên phần lớn do giáo viên không hiểu đầy đủ chức năng của việc kiểm tra đánh giá: khi thì đánh giá quá cao vai trò và vị trí của nó trong quá trình học tập, thậm chí biến thành yếu tố nhằm đe dọa học sinh… khi thì xem nhẹ và buông lỏng công tác kiểm tra, đánh giá làm cho khâu này mất tác dụng. Câu hỏi kiểm tra chủ yếu dùng tự luận, hình thức này phần nào đã đánh giá được kết quả học tập của trò và phương pháp dạy của thầy, song trong giai đoạn hiện nay nó đã bộc lộ một số hạn chế như: - Do thời gian làm bài kiểm tra hạn chế trong 15 phút, 45 phút hay 90 phút nên mỗi bài kiểm tra viết bằng hình thức tự luận chỉ tập trung vào một số kiến thức trọng tâm, không bao quát rộng. Cũng do đó, học sinh có thể đoán được và chỉ học tủ một số vấn đề và các kiến thức khác bỏ qua. Trong quá trình làm bài học sinh có thể quay cóp, sử dụng tài liệu, trao đổi,… - Đề kiểm tra không bao trùm được nội dung học bài, phụ thuộc vào giáo viên ra đề nên độ tin cậy không cao. - Việc đánh giá bài làm của học sinh phụ thuộc vào người chấm, mất nhiều thời gian, đôi khi gây cảm giác nặng nề cho giáo viên. - Kết quả khó xác định đúng trình độ học tập của học sinh do chưa xác định được các chuẩn mực mới để đánh giá kết quả học tập của học sinh. - Cách tổ chức kiểm tra đánh giá phức tạp, tốn kém nhất là trong các kỳ thi lớn như thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển sinh vào các trường Đại học, Cao đẳng. Vừa qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thi trắc nghiệm khách quan cho kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học, Cao đẳng đối với một số môn . Tuy nhiên, ngoài tài liệu hướng dẫn học sinh cách làm bài thi trắc nghiệm, hướng dẫn giáo viên cách coi thi và thu bài thi giáo viên không được hướng dẫn gì thêm. Cho nên hình thức kiểm tra đánh giá này vẫn còn xa lạ đối với học sinh và cả giáo viên do bởi những lí do sau đây: - Đa số các trường Trung học phổ thông chưa có phần mềm soạn thảo, chấm điểm và đánh giá hệ thống câu hỏi trắc nghiệm. - Việc sử dụng hệ thống kiểm tra bằng phương pháp trắc nghiệm chỉ được nhà trường khuyến khích giáo viên sử dụng dưới góc độ thử nghiệm. - Các tổ bộ môn chưa có kế hoạch xây dựng ngân hàng đề thi trắc nghiệm khách quan cho bộ môn mình giảng dạy. - Đa số giáo viên chưa nắm được cách thức xây dựng một bài kiểm tra bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan, cách đánh giá một câu hỏi trắc nghiệm theo độ tin cậy và độ phân biệt. - Học sinh còn ít được kiểm tra đánh giá bằng hình thức trắc nghiệm khách quan nên chưa có kỹ năng làm bài thi trắc nghiệm. 2.2.2. Tại sao phải đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá? Hiện nay, việc kiểm tra và đánh giá ở các trường phổ thông còn chưa được coi trọng và bị phê phán là thiếu chính xác, không đủ độ tin cậy và làm sai lệch chất lượng giáo dục. Trong tình hình đó vấn đề đổi mới trong đánh giá chất lượng dạy và học đang được quan tâm và cần được nghiên cứu. Đổi mới phương pháp đánh giá là khâu quan trọng trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, bởi lẽ dạy học là một qua trình bao gồm các khâu cơ bản như: Thiết kế bài giảng, thực hiện bài giảng và kiểm tra đánh giá. Đổi mới phương pháp dạy học với mục tiêu là nhằm nâng cao chất lượng dạy học, trong đó đổi mới kiểm tra đánh giá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả của đổi mới dạy học nói chung, do đó phương pháp kiểm tra đánh giá cũng cần phải đổi mới. 2.2.3. Định hướng đổi mới kiểm tra đánh giá - Định hướng chung: Đổi mới phương pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những yêu cầu mới của mục tiêu nên việc kiểm tra, đánh giá phải chuyển biển mạnh theo hướng phát triển trí thông minh sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức, kỹ năng đã học vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của học sinh trước những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học tập thụ động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực. Thống nhất với quan điểm đổi mới đánh giá như trên, việc kiểm tra, đánh giá sẽ hướng vào việc bám sát mục tiêu của từng bài, từng chương và mục tiêu giáo dục môn học ở từng lớp cấp. Các câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ thực hiện các mục tiêu đã được xác định. Hướng tới yêu cầu kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan kết quả học tập của học sinh, bộ công cụ đánh giá đuợc bổ sung các hình thức đánh giá khác như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm, chú ý hơn tới đánh giá cả quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực, chủ động của học sinh trong từng tiết học, kể cả ở tiết tiếp thu tri thức mới lẫn tiết thực hành, thí nghiệm. Điều này đòi hỏi giáo viên bộ môn đầu tư nhiều công sức hơn cũng như công tâm hơn. Lãnh đạo nhà trường cần quan tâm và giám sát hoạt động này. Hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá cũng cần thể hiện sự phân hóa, đảm bảo 70% câu hỏi bài tập đo được mức độ đạt trình độ chuẩn-mặt bằng về nội dung học vấn dành cho mọi học sinh THPT và 30% còn lại phản ánh mức độ nâng cao, dành cho học sinh có năng lực trí tụệ và thực hành cao hơn. - Định hướng riêng đối với môn Tin học: Riêng đối với môn Tin việc kiểm tra đánh giá bao gồm cả lý thuyết và thực hành, hình thức có thể là tự luận hoặc trắc nghiệm, kiểm tra vấn đáp, trên giấy hoặc trên máy. Nội dung môn Tin học rất thuận lợi cho ra đề kiểm tra trắc nghiệm, cần tăng cường sử dụng phương pháp kiểm tra trắc nghiệm để có thể kiểm tra phạm vi kiến thức rộng và để tiết kiệm thời gian. Việc kiểm tra, đánh giá không chỉ thực hiện để nhằm lấy điểm vào sổ điểm cho học sinh, mà quan trọng hơn nữa là cung cấp thông tin phản hồi để điều chỉnh quá trình dạy học, nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học. Đặc điểm khá đặc trưng của môn Tin học là kiến thức đi đôi với thực hành, kiểm tra kiến thức có lẽ đã quen thuộc đối với người giáo viên, còn kiểm tra thực hành ở khía cạnh nào đó còn chưa quen. Không nên lạm dụng máy vi tính trong kiểm tra, cần phân biệt bài tập và thực hành. Do điều kiện hạn chế về máy vi tính nên chỉ kiểm tra những kĩ năng mà không thể kiểm tra được nếu không có máy vi tính (ví dụ: nếu muốn kiểm tra kĩ năng gõ bàn phím 10 ngón ). Cũng xin lưu ý là có những phần kiểm tra lại không nên thực hiện trên máy vi tính, ví dụ: nếu muốn kiểm tra học sinh về quy tắc đặt tên tệp của hệ điều hành, hoặc tên biến trong ngôn ngữ lập trình, và sử dụng trắc nghiệm đặt tên tệp đúng hoặc tên biến đúng, nếu thực hiện trên máy vi tính học sinh có thể chỉ cần gõ vào máy vi tính và căn cứ vào thông báo của máy tính để chọn đáp án mà không cần biết tại sao. Tin học là môn học mới đưa vào chương trình học phổ thông và có những đặc thù riêng như liên quan chặt chẽ với sử dụng máy tính, cách suy nghĩ và giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ, coi trọng làm việc theo nhóm…Vì vậy, có thể đánh giá học sinh thông qua : - Mức độ nắm vững kiến thức cơ bản: có thể thực hiện thông qua bài kiểm tra trắc nghiệm hoặc tự luận. - Khả năng sử dụng máy tính và ứng dụng phần mềm: có thể thực hiện bằng bài kiểm tra thực hành ( trên máy vi tính hoặc trên giấy). - Khả năng giải quyết vấn đề thể hiện qua khả năng biết đề xuất phương hướng giải quyết và biết lựa chọn công cụ thích hợp để giải quyết: có thể thực hiện bằng việc giao vấn đề hoặc bài tập lớn. - Khả năng làm việc theo nhóm: có thể giao nhiệm vụ, chủ đề, đề án nhỏ. - Cần lưu ý đến việc tự đánh giá hoặc học sinh tự đánh giá với nhau. 2.3. Kiểm tra đánh giá bằng hình thức trắc nghiệm 2.3.1. Giới thiệu các loại hình thi trắc nghiệm Trắc nghiệm theo nghĩa rộng là một hoạt động được thực hiện để đo lường năng lực của các đối tượng nào đó nhằm những mục đích xác định. Trong giáo dục trắc nghiệm được tiến hành thường xuyên ở các kỳ thi, kiểm tra để đánh giá kết quả học tập, giảng dạy đối với một phần của môn học, toàn bộ môn học, đối với cả một cấp học; hoặc để tuyển chọn một số người có năng lực nhất vào học một khoá học. Có thể phân chia các phương pháp trắc nghiệm ra làm 3 loại: Loại quan sát: giúp xác định những thái độ, những phản ứng vô ý thức, những kỹ năng thực hành và một số kỹ năng về nhận thức, chẳng hạn cách giải quyết vấn đề trong một tình huống đang được nghiên cứu. Loại vấn đáp: có tác dụng tốt khi nêu các câu hỏi phát sinh trong một tình huống cần kiểm tra. Trắc nghiệm vấn đáp thường được dùng khi tương tác giữa người chấm và người học là quan trọng, chẳng hạn cần xác định thái độ phản ứng khi phỏng vấn… Loại viết: thường được sử dụng nhiều nhất vì nó có những ưu điểm sau: - Cho phép kiểm tra nhiều thí sinh một lúc - Cho phép thí sinh cân nhắc nhiều hơn khi trả lời - Đánh giá được một vài loại tư duy ở mức độ cao - Cung cấp bản ghi rõ ràng các câu trả lời của thí sinh để dùng khi chấm - Dễ quản lý hơn vì bản thân người chấm không tham gia vào bối cảnh kiểm tra. Trắc nghiệm viết được chia thành 2 nhóm chính: - Nhóm các câu hỏi trắc nghiệm buộc trả lời theo dạng mở, thí sinh phải tự trình bày ý kiến trong một bài viết dài để giải quyết vấn đề mà câu hỏi nêu ra. Người ta gọi trắc nghiệm theo kiểu này là kiểu tự luận (essay). Phương pháp tự luận rất quen biết với mọi người chúng ta. - Nhóm các câu trắc nghiệm mà trong đó đề thi thường gồm rất nhiều câu hỏi, mỗi câu nêu ra một vấn đề cùng với những thông tin cần thiết sao cho thí sinh chỉ phải trả lời vắn tắt cho từng câu. Người ta thường gọi nhóm phương pháp này là trắc nghiệm khách quan (objective test). Ta có sơ đồ về các phương pháp trắc nghiệm như sau: 2.3.2. Đặc điểm chung Đặc điểm chung của trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan là: Đều có thể đo lường hầu hết mọi thành quả học tập của học tập quan trọng mà một bài khảo sát bằng lối viết có thể khảo sát được. Tất cả đều có thể được sử dụng để khuyến khích học sinh học tập chăm chỉ nhằm đạt đến các mục tiêu, hiểu biết các nguyên lý, tổ chức và phối hợp các ý tưởng, ứng dụng các kiến thức trong việc giải quyết các vấn đề. 2.3.3. Đặc điểm riêng Cả 2 loại trắc nghiệm đều đòi hỏi sự vận dụng ít nhiều phán đoán chủ quan. Giá trị của cả hai loại trắc nghiệm phụ thuộc vào tính khách quan và đáng tin cậy của chúng. Tuy nhiên, chúng có những điểm khác nhau như sau: Trắc nghiệm tự luận Trắc nghiệm khách quan 1. Một câu hỏi thuộc loại tự luận đòi hỏi thí sinh tự mình soạn câu trả lời và diễn tả nó bằng ngôn ngữ của chính mình. Một câu hỏi trắc nghiệm khách quan buộc thí sinh phải lựa chọn câu trả lời đúng nhất trong một số câu hỏi đã cho sẵn. 2. Một bài kiểm tra tự luận gồm số câu hỏi tương đối ít và có tính cách tổng quát, đòi hỏi thí sinh phải triển khai câu trả lời bằng lời lẽ dài dòng. Một bài kiểm tra trắc nghiệm thường gồm những câu hỏi có tính chất chuyên biệt và chỉ đòi hỏi những câu trả lời ngắn gọn. 3. Khi làm một bài tự luận thí sinh phải bỏ ra nhiều thời gian để suy nghĩ và viết câu trả lời. Khi làm một bài trắc nghiệm thí sinh chỉ dùng thời gian để đọc và suy nghĩ mà không tốn thời gian trình bày câu trả lời. 4. Kết quả của bài tự luận được xác định nhiều do người chấm. Chất lượng của bài trắc nghiệm được xác định một phần do kĩ năng soạn thảo bộ câu hỏi. 5. Một bài tự luận tương đối dễ soạn nhưng khó chấm và khó cho điểm chính xác. Một bài trắc nghiệm khó soạn đề nhưng việc chấm và cho điểm tương đối dễ dàng hơn. 6. Với tự luận thí sinh có thể tự do bộc lộ cá tính của mình trong câu trả lời và người chấm bài cũng có tự do cho điểm các câu trả lời theo xu hướng của mình. Với một bài trắc nghiệm người soạn thảo có thể tự do bộc lộ kiến thức và các giá trị của mình thông qua việc đặt câu hỏi và các phương pháp trả lời, nhưng thí sinh chỉ được chứng tỏ mức độ hiểu biết của mình qua tỉ lệ câu trả lời đúng. 2.3.4. Phương pháp trắc nghiệm khách quan 2.3.4.1. Lịch sử nghiên cứu trắc nghiệm khách quan a. Lịch sử nghiên cứu trắc nghiệm khách quan trên thế giới Theo Trần Trọng Thúy (2003), từ những năm 2000 trước Công Nguyên, người Trung Hoa đã dùng trắc nghiệm trí tuệ để chọn người hầu, thê thiếp. Theo Question stodola, kaneer stardahl (1967) và Nguyễn Phụng Hoàng, Võ Ngọc Lan (1996), các phương pháp đo lường và trắc nghiệm đầu tiên được tiến hành vào thế kỷ XVII-XVIII ở khoa Vật lý-Tâm lý và sau đó lan dần sang ngành động học, phòng thí nghiệm tâm lý đầu tiên được Wichelm Weent thành lập tại Leipzig (Đức) năm 1879. Ở Mỹ, ngay từ năm 1926-1931 đã có một số nhà sư phạm ở Matxcơva, Lêningrat thử nghiệm dùng trắc nghiệm để thăm dò đặc điểm tâm lý cá nhân và kiểm tra kiến thức của học sinh. Năm 1963, xuất hiện công trình của Gedevik dùng máy tính điện tử xử lý các kết quả trắc nghiệm trên diện rộng. Ở Anh, cũng năm 1963 đã có hội đồng hoàng gia hàng năm quyết định các trắc nghiệm chuẩn cho trường trung học. Từ 1963, ở Liên Xô (cũ) việc nghiên cứu kết quả của phương pháp trắc nghiệm đã trở thành một đề tài lớn của viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Năm 1964, khi K.M.Pancheshnicova, V.A.Korinskaja ứng dụng phương pháp kiểm tra trắc nghiệm đối với môn Địa Lý lớp 6, 7, 8 đã cho rằng kiểm tra trắc nghiệm là một phương pháp kiểm tra đáp ứng được các yêu cầu: mất ít thời gian, kiểm tra được nhiều mặt khác nhau như: kỹ năng, kỹ xảo và lượng kiến thức rộng và lớn. Năm 1965, K.A.Karamjanskaja dùng trắc nghiệm để kiểm tra kiến thức hình học không gian cho học sinh lớp 9, 10. Hiện nay, ở hầu khắp các nước trên thế giới đã sử dụng phương pháp trắc nghiệm vào kiểm tra đánh giá trên nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng. Liên tục có các cuộc hội thảo, trao đổi về lĩnh vực này, các khóa huấn luyện cung cấp những hiểu biết cơ bản về phương pháp trắc nghiệm. Các nước trên thế giới đã tiến hành triển khai cải tiến phương pháp kiểm tra đánh giá, thi cử ở các truờng Đại học. Cụ thể: + Ở Trung Quốc kỳ thi tuyển sinh Đại học đã thống nhất trên toàn quốc bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan được tiêu chuẩn hóa áp dụng từ năm 1985. + Ở Hàn Quốc từ năm 1980 đã thay đổi các kỳ thi tuyển sinh riêng rẽ ở từng trường bằng kỳ thi trắc nghiệm thành quả học tập trung học bậc cao trên toàn quốc. + Ở Thái Lan năm 1995 đã thành lập trung tâm trắc nghiệm quốc gia. Rất nhiều các nhà khoa học đang tiến hành nghiên cứu, điều tra nhằm sử dụng phương pháp này một cách tốt nhất vào việc kiểm tra đánh giá kết quả học sinh phổ thông, sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp. b. Lịch sử nghiên cứu trắc nghiệm khách quan ở Việt Nam - Miền Bắc: Việc áp dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập vẫn còn là những vấn đề mới mẻ. Có thể nói những nghiên cứu sớm nhất thuộc lĩnh vực này là của giáo sư Trần Bá Hoành. Năm 1971, giáo sư đã soạn thảo các câu hỏi, thực nghiệm và áp dụng trắc nghiệm vào kiểm tra kiến thức học sinh và đã thu được nhiều kết quả quý báu. Tuy nhiên, trong một thời gian dài phương pháp này hầu như không được sử dụng như là một phương pháp kiểm tra đánh giá học sinh do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan chi phối. Năm 1986, tại khoa Sinh-KTNN thuộc Đại học Sư phạm Hà Nội các cuộc hội thảo đã được tổ chức với nội dung: “Phương pháp xây dựng hệ thống câu hỏi lựa chọn đa phương án” do J.P.Herath trình bày và hướng dẫn trong chương trình tài trợ của UNDP. Phát huy kết quả của hội thảo, khoa Sinh-KTNN đã triển khai, xây dựng hàng loạt các bộ câu hỏi trắc nghiệm ở các bộ môn, bước đầu sử dụng để làm phương tiện kiểm tra ở một số bộ môn. Từ những năm đầu của thập niên 90, phương pháp trắc nghiệm khách quan mới thực sự được quan tâm và ứng dụng ở các cấp học, ngành học. Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã tìm ra những kinh nghiệm quý báu về các đặc tính của phương pháp Test. Để đổi mới công tác kiểm tra - đánh giá, khắc phục tình trạng lạc hậu của giáo dục nước ta so với khu vực và trên thế giới. Tháng 2-1994, Bộ Giáo dục và Đào tạo theo hướng đổi mới phương pháp kiểm tra-đánh giá đã phối hợp với Viện công nghệ Hoàng Gia Melbourne của Australia, tổ chức các cuộc hội thảo với chủ đề “Kỹ thuật xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan” tại thành phố Hồ Chí Minh, Huế và Hà Nội. Năm 1996-1997, có những cuộc hội thảo mang tầm cỡ quốc gia đã được tổ chức. Nhiều bộ đề trắc nghiệm của sinh viên ra đời ở trường Đại học đại cương thuộc Đại học Quốc gia. Đối với các trường THPT việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra-đánh giá kết quả học tập của học sinh đã và đang được nghiên cứu và sử dụng. - Miền Nam: Phương pháp trắc nghiệm khách quan đã được nghiên cứu và áp dụng rải rác trong các trường học từ những năm đầu thập niên 50. Học sinh được tiếp xúc nhiều với dạng bài trắc nghiệm khách quan qua các cuộc khảo sát khả năng ngoại ngữ do các tổ chức quốc tế tài trợ. Đến những năm 60 trắc nghiệm khách q

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBáo cáo nghiên cứu khoa học-Đánh giá ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường phổ thông Phương pháp kiểm tra đánh giá, phương pháp trắc nghiệm và.doc
Tài liệu liên quan