MỤC LỤC 1
LỜI NÓI ĐẦU 2
CHƯƠNG 1: LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 3
1.1. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp. 3
1.1.1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 3
1. 1.2. Lợi nhuận của doanh nghiệp 6
1.2.Xác định lợi nhuận của doanh nghiệp. 11
1.2.1. Các yếu tố cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp. 11
1.2.2. Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp. 12
1.2.3. Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp. 20
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI TBC 30
2.1 Tổng quan về công ty Thương Mại TCB 30
2.1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của công ty TNHH Thương Mại TCB 30
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của công ty 30
Biểu 2: Mô hình bộ máy kế toán của Công ty 32
2.1.3 Đặc điểm của công ty 32
2.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty TNHH Thương mại TBC 33
2.2.1 Thực trạng hoạt động kinh doanh 33
2.2.2 Tình hình tài chính trong công ty TNH thương mại TBC 34
2.2.3 Tình hình thực hiện nghĩa vụ ngân sách nhà nước năm 2003 46
2.3. Nhận xét về lợi nhuận của Công ty TNHH TBC 48
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 49
2.3.2.1 Hạn chế 49
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP TĂNG LỢI NHUẬN TỪ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI TBC. 51
3.1 Sự cần thiết khách quan 51
3.2. Giải pháp tăng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Thương Mại TBC 51
3.2.1. Tối ưu hoá doanh thu tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ nhằm tối đa hoá lợi nhuận của Công ty. 51
3.2.2. Tối thiểu hoá chi phí 54
3.2.3 Những giải pháp khác 55
3.3. Một số kiến nghị với chính phủ 56
KẾT LUẬN 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 59
59 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1479 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Thương mại TBC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược bao nhiêu lợi nhuận sau thuế. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu, đây là chỉ tiêu đặc biệt được các nhà đầu tư quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn vào đầu tư.
Chỉ tiêu này được so sánh qua các thời kỳ khác nhau của doanh nghiệp và so với chỉ tiêu trung bình ngành. Nếu chỉ tiêu này cao hơn qua các thời kỳvà cao hơn so với trung bình ngành thể hiện sự làm ăn có hiệu quả của doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính của doanh nghiệp.
Vấn đề khó khăn là tỷ lệ trung bình ngành của các chỉ tiêu không phải dễ dàng có thể xác định được và độ chính xác không phải là tuyệt đối. Như thực tế ở Việt Nam ta hiện nay, các tỷ số trung bình ngành của các tỷ số trên hầu như chưa được tính toán đến.
*Doanh lợi tài sản:
ROA =
Doanh lợi tài sản là tỷ số giữa thu nhập sau thuế trên tổng tài sản , phản ánh khả năng sinh lãi của doanh nghiệp tính trên một đồng giá thị tài sản đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Qua chỉ tiêu này có thể đánh giá tình hình sử dụng tài sản, vật tư, tiền tệ của doanh nghiệp.Từ đó có bịên pháp thích ứng khai thác khả năng sinh lời của tài sản, quản lý và sử dụng tài sản tiết kiệm. chỉ tiêu này cần được so sánh với chỉ tiêu trung bình ngành và so sánh giữa các thời kỳ với nhau mới thấy được hiệu quả của quá trình sử dụng tài sản.
_*Tỷ suất lợi nhuận giá thành
Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ
Công thức ;
Trong đó:
Tg ; tỷ suất lợi nhuận giá thành
P; lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ
Zt : giá trị toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiẹu thụ trong kỳ
Thông qua chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận giá thành có thể thấy rõ hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. Nó cho biết cứ 100 đồng chi phí sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Việc sử dụng nhóm chỉ tiêu trên giúp chúng ta thấy được hiệu qủa hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp qua các thời kỳ và so với các doanh nghiệp khác cùng lĩnh vực. Tuy nhiên, nó không giúp ta thấy được những nhân tố nào ảnh hưởng tới lợi nhuận. Để làm được việc này cấn phải sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont. Với phương pháp này, nhà phân tích tài chính sẽ biết được nguyên nhân dẫn tới hiện tượng tốt xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh mức sinh lợi của doanh nghiệp như doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) hay doanh lợi tài sản (ROA) thành tích các tỷ số có quan hệ nhân quả với nhau.
ROE = = x = ROA x EM
EM gọi là số nhân vốn, phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. EM càng cao chứng tỏ khả năng huy động vốn của doanh nghiệp càng lớn.
ROE phản ánh mức sinh lợi của một đồng VCSH – mức tăng tài sản cho vốn chủ sở hữu. Còn ROA ( Thu nhập sau thuế trên tài sản) phản ánh mức sinh lợi của toàn bộ danh mục tài sản của doanh nghiệp.
Ta có thể phân tích phương pháp Dupon:
(:)
(:)
(-)
+
DL tài sản
Số nhân vốn
TNST
Doanh thu
Tài sản
VCSH
Doanh thu
Tổng chi phí
TSCĐ
TSLĐ
Giá vốn
Thuế TNDN
Chi phí bán hàng
Chi phí QLDN
Chi phí HĐTC
Chi phí bất thường
Giá trị CLTSCĐ
Đầu tư TC dài hạn
Tiền
Đầu tư TC ngắn hạn
Phải thu
Tồn kho
TSLĐ khác
DL vốn chủ
Nhìn vào sơ đồ trên, thấy được yếu tố nào trực tiếp, gián tiếp ảnh hưởng tới doanh lợi vốn chủ, để từ đó có những biện pháp hạn chế tác động xấu tới tỷ số này và kích thích những nhân tố có tác động tốt.
Nhìn vào vế trái của sơ đồ trên ta cũng có thể thấy được nhân tố nào làm tăng, nhân tố nào làm giảm thu nhập sau thuế của doanh nghiệp. Ngoài những phương pháp để tính toán khi nào doanh nghiệp làm ăn có lãi, người ta còn sử dụng phương pháp phân tích điểm hoà vốn.
Phân tích điểm hoà vốn:
Điểm hoà vốn là tại đó, doanh thu bán hàng bằng chi phí bỏ ra, hoặc là một điểm mà tại đó lợi nhuận bằng không. Như vậy, trên điểm hoà vốn sẽ có lãi và dưới điểm hoà vốn sẽ bị lỗ. Phân tích điểm hoà vốn sẽ giúp cho các nhà quản trị tài chính xem xét kinh doanh trong mối liên hệ giữa nhiều yếu tố tác động tới lợi nhuận, cho phép xác định rõ ràng vào thời điểm nào trong kỳ kinh doanh, hay mức sản xuất tiêu thụ bao nhiêu sản phẩm công ty không bị lỗ, từ đó có các quyết định chủ động và tích cực để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao. Về mặt toán học thì điểm hoà vốn là điểm giao nhau của đường biểu diễn doanh thu với đường biểu diển tổng chi phí:
Nếu gọi:
F : là∑chi phí
v: là chi phí khả biến cho một sản phẩm
Q: là sản lượng hoà vốn
g: là giá bán một đơn vị sp
Vậy∑chi phí khả biến là: VQ, ∑chi phí sản xuất là : y1 = F + vQ
∑ doanh thu tại thời điểm hoà vốn : y2 = gQ
Tại điểm hoà vốn ta có:
∑Dthu =∑ Chi phí
Q x g = F + vQ
Qg - vQ = F
Q(g – v ) = F
Q =
Đồ thị của điểm hoà vốn được vẽ như sau:
Trục tung phản ánh doanh thu ( hay tổng chi phí ), trục hoành phản ánh sản lượng hoạtđộng. Doanh thu được tượng trưng bởi đường thẳng xuất phát từ góc độ 0, đường tổng chi phí luôn xuất phát tại F và độ dốc của nó nhỏ hơn độ dốc của đường doanh thu. Hai đồ thị này cắt nhau tại điểm M, diểm M ( với ∑doanh thu y2 = ∑chi phí y1 tương ứng với sản lượng q0 ) được gọi là điểm hoà vốn và Q0 được gọi là sản lượng hoà vốn. Những gía trị nào của Q Q0 phản ánh phạm vi sản lượng có lãi.
Vùng lỗ
Y1=y2
DT,CP
y
F
M
Y2=gQ
∑CP biến đổi vQ
Đường chi phí
Chi phí cố định (F)
Y1=F+vQ
Hình 1: Đồ thị điểm hoà vốn
Cũng như các công cụ quản lý tài chính khác, mô hình phân tích điểm hòa vốn cũng có những hạn chế của nó. Nghiên cứu mô hình này phải đặt tronh những điệu kiện giả thiết nhất định:
Toàn bộ chi phí được phân biệt hợp lý thành hai bộ phận là chi phí biến đổi và chi phí cố định.
Định phí luôn cố định trong mọi mức độ sản lượng
Biến phí đơn vị không thay đổi với bất kể số lượng sản xuất là bao nhiêu.
Giá bán như nhau ở mọi mức độ của sản lượng tiêu thụ
Doanh nghiệp chỉ tiêu thụ một loại sản phẩm.
Tuy có những hạn chế nhát định nhưng lý thuyết về điểm hoà vốn vẫn có giá trị nghiên cứu trong lý luận và thực tiễn.
Từ những phân tích trên, ta thấy được những nhân tố nào ảnh hưởng đên doanh thu và chi phí thì cũng sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
* Nhóm nhân tố thuộc về doanh thu
- Khối lượng sản phẩm
Khối lượng sản phẩm tiêu thụ có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu vì;
Doanh thu
bán hàng
Giá bán đơn vị sản phẩm
Khối lượng sản phẩm tiêu thụ
=
+
Theo quan hệ toán, thì rõ ràng khối lượng sản phẩm tiêu thụ tỷ lệ thuận với doanh thu, do đó khối lượng sản phẩm tiêu thụ tăng thì doanh thu tăng, khối lượng sản phẩm tiêu thụ sản phẩm giảm thì doanh thu giảm. Trên thực tế, doanh nghiệp phải bán được nhiều hàng thì mới hi vọng thu được nhiều tiền.
Không phải doanh nghiệp cứ nhập về bao nhiêu hàng là có thể tiêu thụ được hết số sản phẩm đó. Khối lượng hàng hoá tiêu thụ phụ thuộc vào nhiều yếu như quy mô của doanh nghiệp, tình hình tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, việc ký hợp đồng với khách hàng, việc giao hàng, vận chuyển và thanh toán tiền hàng....
+ Giá cả sản phẩm
Nhìn vào công thức tính doanh thu tiêu thụ sản phẩm ta thấy giá cả cũng tỷ lệ thuận với doanh thu và ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Nếu giá cả tăng thì doanh thu tiêu thụ tăng và ngược lại( đối với từng mặt hàng). Cùng một loại sản phẩm nhưng nếu doanh nghiệp bán ở các mức giá khác nhau thì doanh thu khác nhau. Để đạt được doanh thu mong muốn doanh nghiệp phải linh hoạt trong việc xác định mức giá hợp lý, vừa khuyến khích được mọi người tiêu dùng, vừa trang trải được chi phí bỏ ra.
Hầu hết những sản phẩm có vai trò quan trọng, có tính chất chiến lược đối với nền kinh tế quốc dân thì nhà nước sẽ còn định giá, còn các sản phẩm khác căn cứ vào cung cầu thị trường và quyết định giá bán.
Nhìn chung, nếu đảm bảo được chất lượng sản phẩm thì giá cả sẽ trở thành một vũ khí cạnh tranh khá sắc bén của mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp làm tốt công tác quản lý, tiết kiệm, giảm được chi phí, hạ giá thành thì có thể hạ giá bán so với nhiều khách hàng, mở rộng thì trường, không ngừng nâng cao được doanh thu để từ đó nhằm tăng lợi nhuận.
+Kết cấu mặt hàng tiêu thụ
Một doanh nghiệp có thể nhập về nhiều loại hàng hoá với tỷ trọng khác nhau. Hầu hết hiện nay các doanh nghiệp đều sử dụng chính sách “đa dạng hoá sản phẩm”, tức là nhiều loại sản phẩm. Mỗi loại có nhiều chủng loại, kích cỡ, mầu sắc giá cả khác nhau để đáp ứng nhu cầu khác nhau. Nếu mặt hàng có giá bán cao và chiếm tỷ trọng lớn mà sản lượng tiêu thụ tăng nhanh thì doanh thu tiêu thụ sản phẩm tăng nhanh, ngược lại mặt hàng có giá bán thấp và chiếm tỷ trọng nhỏ mà sản lượng tăng nhanh thì doanh thu tiêu thụ sản phẩm có tăng nhưng tăng chậm.
Việc thay đổi kết cấu sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào giá cả mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện sản xuất cụ thể của doanh nghiệp, nhu cầu thị trường mặt hàng này tăng, mặt hàng kia giảm...
Việc thay đổi kết cấu tiêu thụ trước hết là do tác động của nhu cầu thị trường, tức là do tác động của các nhân tố khách quan. Mặt khác, để đáp ứng được nhu cầu thường xuyên biến động, bản thân doanh nghiệp phải vận động từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, bán hàng và khi đó tác động này lại là tác động mang yếu tố chủ quan trong công tác quản lý của công ty. Từ sự tác động của nhân tố này doanh nghiệp sẽ phải nắm bắt nhu cầu thị trường để đưa ra những quyết định điều chỉnh hợp lý.
Như vậy, để có được kết cấu mặt hàng tiêu thụ hợp lý, đảm bảo doanh thu tiêu thụ sản phẩm không ngừng nâng cao lợi nhuận, các doanh nghiệp cần phải bám sát thị trường.
+ Chất lượng hàng hoá bán ra thị trường
Chất lượng sản phẩm là yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ sản phẩm nên nó ảnh hưởng gián tiếp đến doanh thu tiêu thụ.
Hiện nay, khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao, kéo theo nhu cầu tiêu dùng cũng ngày càng đa dạng và phong phú, đòi hỏi sản phẩm tiêu dùng phải tốt về mọi mặt, chất lượng cao, giá cả vừa phải, hợp thị hiếu, điều kiện sử dụng, tiện lợi, đa dạng...Cho dù sử dụng trong thời gian ngắn hay dài hình thức sản phẩm ra sao thì người tiêu dùng vẫn luôn mong muốn được sử dụng những sản phẩm tốt về chất lượng. Do vậy trong nền kinh tế thị trường yếu tố chất lượng sản phẩm bị đòi hỏi gắt gao và yếu tố cạnh tranh cơ bản của doanh nghiệp.
Muốn tiêu thụ được hàng, muốn thu hút được khách hàng thì doanh nghiệp phải dành được uy tín về chất lượng sản phẩm để tạo ra ưu thế cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Một doanh nghiệp có thể có nhiều loại sản phẩm với nhiều phẩm cấp khác nhau và các thứ hạng phẩm cấp đó đều được phép tiêu thụ trên thị trường với giá cả phù hợp từng phẩm cấp. Giả sử các yếu tố khác không đổi, khi nâng cao chất lượng sản phẩm thì chắc chắn sẽ tăng tỷ lệ sản phẩm loại I, mà giá bán sản phẩm loại I bao giờ cũng cao hơn giá bán thứ phẩm. Nên cùng một khối lượng sản phẩm tiêu thụ nhưng doanh thu tiêu thụ đã được nâng cao hơn.
Như vậy, chất lượng sản phẩm là yếu tố giúp doanh nghiệp có thể thu hút được đông đảo khách hàng, làm tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng giá bán sản phẩm một cách hợp lý. Chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh lợi hại, góp phần khẳng định thế đứng của doanh nghiệp trên thị trường.
Công tác thanh toán tiền bán hàng.
Trong công tác thanh toán tiền bán hàng doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều hình thức thanh toán khác như thanh toán bằng tiền mặt, chuyển khoản ...
Trong quá trình tiêu thụ, doanh nghiệp thường bán hàng cho rất nhiều khách hàng khác nhau, có điều kiện kinh tế và ở vị trí địa lý khác nhau. Việc đa dạng hoá các hình thức thanh toán tiền hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi thanh toán cho doanh nghiệp nhận doanh thu kịp thời, đầy đủ trong công tác thanh toán, doanh nghiệp cần có những hình thức động viên khuyến khích khách hàng để khách hàng thanh toán ngay, nhanh gọn, để tránh hiện tượng doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn mà lại thu hút được nhiều khách hàng.
Mặt khác, trong tình hình thanh toán tiền hàng doanh nghiệp phải làm tốt công tác kiểm tra tình hình chấp hành về điều khoản thanh toán , thời hạn thanh toán, thể thức thanh toán, đảm bảo thu đúng thu đủ, thu kịp thời doanh thu.
*Nhóm các nhân tố thuộc chi phí
Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, chi phí có quan hệ tỷ lệ ngịch với lợi nhuận: chi phí tăng lợi nhuận giảm và ngược lại. Do vậy, lợi nhuận chịu sự tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí như sau:
+ Giá vốn hàng bán hay giá thành sản phẩm tiêu thụ
Thực chất ảnh hưởng của nhân tố này là ảnh hưởng của giá thành sản phẩm tiêu thụ. Như chúng ta đã biết, giá thành sản phẩm cao hay thấp, tăng hay giảm là tuỳ thuộc vào kết quả của việc quản lý và sử dụng lao động, vật tư tiền vốn trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp, do đó nó là tác động của nhân tố chủ quan trong công tác quản lý của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp
Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, nếu doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí sản xuất, chi phí thu mua, liên quan đến hàng tiêu thụ sẽ làm cho lợi nhuận tăng lên và ngược lại. Do vậy doanh nghiệp cần có những biện pháp tích cực giảm chi phí và quản lý tốt các khoản mục chi phí của giá thành sản phẩm tiêu thụ.
+ Chi phí bán hàng và chi phí quản lý
Chi phí bán hàng và chi phí quản lý về thực chất cũng giống như ảnh hưởng của nhân tố giá vốn hàng bán, tức là chi phí bán hàng và chi chí cao hay thấp tăng hay giảm là tuỳ thuộc vào kết quả của việc quản lý và sử dụng, vật tư tiền vốn trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp, do đó nó là tác động của nhân tố chủ quan trong công tác quản lý của doanh nghiệp.
Để tiết kiệm được chi phí bán hàng và chi phí quản lý thì các doanh nghiệp phải xây dựng được các định mức chi phí này cho từng loại sản phẩm. Các định mức này sẽ được điều chỉnh từ năm này qua năm khác theo xu hướng biến động của thị trường.
Trên đây là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ sản phẩm( hay doanh thu bán hàng) của một doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới lợi nhuận. Doanh nghiệp cần phải xem xét các yếu tố đó một cách toàn diện từ nhiều góc độ khác nhau và trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau để tìm ra mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố trong hoàn cảnh cụ thể của mình. Từ đó doanh nghiệp sẽ tìm ra phương hướng, giải pháp tối ưu để phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu của các yếu tố đối với việc thực hiện các chỉ tiêu tài chính, đặc biệt là hai chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận.
* Nhóm các yếu tố khác
Ngoài các nhóm nguyên nhân trên còn có rất nhiều các nhân tố khác tác động đến chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận như: biến động nền kinh tế thị trường ví dụ như sự biến động về tỷ giá có ảnh hưởng rất lớn đến hoạtđộng kinh doanh của những doanh nghiệp xuất- nhập khẩu, hoạt động đầu tư trên thị trường tài chính, lãi suất ngân hàng, tâm lý lao động, việc phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp, sự .
Nếu như doanh nghiệp thực hiện tốt kế hoạch phân phối tức là đảm bảo quyền lợi của người lao động và thực hiện tốt công tác quản lý, lãnh đạo thì doanh nghiệp sẽ tạo ra môi trường làm việc cho người lao động, tạo động lực làm việc cho người lao động.
Chính điều này sẽ là điều kiện tôt cho doanh ngiệp thực hiện các mục tiêu của mình, đặc biệt là các chỉ tiêu tài chính như doanh nghiệp và lợi nhuận.
Trên đây là toàn bộ những lý luận chung về doanh thu bán hàng và lợi nhuận. Để hiểu rõ hơn thì chúng ta phải xem xét việc thực hiện hai chỉ tiêu này như thế nào trong điều kiện thực tế cụ thể ở một doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng về lợi nhuận của công ty TNHH thương mại TBC
2.1 Tổng quan về công ty Thương Mại TCB
2.1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của công ty TNHH Thương Mại TCB
Công ty TNHH Thương Mại TCB được thành lập ngày 26/10/2001, theo giấy phép kinh doanh số 0102003735 của sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp. Công ty chuyên kinh doanh mặt hàng dụng cụ y tế và các loại hoá chất.
Mặt hàng của công ty hầu hết là các hàng hoá nhập khẩu từ các nước Đức, Hungary, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha...Sản phẩm của công ty được tiêu thụ tại thị trường Hà Nội và các tỉnh phía bắc lân cận Hà Nội như: Quảng Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hoà Bình, Thái Bình, Hải Dương,...
Công ty TNHH TBC Thành lập từ năm 2001 với khởi đầu chỉ có 10 người, đến nay nhân viên trong toàn công ty là 50 người. Trong đó, hầu hết có trình độ đại học, và còn rất trẻ.
Nhờ vậy, công ty có đội ngũ nhân viên rất năng động, sáng tạo luôn khẳng định được mình trong mọi điều kiện làm việc.
Công ty có tên đầy đủ : Công ty TNHH Thương Mại TCB
Trụ sở : Số 60 tổ 29 Khương Thượng, Đống Đa, Hà Nội
Điện thoại : 84 04 5744633 Tax:84 04 5744634
Tài khoản số 1300311003006 Tại ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam.
Năng lực bán hàng công ty: vào khoảng 2 tỷ đồng/năm
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của công ty
Là một doanh nghiệp tư nhân, có quy mô vừa, Công ty TNHH thương mại TBC tổ chức quản lý theo mô hình một cấp: đứng đầu là giám đốc Công ty, tiếp đến là các phòng ban, có nhiệm vụ trực tiếp giúp việc cho giám đốc.
Biểu 1: Sơ đồ bộ máy tổ chức của Công ty TNHH thương mại TBC
ban
giám đốc
phòng
kinh doanh
phòng
kế toán
phòng
hành chính
phòng
kỹ thuật
Ban giám đốcgồm;
- Giám đốc Công ty (Ông Hoàng Văn Tiệp), người nắm giữ một phần hai vốn góp là người đứng đầu Công ty, đại diện và chịu mọi trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của công ty.
Phó giám đốc kiêm Kế toán trưởng ( Bà Nguyễn Ngọc Bích), người nắm giữ phần vốn góp còn lại, là người giúp việc cho giám đốc trong các hoạt động kinh doanh hàng ngày, là người chịu trách nhiệm trước giám đốc, pháp luật về phạm vi và quyền hạn của mình.
Ngoài ra trong công ty còn có 4 phòng ban chức năng:
Phòng Hành chính kiêm phòng Nhân sự: gồm 5 người đứng đầu là trưởng phòng hành chính, có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc xây dựng và áp dụng các chế độ, quy định về quản lý , sử dụng lao động trong toàn Công ty, tuyển thêm nhân viên mới.Trưởng phòng nhân sự là người chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty về các quyết định quản lý nhân sự của mình.
Phòng Kế toán: gồm 6 nhân viên, đứng đầu phòng kế toán là Kế toán trưởng có nhiệm vụ giúp đỡ Giám đốc trong việc lập các chứng từ sổ sách thu chi, báo cáo với Giám đốc về kết quả sản xuất kinh doanh theo chế độ kế toán Nhà nước, quy chế Công ty, chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Giám đốc Công ty về mọi quyết đinh quản lý trong toàn Công ty ( biểu đồ 2),
Biểu 2: Mô hình bộ máy kế toán của Công ty
Kế toán trưởng
Kế toán
thanh toán
kiêm thủ quỹ
Kế toán
vật tư hàng hoá
Kế toán xuất nhập khẩu
Kế toán bán hàng
Kế toán thuế
- Phòng kinh doanh: do đặc điểm là công ty thương mại nên đây là phòng có quy mô lớn nhất trong công ty, gồm có 24 thành viên, những nhân viên này có nhiệm vụ chính là đem được sản phẩm tới tay khách hàng, ngoài ra họ còn có nhiệm vụ là đào tạo nhân viên mới, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh,...
Phòng Kỹ thuật: giúp Giám đốc về công tác quản lý chất lượng sản phẩm, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, phụ trách nghiên cứu sản phẩm mới, đào tạo tay nghề nhân viên, bảo hành máy móc cho khách hàng, ngoài ra họ còn có thực hiện dịch vụ sửa chữa khi khách hàng yêu cầu, đào tạo nhân viên mới khi cần. Phòng kỹ thuật gồm 13 người đứng đầu là trưởng phòng kỹ thuật, người có nhiệm vụ quản lý mọi hoạt động của phòng kỹ thuật.
Trong Công ty, mỗi phòng ban có một chức năng riêng, nhưng mục đích cuối cùng là để quản lý tốt mọi hoạt động của công ty.
2.1.3 Đặc điểm của công ty
Công ty TNHH Thương Mại TCB là doanh nghiệp hoạt động với nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức kinh doanh mặt hàng nhập khẩu một phần mềm trực tiếp theo đơn đặt hàng với lô hàng có mệnh giá lớn, và một phần hàng để bán lẻ cho đơn vị kinh doanh trong mọi lĩnh vực có nhu cầu. Công ty mang đầy đủ đặc trưng của một doanh nghiệp thương mại, tuy nhiên có một số sự riêng biệt của nó.
+Khối lượng hàng nhập về phụ thuộc vào đơn đặt hàng và suy tính của ban lãnh đạo
+Mặt hàng của công ty dễ bị hao mòn vô hình do hàm chứa công nghệ cao( ngày hôm nay loại máy móc này là hiện đại, nhưng ngày mai nó đã có sự thay đổi rất nhiều)
+Các mặt hàng công ty kinh doanh, lãi thu về chủ yếu dựa vào sản phẩm tiêu hao của máy móc chính. Công ty có thể bỏ ra hàng chục triệu để tặng 1 chiếc máy xét nghiệm sinh hoá nhưng từ chiếc máy này công ty có thể bán được các loại que thử, hay các loại hoá chất mà máy đó cần dùng.
+Nhân sự của công ty chủ yếu là nam, do phải thường xuyên để công tác, áp lực công việc là rất lớn.
Các đặc trưng trên tác động rất lớn đến đến hoạt động kinh doanh của công ty, qua đó mà tác động đến lợi nhuận của nó.
Những tác động này thể hiện cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Nếu công ty có sự phân tích nắm bắt tình hình một cách kín kẽ, có đầy đủ thông tin về các vấn đề trên và xử lý chúng một cách khoa học thì công ty dễ dàng đạt mục tiêu của mình. Ngược lại, thì chính yếu tố trên sẽ là nguyên nhân dẫn đến thất bại của công ty.
Hoạt động kinh doanh của công ty là một quy trình hoạt động chặt chẽ, trải qua nhiều công đoạn phức tạp mà điểm xuất phát là từ nhu cầu thị trường
Phòng kinh doanh là nơi đảm nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, chăm sóc cho khách hàng. đối với những loại thiết bị y tế có mệnh giá lớn, công ty không có sẵn trong kho mà chỉ khi khách hàng có nhu cầu công ty mới nhập về. Đối với những loại vật tư tiêu hao, dùng cho loại máy mà công ty tặng cho các viện, thì phòng kinh doanh phải có sự dự trù trước, để công ty đặt hàng về dự trữ tại kho. Ngoài ra, công ty nhập về một lô hàng khác phụ thuộc vào nhu cầu bất thường của khách hàng.
Giữa phòng kinh doanh và ban giám đốc là sự kết hợp đồng bộ nhịp nhàng. Phòng kinh doanh là nơi nhận đơn đặt hàng cung cấp mày móc, vật tư cho các viện hay phòng khám, phòng nghiên cứu, dự trù nhu cầu của khách hàng về loại hàng hoá mà công ty cung cấp rồi đệ trình lên ban giám đốc, ban giám đốc nghiên cứu, xét duyệt và đặt hàng. Nếu không có sự kết hợp chặt chẽ thì hoạt động kinh doanh của công ty thất bại.
2.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty TNHH Thương mại TBC
2.2.1 Thực trạng hoạt động kinh doanh
Mặt hàng kinh doanh của công ty là thiết bị dùng trong y tế và các loại hoá chất, được nhập khẩu từ nhiều nước như: Đức, Hungary, Tây Ban Nha, Pháp, Brazil, Nhật...
Các loại thiết bị y tế chính mà công ty đã bán trong năm qua:
Máy xét nghiệm đường huyết
Máy nghiên cứu nước tiểu
Máy siêu âm
Máy điện tim
Màn hình theo dõi bệnh nhân
Máy chụp X_ quang
( Với một chủng loại mày trên lại có rất nhiều loại máy móc do các hãng khác nhau sản xuất, với giá thành khác nhau).
Các loại hoá chất trong y tế được công ty tiêu thụ khá mạnh, như loại hoá chất sinh hoá, hoá chất huyết học, được nhập của những hãng nổi tiếng trên thế giới như: Biocon, Elitech, Anaticon, Ral, Innomed,... Các mặt hàng này được công ty cung cấp cho các bệnh viện, trung tâm y tế và các phòng khámnhư Bệnh viện 103, viện Saintpaul, viện Giao thông vận tải,và các phòng khám thuộc địa bàn Hà Nội, Bệnh viện Gang Thép Thái Nguyên, bệnh viện Đa khoa Thái Nguyên, Trung tâm y tế Thành phố Thái Nguyên, và các phòng khám trên địa bàn Thái Nguyên, bệnh viện đa khoa Hoà Bình, bênh viện Bãi Cháy, bệnh viện Lao và Bệnh phổi Quảng Ninh, trung tâm y tế Cẩm Phả, Trung tâm y tế Hải Dương, Trung tâm mắt Thái Bình, Bệnh viện phụ sản Thái Bình, Bệnh viện đa khoa Lạng Sơn, là khách hàng truyền thống của công ty trực thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Quảng Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Lạng Sơn,
Ngoài ra, thị trường tiêu thụ tiềm năng của công ty cũng khá rộng lớn, với tiềm lực chưa được mạnh của mình, công ty chưa đủ sức để đáp ứng.
Hoạt động dinh doanh của công ty chỉ bao gồm hoạt động buôn bán hàng hoa, không có hoạt động tài chính , hay hoạt động bất thường.
2.2.2 Tình hình tài chính trong công ty TNH thương mại TBC
Công ty TBC là một công ty tư nhân với quy mô tài chính lẫn quy mô hoạt động còn khá đơn giản, tuy nhiên sau ban năm đi vào hoạt động, tốc độ tăng trưởng của Công ty khá nhanh, chúng ta sẽ nhận thấy sự tăng trưởng của công ty qua việc phân tích tình hình tài chính của công ty:
Biểu 3. Cơ cấu vốn của công ty TNHH TBC
Đơn vị: Đồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Tổng nguồn vốn
2.120.094.939
2.190.088.501
3.290.258.353
1. Phải trả cho người bán
139.634.216
207.084.554
1.239.830
2. Nợ thuế
0
0
55.151.723
3.Vốn chủ sở hữu
2.000.000.000
2.000.000.000
2.000.000.000
4. Lợi nhuận chưa phân phối
0
9.642.947
22.344.800
( Trích; Bảng cân đối kế toán của Công ty TBC năm 2002, 2003)
Nhìn vào bảng cơ cấu vốn của công ty ta có nhận xét sau:
Vốn đưa vào hoạt động kinh doanh của công ty chủ yếu là vốn chủ sở hữu, công ty không có khoản nợ vay ngân hàng hay vay cá nhân khác trong nền kinh tế ngoài khoản tín dụng thương mại, từ đó có thể đưa ra một số kết luận:
Hoạt động kinh doanh của công ty nhỏ không cần nhiều vốn nên công ry không phải vay nợ, hoặc do hoạt động kinh doanh yếu kém, nên không có khả năng vay nợ.
Để đánh giá khả năng cân đối vốn của công ty, ta dựa vào một
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0032.doc