Các doanh nghiệp đều có bảng thể cân đội kế toán (bảng cân đối tài sản), trong đó phần tài sản phản ánh số kết dư giá trị tài sản tại một thời điểm, hoặc kết dư trung bình trong kì. Đối với hộ, hoặc người tiêu dùng ngân hàng yêu cầu các thông tin về tình hình kinh doanh, tài sản cá ngân, lương và các khoảng thu nhập khác. Các thông tin về tài sản cho thấy qui mô chất lượng tài sản khả năng quản lý của khách hàng rất quan trọng đối với quyết định vay. Hơn thế nữa, tài sản (tất cả hoặc một phần) của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho vay tạo khả năng thu hồi nợ khi khách hàng mất khả năng sinh lời.
60 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1681 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện quy trình phân tích tín dụng trong hoạt động của các Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên vào đơn xin vay
Khi cho một công ty vay, nên xem xét điều lệ và luật địa phương để khảng định rằng ai có them quyền thay mặt cho công ty vay. Trong nhiều trường hợp, ngân hàng đòi một bản nghị quyết tập thể, được các thành viên hội đồng quản trị ký ủy quyền vay vốn và chỉ định người có thêm quyền để thương lượng vay hoặc thực hiện các phương tiện đi vay.
Đôi khi các ngân hàng nhận thấy không nên cho vay, trừ khi các chủ nợ đồng ý ưu tiên quyền đòi nợ của ngân hàng. Điều này thường xảy ra đối với các công ty nhỏ, khi đó ngân hàng trở thành một chủ nợ và được bảo đảm có quyền đòi nợ ưu tiên trên các tài sản của hãng kinh doanh.
* Uy tín
Khái niệm về uy tín, có liên quan đến các giao dịch tín dụng, không chỉ có ý nghĩa là sự sẵn lòng trả nợ mà còn phản ánh ý muốn kiên quyết nhằm thực hiện tất cả các giao ước trên các điều khoản của hợp đồng. Uy tín quan trọng nhất của tín dụng là thật thà và liêm chính của một con người và cũng quan trọng khi thực hiện việc cho vay đối với các hãng kinh doanh hoặc cá nhân. Hồ sơ quá khứ của một người xin vay trong việc thực hiện các hợp đồng của họ thường có giá trị khi đánh giá uy tín về tín dụng. Tuy nhiên đôi khi việc đánh giá một người chủ yếu là phán đoán chứ không thể hiện trên cơ sở các thông tin thực tế đầy đủ.
* Khả năng tạo ra lợi tức
Nếu khoản vay được trả từ lợi nhuận thì điều quan trọng là phải đánh giá được khả năng của người vay trong kinh doanh nhằm kiếm đủ số lời để trả nợ. Một số khoản vay được thực hiện, với hy vọng việc hoàn trả từ việc bán các tài sản, từ các khoản vay khác hoặc từ việc bán các cổ phần. Tuy nhiên, nguồn chi trả chính đối với hầu hết các khoản vay là khả năng kiếm lợi của người vay.
Đối với một hãng kinh doanh, khả năng tạo ra lợi tức tuỳ thuộc vào tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến giá thành, sản lượng, chi phí. Những yếu tố này bao gồm địa điểm của hãng, chất lượng hàng hoá, tính hữu hiệu của quảng cáo, chất lượng cạnh tranh, phẩm chất của lực lượng lao động, khả năng khai thác, giá thành của nguyên liệu và chất lượng quản lý.
* Quyền sở hữu các tài sản
Quyền sở hữu các tài sản tương tự như vốn và vật thế chấp là một trong các tiêu chuẩn tín dụng. Các nhà sản xuất phải có máy móc và trang thiết bị hiện đại nếu hộ muốn trở thành những nhà sản xuất có sức cạnh tranh. Giá trị thực của một hãng (vốn tự có) là một tiêu chuẩn đo lường sức mạnh tài chính của họ, và thường là một trong những yếu tố quyết định khối lượng tín dụng mà một ngân hàng sẵn lòng thực hiện cho một doanh nghiệp vay. Khối lượng và chất lượng các tài sản của một hãng khinh doanh nói lên sự thận trọng và tính tháo vát của nhà quản lý. Một số hoặc tất cả các tài sản có thể đảm bao cho các khoản vay và như vạy, khẳng định rằng khoản cho vay sẽ được hoàn trả nếu khả năng thu lợi của người cho vay ko thể thu hồi. Tuy nhiên ta nên nhấn mạnh rằng, trong khi vật đảm bảo giảm bớt được rủi ro, nhưng các ngân hàn vẫn mong muốn vốn vay sẽ được hoàn trả từ lợi nhuận. Các khoản cho vay tiêu dùng tường được bảo đảm bởi cách tín tài sản hính thành từ vốn vay. Nếu giá trị của các tài sản thế chấp không thấp hơn số nợ phải trả, người vay vẫn có động cơ tiếp tục trả nợ.
* Các điều kiện kinh tế
Các điều kiện kinh tế ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của nợ vay nhưng chúng thường vượt quá sự kiểm soát của cả người vay lẫn người cho vay. Các điều kiện kinh tế hình thành môi trường mà trong đó các tổ chức và cá nhân kinh doanh đang hoạt động. Kỳ hạn của các khoản nợ càng dài thì việc dự báo kinh tế càng trở nên quan trọng do có nhiều khả năng về một sự suy thoái kinh tế, trước khi món nợ đã được trả hết. Nền kinh tế lệ thuộc vào những biến động ngắn hạn và dài hạn khác nhau về cường độ và trường độ. Những biến động này không bao giờ giống nhau, và có thể ảnh hưởng tới các ngành khai thác, sản xuất, dịch vụ khác nhau, với những mức độ khác nhau.
Để cho các nhà kinh doanh được vay tín dụng, ngân hàng quan tâm đến hoạt động kinh tế mà ngành kinh doanh ấy thực hiện và tầm quan trọng của nó trong cơ cấu kinh tế. Kiến thức về mọi sự biến đổi đang xảy ra trong các ngành nghề là rất quan trọng bao gồm những thay đổi trong các điều kiện cạnh tranh, kỹ thuật, nhu cầu về sản phẩm và các phương pháp phân chia. Nếu một người xin vay không thực hiện một chức năng hoạt động cơ bản nào đó của nền kinh tế, sẽ có ít khả năng được viên chức tín dụng chấp nhận cấp tín dụng.
1.2.3. Qui trình phân tích tín dụng
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng thường đặt ra qui trình phân tích tín dụng. Đó chính là các bước (hoặc nội dung công việc) mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng.
Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu nhập và xử lí các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quĩ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay.
* Phương pháp chủ yếu để thu thập và xử lý thông tin
Phỏng vấn trực tiếp là rất quan trọng, bao gồm việc gặp gỡ trực tiếp giữa ngân háng vf người vay vốn: Thăm quan nhà xưởng, văn phòng, nói chuyện với giám đốc và người lao động xem xét vật thế chấp....Phỏng vấn trực tiếp giúp cán bộ nhân hàng loại trừ các báo cáo “ma”, cảm nhận cái đang diễn ra ....
Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian (qua các cơ quan quản lý, qua các bạn hàng chủ nợ khác của người vay, qua các trung tâm thông tin hoặc tư vấn). Rất nhiều người vay lần đầu tiên đến với ngân hàng, hoặc chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Tìm hiểu khách hàng này trong thời gian ngắn là không đơn giản. Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian giúp phân tích người vay qua các mối liên hệ của họ, cho thấy uy tín, tình trạng rủi ro phát triển hay suy thoái.
Thông qua các thông tin có được từ các báo cáo của người vay. Ngân hàng luôn yêu cầu người vay vốn phải gửi cho ngân hàng các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán (bảng cân đối tài sản), báo cáo thu nhập, báo cáo bán hàng....ngân hàng cũng yêu cầu hoặc mua các thông tin về giám đốc, đội ngũ nhân sự công nghệ,... của khách hàng. Các báo cáo này cho thấy các số liệu trong nhiều năm đã qua, vì vậy giúp ngân hàng có cơ sở đểp dự đoán về tình hình của khách hàng trong tương lai gần. Ngân hàng sử dụng các báo cáo này để ước tính nhu cầu cần vốn, trong đó có nhu cầu tài trợ, đángân hàng giá khả năng sinh lợi và khả năng trả nợ, các thiệt hại có thể xảy ra nếu khách hàng không tra , hoặc không trẩ đầy đủ, giá trị các tác tài sản có thể phát mại khi cần thiết...
* Nội dung phân tích
Đánh giá tài sản của khách hàng
Các doanh nghiệp đều có bảng thể cân đội kế toán (bảng cân đối tài sản), trong đó phần tài sản phản ánh số kết dư giá trị tài sản tại một thời điểm, hoặc kết dư trung bình trong kì. Đối với hộ, hoặc người tiêu dùng ngân hàng yêu cầu các thông tin về tình hình kinh doanh, tài sản cá ngân, lương và các khoảng thu nhập khác. Các thông tin về tài sản cho thấy qui mô chất lượng tài sản khả năng quản lý của khách hàng rất quan trọng đối với quyết định vay. Hơn thế nữa, tài sản (tất cả hoặc một phần) của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho vay tạo khả năng thu hồi nợ khi khách hàng mất khả năng sinh lời.
- Ngân quỹ: Bao gồm tiền gửi ngân hàng, tiền mặt trong két, các khoản phải thu. Tiền gửi và tiền mặt là tài sản có thể dùng để chi trả ngay, song thường chiếm tỷ trọng trong nhỏ trong tổng tài sản của khách hàng. Các khoản phải thu (chủ yếu là tiền bán hàng hoá và dịch vụ chưa thu được tiền) luôn có khả năng chuyển thành tiền gửi hoặc tiền mặt. Ngân hàng cần xem xét kĩ khoản này để loại trừ các khoản bán chịu không thu được khó thu được hoặc đã bán lại cho người khác. Các khoản cho vy ngắn hạn liên quan chặt chẽ tới tình hình ngân qũi của khách hàng, đặc biệtthời hạn cho vay có thể tính toán dựa trên số ngày của kì thu tiền.
- Các chứng khoản có giá: Là các tài sản chính của kinh doanh nghiệp. Các tài sản này tăng nguồn thu và có thể mang bán khi càn tiền để chi trả.
- Hàng hoá trong kho: Rất nhiều các món vay ngắn hạn với mục tiêu tăng dự trữ hàng hoá, có nghĩa là một phần hàng hoá trong kho được hình thành từ vốn vay ngân hàng. Do đó, ngân hàng quan tâm tới số lượng, chất lượng, giá cả, mẫu mã, bảo hiểm, rủi ro đối với hàng hoá trong kho. Ngoài xem xét trên sổ sách, ngân hàng còn yêu càu người vay mở kho hàng kiểm tra để loại trừ hàng hoá kém, mất phẩm chất, chậm tiêu thụ, phát hiện hàng giả, hàng người khác gửi....
- Tài sản cố định: Gồm nhà cửa, sân bãi, trang thiết bị, phương tiện vận chuyển, thiết bị văn phòng... thường là đối tượng tài trợ trung hạn và dài hạn.
Đánh giá các khoản nợ
Nợ của người vay có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
- Về thời gian, gồm nợ ngắn hạn (vay ngắn hạn) và nợ trung và dài hạn trong năm (các khoản nợ ngắn và trung, dài hạn phải trả trong năm) và các khoản nợ phải trong các năm sau. Nhìn chung, các khoản vay ngắn hạn thường dùng tài trợ cho tài sản lưu động, còn các khoản vay trung và dài hạn dùng tài trợ cho tài sản cố định. Do đó, tính tương quan giữa chúng là đố tượng phân tích của ngân hàng. Nếu khoản cho vay của ngân hàng phải trả trong năm thì các khoản nợ đến hạn và ngân quỹ trong năm của khách hàng là hai yếu tố chính tạo nên quyết định của ngân hàng. Ngân hàng cũng quan tâm tới nợ quá hạn và các nguyên nhân.
Ngân hàng quan tâm tới tất cả các chủ nợ của khách hàng: Có thể là các khoản nợ cũ, các khoản nợ của các ngân hàng khác nợ người cung cấp, nợ người lao động. Vị trí của ngân hàng trong danh sách chủ nợ luôn được nghiên cứu kĩ lưỡng. Nếu ngân hàng giành vị trí quan trọng nhất, nó đễ dàng thu được nợ hơn là các vị trí khác.
Ngân hàng cũng xem xét cá khoản nợ ưu đãi nợ có đảm bảo và nợ khác. Các tài sản đã là đảm bảo cho khoản vay cũ càn phải được tính lại theo giá thị trường và bị loại trừ: nếu chúng được lấy làm tài sản đảm bảo cho khoản vay mới thì cần tính toán giá trị dôi thừa so với tiền vay cũ.
Phân tích luồng tiền:
Nhiều khách hàng tạo ra lợi nhuận trong quá khứ, thậm chí có khả năng tạo ra lợi nhuận trong tương lai. Tuy nhiên việc trả nợ ngân hàng lại liên quan chặt chẽ tới ngân quỹ của người vay (ví dụ cho vay tiêu dùng nguồn trả nợ là các khoản thu nhập bằng tiền của người vay kì hạn thu nợ có thể lệch pha với các khoản thu của người vay). Trong khi lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng sinh lợi. Trên thực tế tỉ lệ dòng tiền/tổng các khoản nợ là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với việc dự đoán các vấn đề tín dụng trong tương lai. Tuy nhiên nhiều khoản mục liên quan đến dòng tiền không được chỉ dẫn đầy đủ trong cân đối tài sản công ty: Phần lớn luồng tiền sau tháng 12 đều không ghi vào bảng cân đối (các tài sản chỉ ghi lại những gì đã xảy ra trong năm vừa qua), các trách nhiệm thanh toán không được chỉ ra trong cân đối khi mà vào thời điểm đó nó không tồn tại. Bán hàng là nguồn tiền quan trọng để trả nợ song bảng cân đối trình bày rất ít về bán hàng.
Để hỗ trợ cho ngân hàng và khách hàng các luồng tiền trong tương lai – phụ thuộc vào kế hoạch chi tiêu trong tương lai – cần được dự kiến. Kế hoạch này ghi lại vận động hàng tháng của các khoản tiền mặt tiền gửi ngân hàng các khoản thanh toán hàng tháng. Người vay có lợi nhuận trong hiện tại có thể có dự án chi trong tương lai cao và với doanh thu bán hàng không đổi, sẽ có thể luồng tiền âm (không có khả năng chi trả).
Sử dụng các tỉ lệ:
Sau khủng hoảng 1929 – 1932 rất nhiều các ngân hàng phát hiện rằng họ không thu được nợ (và như vậy là không có khả năng chi trả) ngay cả khi họ cho vay các khoản vốn lưu độngphù hợp. Cung với các khoản cho vay ngắn hạn đã xuất hiện ngày càng nhiều các khoản vay dài hạn mà mối tương quan với vốn của chủ sở hữu và các luồng trả nợ trở nên rất quan trọng. Để quá trình phân tích tín dụng được thực hiện với thời gian ngắn và phần nào được tiêu chuẩn hoá, các ngân hàng đều cố gắng xây dựng các tỷ lệ phản ánh năng lực tài chính của người vay có liên quan đến khả năng trả nợ. Các tỷ lệ này sẽ được áp dụng trong phân tích đối với từng người vay có tính đến các điều kiện cụ thể. Trong nhiều trường hợp ban lãnh đạo ngân hàng còn yêu cầu cá bộ tín dụng sắp xếp và cho điểm đối với từng tỷ lệ của mỗi người vay. Điểm càn chú ý là các tỉ lệ này thường được cấu thành từ hai số có bản chất khác nhau, do đó tìm kiếm các số có mối tương quan với nhau là rất cần thiết. Hơm nữa các tỷ lệ này lấy từ các báo cáo tài chính phản ánh tình hình đã đang xảy ra trong khi ngân hàng lại quan tâm chủ yếu tới nhưng cái sẽ xảy ra, do đó các tỷ lệ này không phải lúc nào cũng là những chỉ dẫn cho các quyết định của ngân hàng.
Các tỉ lệ: gồm có những tỷ lệ đo thanh khoản, tỷ lệ đo khả năng tạo lợi nhuận, tỷ lệ đó khả năng tài trợ bằng vốn tự có, tỷ lệ đo rủi ro.
Nhóm tỷ lệ thanh khoản:
Nhóm tỷ lệ thanh khoản đo khả năng của người vay trong việc đáp ứng trách nhiệm tài chính ngắn hạn. Dựa vào đó ngân hàng tìm kiếm khả năng thanh toán các khoản nợ khi đến hạn của người vay. Nhìn chung các tỷ lệ nay càng cao thì khả năng thanh toán của người vay có thể càng tốt.
Tỷ lệ thanh toán nhanh
=
Ngân quĩ của người vay
các khoản nợ hiện hành (gồm các khoản nợ ngắn hạn trung hạn đến hạn trả trong kì)
Mẫu số phản ánh nợ đến hạn sắp phải trả trong khi đó tử số gồm tiền mặt trong két và tiền gửi ngân hàng hiện có, các khoản đang trong quá trình thu (sắp thu). Đáng chú ý là tiền mặt và tiền gửi có thể giảm nhanh chóng do người vay cần thanh toán tiền mua hàng hoá hoặc trả lương, các khoản đang trong quá trình thu có thể không thu được. Do đó ngân hàng càn xem xét kĩ lưỡng các khoản dang trong quá trình thu, tính số ngày của một lần thu, loại trừ nợ nần dây dưa.
Tỷ lệ thanh toán trung bình
=
Tài sản lưu động
Nợ hiện hành
Tử số gồm ngân quỹ và hàng hoá của người vay. Điều đáng quan tâm là giá cả hàng hoá kém luân chuyện. Ngân hàng phải loại những hàng hoá này ra khỏi tử số của tỷ lệ thanh toán.
Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng phân tích các tỷ lệ thích hợp. Nếu cho vay trong thời gian ngắn 2 - 3 tháng ngân hàng cần chú ý đến tỷ lệ thanh toán nhanh; còn cho vay 9- 12 tháng ngân hàng cần chú ý đến thanh khoản trung bình.
Nhóm tỷ lệ sinh lợi:
Nhóm tỷ lệ sinh lợi đo khả năng tạo lợi nhuận của người vay. Khả năng sinh lời cảu người vay quyết định khả năng hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng. Các tỷ lệ này đều có tử số là thu nhập ròng trước hoặc sau thuế hu nhập, hoặc doanh thu và mẫu số là vốn tự có, vốn lưu động, vốn cố định hoặc tổng vốn. Có thể hỏi là tại sao ngân hàng lại quan tâm tới khả năng sinh lời khi mà luồng tiền có tầmquan trọng đối với khoản trả nợ. Khả năng thu về lượng giá trị lớn hơn giá trị đầu tư ban đầu. Một người vay làm ăn thua lỗ mà vẫn trả nợ được ngân hàng thì chỉ có thể là dùng vốn tự có (giảm vốn tự có) hoặc dùng nợ nuôi nợ (vay người này trả người khác). Cả hai con đường này đều tiềm ẩn rủi ro đối với người cho vay.
Để phân tích tỷ lệ sinh lợi bên chạnh bảng cân đối tài sản ngân hàng càn có báo cáo thu nhập của người vay.
Nhóm tỷ lệ rủi ro (RR):
Rủi ro của người vay rất đa dạng. Chúng ta có nhiều trường hợp điều chỉnh rủi ro trong mọi trường hợp. Danh sách sau trình bày cách tiếp cận rủi ro của mọi người vay.
- Sản xuất: Doanh ngiệp có bao nhiêu nguồn cung cấp nguyên vật liệu? Tác động trong thay đổi chi phí là gì? Cái gì là yếu tố chi phí quan trọng nhất? Lao động? Vốn? Có thay đổi nhanh trong kĩ thuật? Chi phí là bao nhiêu? Tính phụ thuộc vào các doanh nghiệp khác nhau như thế nào? Tác động của nghiên cứu và phát triển? Tác động của thay đổi cơ cấu chi phid là gì? RR tác động tới việc dử dụng trang thiết bị là gì?
- Tiếp thị: Các nhân tố tác dộng tới việc bán hàng? Cầu co dãn với giá? Thu nhập là co dãn? Sản phẩm thay thế là gì? Nhập khẩu có lớn không? Chiến lược cạnh tranh là gì? Những gì cản trở việc đối thủ khác gia nhập vào ngành? Thay đổi trong nhu cầu của khách? Người bán có quyền lực hơn người mua? Rủi ro thua lỗ của khách hàng là chính là gì?
- Nhân sự: Cái gì làm tăng năng suất lao động tăng? Cái gì khuyến khích người lao động? Rủi ro của đình công? Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào những cá nhân đặc biệt?
- Tài chính: Sức chịu đựng của doanh nghiệp đối với lãi suất? Có bao nhiêu cách huy động tiền? Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào một dự án? việc đa dạng các nguồn thu?
- Chính sách của Chính phủ: Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thể tác động tới khách hàng như thế nào? Chính sách kinh tê? Bảovệ nhập khẩu? Trở cấp xuất khẩu? Hợp đồng với Nhà nước? Giấy phép đối với sản phẩm mới?
- Nhóm tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn sở hữu: thông thường một doanh nghiệp phải có vốn sở hưu đủ để tài trợ một phần cho tài sản lưu động và tài sản cố định.
Tỷ lệ tài trợ bằng vốn sở hưu
=
Vốn sở hữu
Tổng tài sản
Tỷ lệ này cho thấy sức mạnh tài chính của người vay. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay tỷ lệ này vào khoảng 0,3- 0,4 hoặc thấp hơn buộc ngân hàng phải thận trọng và kiểm soát chặt chẽ các khoản cho vay.
Tuỳ theo yêu cầu vay ngắn hạn hay trung và dài hạn mà ngân hàng tập trung chú ý vào tỷ lệ tài trợ cho tài sản lưu động hay tài sản cố định. Khi cho vay ngắn hạn ngân hàng xem xét vốn lưu động tự có của doanh nghiệp. Một khoản xin vay ngắn hạn có thể được ngân hàng chấp nhận nếu không làm xấu đi tình trạng tài trợ của doanh nghiệp. (Ngân hàng sẽ cộng thêm khoản vay mới để xác định lại tỷ lệ này). Nếu doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn thì khâu hao và thu nhập sau thuế là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng.
Các điều kiện kinh tế:
Các kết quả phân tích trên cho ngân hàng thấy một phần quá khứ và iện tại của khách hàng. Điều ngân hàng quan tâm hơn là khả năng trong tương lai của khách hàng, có thể là trong mấy tháng hoặc một năm. Thời hạn càng dài dự đoán càng khó chính xác đó là do tác động của các điều kiện kinh tế. Thiên tai các thay đổi bất thường trong đời sống chính trị, khủng hoảng kinh tế vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành... làm thay đổi các tính toán ban đầu, dẫn đến giảm hoặc mất khả năng trả nợ của khách hàng. Tổn thất của khách hàng đến tổn thất của ngân hàng chỉ trong gang tấc.
Bước 2. Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ (khách hàng) và ngân hàng với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng (hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoản thời gian và lãi suát nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phản tuân thủ các điều khoản của các Luật, Qui định. Do vậy cả ngân hàng lẫn khách hàng đều cần cân nhắc kĩ lưỡng trước khi kí kết hợp đồng tín dụng. Sau đây là nội dung chính của hợp đồng tín dụng:
Khách hàng: Họ tên địa chỉ tư cách pháp nhân (nếu có).
Mục đích sử dụng: khách hàng phải ghi rõ vay để làm gì.
Số lượng tín dụng: là số tiền (hoặc hạn mức tín tín dụng) ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng. Số lượng tín dụng có thể được chia nhỏ trong các khoan thời gian khác nhau và dưới các hình thức tiền tệ khác nhau.
Lãi suất: Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ lãi xuất mà khách hàng trả đồng thời xác định tính chất của lãi xuất (là lại suất có định hay biến đổi trong suốt kì hạn tín dụng). Nếu lãi suất có thay đổi thì phải xác định rõ các điều kiện thay đổi đó.
Phí: Để có được các cam kết tín dụng có thể khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản phí (ví dụ phí cam kết) được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên hạn mức cam kết. Mức phí và các điều kiện nộp phải được thể hiện trong hợp đồng tín dụng.
Thời hạn tín dụng: Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngay, tháng, năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoạn tín dụng . Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Thời hạn tín dụng có thể là thời gian mà khi kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét lại quan hệ tín dụng với kách hàng. Có khoản cho vay không xác định trước thời hạn như cho vay luân chuyển. Khách hàng thoả thuận với nhân hàng về việc ngan hàng được quyền tríchtiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền.Thời hạn tín dụng có thể được chia thành thời gian đầu tư thời gian ân hạn và thời gian trả nợ; thời gian trả nợ có thể được chia thành nhiều kì hạn nợ nhỏ. Thời gian chiết khấu thương phiếu là thời hạn còn lại của thương phiếu. Thời hạn bảo lãnh là thời gian có hiệu lực của bảo lãnh được thoả thuận ghi trong hợp đồng bảo lãnh.Nếu là cho thuê thời gian được tính từ lúc ngân hàng giao tài sản cho khách hàng đến lúc khách hàng hoàn đủ tiền thuê.
Các loại đảm bảo: Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ các loại đảm bảo (nếu có) cho các khoản tín dụng (kèm theo các hợp đồng phụ) như hợp đồng bảo lãnh vật tư hàng hoá trong kho tài sản cố định hoặc các chứng khoang có giá trị... Các nội dung quan trọng liên quan đến các đảm bảo như quyền sở hữu quyền chuyển nhượng hoặc bán, định giá, bảo hiểm, ngườ bảo quản, quyền sử dụng đối với các đảm bảo...đều phải được xác định và ghi rõ trong hợp đồng tín dụng.
Giải ngân: Hợp đồng tín dụng thường xác định các điều kiện và kì hạn giả ngân. Thường các khoản cho vay nhỏ và trong thời gian ngắn ngân hàng cấp tiền vvay một lần vào đầu kì. Đối với các khoản vay lớn và thời gian dài ngân hàng cấp tiền theo nhiều kì hạn và với các điều kiện cụ thể của mỗi lần cấp vốn. Ví dụ hợp đồng kì cho vay 300 triệu trong thời hạn 9 tháng để thanh toán tiền hàngnhập khẩu. điều kiện giải ngân là nhập về đến đau cho vay đến đó (kèm chứng từ) hoặc trả song khoản vay đợt trước mới cấp tiền đợt sau.
Điều kiện thanh toán: Bao gồm các thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng thoả thuận về cách thức thanh toán gốc và lãi (ngay trả, cách trả).
Các điều kiện khác: Bao gồm thanh toán tiền gốc và lãi. Ngân hàng ưu tiên thanh toán, kiểm soát vật thế chấp và các hoạt động khác của người vay, phong toả tài sản điều kiện và phương thức phát mại tài sản, nộp báo cáo định kì, phạm vi phạm hợp đồng...
Bước 3. Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng
Sau khi hợp đồng tín dụng đã được kí kết ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền (hoặc thanh toán tiền hàng) cho khách hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng ngân hàng kiểm soát khách hàng: sử dụng tiền vay có đúng mục đích đúng tiến độ hay không, quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ... Quá trình nay cho phép ngân hàng thu thậ thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại khi chất lượng khoản cho vay bị đe doạ ngân hàng cần có các biện phấp xử lí kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp giảm số tiền vay ... khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đối với ngân hàng đây là bước đi nguy hiểm. Do vây cho tài trợ gắn liền với kiểm soát khách hàng giúp ngân hàng ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng. Đây cũng là quá trình ngân hàng thu nhập thêm các thông tin bổ sung cho các thông tin ở bước 1 và ra các quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu.
Bước 4 . Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản là các khoản tín dụng an toàn. Một số trường hợp các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc không hoàn trả đủ đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các “trục trặc” trong hoạt động của khách hàng . Việc xem xét tìm nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của tín dụng.
Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng cố tình nợ nần dây dưa hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn ngân hàng áp dụng phương án thanh lí tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi khoản nợ bao gồm phong toả và bán các tài sản thế chấp tước đoạt các khoản tiền gửi...
Trường hợp khách hàng co kho khăn về tài chính song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác bao gôm gia hạn nợ giảm lãi hoặc cho vay thêm.
1.2.4. Viết báo cáo tín dụng
1.2.4.1. Sự cần thiết viết báo cáo tín dụng
Tiếp xúc với khách hàng là cán bộ tín dụng. Thông thường tại ngân hàng cơ sở một cán bộ tín dụng phải chịu nhiều thẩm định và theo dõi việc tài trợ cho nhiều khách hàng. Kết thúc quá trình điều tra tín dụng hoặc sau một giai đoạn cho vay cán bộ tín dụng (hoặc nhóm cán bộ ngân hàng nếu đó là khoản cho vay lớn) phải viết báo cáo tín dụng trình bày các kết quả phân tích lên cho trưởng nhóm trưởng phòng hoặc Ban giám đốc ngân hàng biết để ra các quyết định tín dụng (tài trợ hay không, các nội dung tài trợ tiếp tục giải ngân hoặc ngừng phát mại tài sản
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32676.doc