Sử dụng vi sinh với liều lượng 200g/ao sau đó khoảng 2-3 ngày thì dùng vôi kết hộp với dolomit khoảng 150kg/ao rồi sục khi liên tục trong 1 tuần. trước khi thả tôm thì sử dung vi sinh lại lần nửa để khoảng 3 ngày thì tiến hành thả tôm.
Màu nước có ý nghĩa rất lớn đối với ao nuôi tôm để :
Làm tăng lượng ôxy hoà tan trong nước.
ổn định chất nước và làm giảm các chất độc trong nước.
Làm thức ăn bổ sung cho tôm.
Giảm độ trong của nước giúp cho tôm nuôi dễ tránh địch hại.
Nâng nhiệt và ổn định nhiệt trong ao.
Hạn chế tảo sợi và tảo đáy phát triển.
Hạn chế các loại vi khuẩn gây bệnh phát triển; đảm bảo cân bằng sinh thái vùng nước.
Lắp đặt hệ thống sục khí: ban đầu 4-5 quạt/ao, khi tôm lớn 8-10 quạt/ao.
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6902 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh với mật độ 180con/m2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n/ha/vụ.
Hiện nay, nguồn con giống tôm thẻ chân trắng nhập vào Việt Nam từ nhiều nguồn khác nhau trước đây là Hawai nhưng hiện nay đa số là từ Trung Quốc đã được nuôi ở nhiều địa phương ở Việt Nam như Quảng Ninh, Phú Yên… và các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long như Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Long An… cũng mang lại nhiều hứa hẹn, tôm thẻ chân trắng đã mở ra một hướng mới cho nghề nuôi tôm biển, góp phần làm đa dạng hóa đối tượng nuôi ở Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung.
2.3. Tình hình năm 2010:
Năm 2010, Nhật Bản vẫn là thị trường nhập khẩu tôm lớn của Việt Nam, thị trường này đang gia tăng nhập khẩu tôm thẻ chân trắng, chiếm tới 18% khối lượng tôm nhập khẩu. Năm 2010, Hàn Quốc sau khủng hoảng cũng sẽ là thị trường quan trọng đối với tôm Việt Nam.
Qua những dự báo, nhận định khả quan như vậy, nhưng những tháng đầu năm 2010,tôm nguyên liệu thiếu trầm trọng do dịch bệnh hoành hành. Dịch bệnh tôm đang xảy ra ở nhiều địa phương, gây thiệt hại lớn ở các tỉnh Long An, Bạc Liêu, Quảng Trị. Báo cáo của Chi cục Thú y Long An cho biết, trong tỉnh hiện đã có 1.153ha tôm chết, chiếm 49% diện tích thả nuôi. Tôm thẻ chân trắng thiệt hại chiếm 79,6%; tôm sú thiệt hại chiếm 61,8% diện tích nuôi
Nguyên nhân tôm bị dịch là do chất lượng tôm giống không đảm bảo, bởi 75% tôm giống được nhập từ bên ngoài tỉnh về không qua kiểm dịch, mặt khác nguồn nước kênh cung cấp cho toàn vùng bị ô nhiễm do hóa chất từ nước thải các nhà máy. Tại Trà Vinh, trong 535 triệu con tôm sú thả nuôi đầu vụ đã có hơn 100 triệu con bị chết. Tại Bạc Liêu, khoảng 6.000ha tôm thuộc các huyện Phước Long, Giá Rai... bị thiệt hại do nắng nóng, nhiệt độ chênh lệch cao, thiếu nước gây ra.
Để hạn chế dịch bệnh trên tôm thẻ chân trắng, Chi cục nuôi trồng thuỷ sản Quảng Nam đã hướng dẫn các địa phương thông báo cho người nuôi phải đóng chặt cống, giữ nguồn nước, không cho thải ra để không lây lan sang hồ nuôi khác, dùng thuốc Chlorin để diệt mầm bệnh; sau đó cải tạo, xử lý lại hồ nuôi để xuống giống lại cho vụ 1 năm nay. Theo thống kê sơ bộ, đến thời điểm hiện tại đã có trên 90% số diện tích nuôi tôm đã bị dịch bệnh, gây thiệt hại cho người nuôi hàng chục tỉ đồng.
Kết quả kiểm tra của các chuyên gia thuỷ sản Phú Yên cho biết, tôm nuôi ở vùng Đà Nông có triệu chứng bỏ ăn, bị bệnh taura, đỏ thân, đốm trắng, nổi lên mặt nước rồi đâm đầu vào bờ chết hàng loạt. Nguyên nhân chính là do ô nhiễm môi trường nguồn nước nghiêm trọng.
Tình trạng nắng nóng kéo dài, khô hạn làm cho dòng chảy kém lưu thông, trong khi đó một số người nuôi thiếu ý thức cộng đồng, mạnh ai nấy thả tôm không theo thời vụ, đã xả nước thải của những ao hồ bị dịch bệnh ra sông, khiến cho cả vùng nuôi bị ô nhiễm nặng. Thêm vào đó, hầu hết bà con đều chuyển sang thả nuôi tôm thẻ chân trắng với mật độ quá dày, khoảng 100con/m2 (dày gấp đôi so với quy định mật độ tôm nuôi), trong khi nguồn tôm giống mua trôi nổi ở nhiều nơi, không qua kiểm dịch. Do đó, tình trạng dịch bệnh xãy ra lan tràn là không thể tránh khỏi (Thế Thị Xuân Hiệp-08141161 DH08NY).
2.4. Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng ở Bạc Liêu:
Từ nhiều năm trước, ở Bạc Liêu có một Công ty 100% vốn nước ngoài đã nuôi tôm thẻ chân trắng. Công ty này đã nhập tôm giống và tôm bố mẹ để sản xuất giống, ương nuôi, nhân rộng dưới sự giám sát của Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bước đầu đã mang lại một số thành công nhất định, tôm phát triển khá tốt, năng suất đạt khá. Tuy nhiên, khi nhân rộng cho một số hộ nuôi tôm trong và ngoài tỉnh thì gặp rất nhiều khó khăn. Do đây là một đối tượng nuôi quá mới với người dân, quy trình kỹ thuật nuôi chưa được hoàn chỉnh, cộng với thị trường đầu ra không ổn định ( chủ yếu tiêu thụ tại thị trường nội địa ) nên hiệu quả kinh tế không cao, từ đó không khuyến khích người dân đầu tư nuôi loại tôm này. Sở Thủy sản ( nay là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) cũng đã từng có một đề án nuôi thử nghiệm tôm thẻ chân trắng theo hướng quảng canh nhưng hiệu quả ra sao vẫn chưa được công bố, rút kinh nghiệm (!?). Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 10 ha nuôi tôm thẻ chân trắng, tập trung chủ yếu tại thị xã Bạc Liêu .
Trong năm 2010 trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu tổng diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng là 118,4 ha (CN-BCN là 93 ha, QCCT: 25,4 ha). So với cùng kỳ năm 2009 (334 ha) thì diện tích nuôi tôm chân trắng giảm đến 35,4 % và giảm chủ yếu ở mô hình nuôi tôm theo hình thức CN-BCN. Năm 2010 có tới 84,1 ha diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng nằm ngoài vùng quy hoạch, tập trung chủ yếu ở 4 huyện, thị Giá Rai, Đông Hải, Phước Long và thị xã Bạc Liêu. Trong đó, huyện Giá Rai và Đông Hải thị xã Bạc Liêu nuôi CN-BCN với diện tích 58,7 ha, riêng huyện Phước Long nuôi với hình thức kết hợp tôm thẻ chân trắng và tôm sú với 25,4ha.
2.5. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
2.5.1. Phân loại
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ chung: Penaeidea
Họ: Penaeus Fabricius
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus vannamei
(Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006)
2.5.2. Đặc điểm phân loại
Chủy hơi cong xuống, có 8 – 9 răng trên chủy và có 1- 3 răng dưới chủy. Cơ thể có màu trắng và chân màu trắng hay nhợt nhạt (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004)
2.5.3. Đặc điểm phân bố và nguồn gốc.
Tôm chân trắng (P.vannamei) có nguồn gốc từ vùng biển xích đạo Ðông Thái Bình Dương (biển phía Tây Mỹ La tinh) và được nuôi phổ biến ở Ecurador. Ðây là loài tôm quý có nhu cầu cao trên thị trường được nuôi phổ biến ở khu vực Mỹ La tinh và cho sản lượng lớn gần 200 nghìn tấn (1999). Hiện nay được di nhập nhiều nước ở châu Á.Tôm thẻ chân trắng được thuần hóa và thành công ở philipine(1978), ở Trung Quốc(1988) (Ts.Phạm Xuân Thủy, KS.Phạm Xuân Yến, KS. Trình Văn Liễn, thuộc viện nuôi trồng thủy sản trường Đại Học Nha Trang)
Tôm chân trắng là loài tôm nhiệt đới, có khả năng thích nghi với giới hạn rộng về độ mặn và nhiệt độ. Mặc dù tôm có khả năng thích nghi với giới hạn rộng về nhiệt độ (15 – 33oC), nhưng nhiệt độ thích hợp nhất cho sự phát triển của tôm là 23 – 320C. Nhiệt độ tối ưu cho tôm lúc nhỏ (1g) là 30oC và cho tôm lớn (12 – 18g) là 27oC.( TS. Trần Viết Mỹ)
2.5.4. Vòng đời của Tôm Thẻ Chân Trắng
Ấu trùng (6 giai đoạn Nauplius, 3 giai đoạn Protozoa và 3 giai đoạn Mysis) – hậu ấu trùng - ấu niên – trưởng thành. Thời kỳ ấu trùng tôm sống ở cửa sông sau đó thì di cư ra vùng ven biển gần bờ.
Ở thời kỳ ấu niên và thiếu niên Tôm Thẻ sống ở vùng cửa sông. Ở giai đoạn sắp trưởng thành và trưởng thành, khi tôm có thể tham gia sinh sản lần đầu thì chúng sống ở vùng triều ở độ sâu khoảng 7- 20m nước. Đối với những con trưởng thành và sản phẩm sinh dục đã chín hoàn toàn thì chúng di chuyển ra vùng biển khơi ở độ sâu khoảng 70m nước và tham gia sinh sản tại đây.
Trứng và ấu trùng Mysis sống và phát triển tại vùng biển khơi theo dòng nước trôi dạt vào bờ. Khi đến vùng triều thì ấu trùng đã chuyển sang giai đoạn Postlarvae và tiếp tục theo thủy triều trôi dạt vào vào vùng cửa sông, phát triển thành ấu niên và tiếp tục vòng đời của chúng.
2.5.5. Đặc điểm sinh trưởng và sự lột xác (Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006)
Sự tăng trưởng về kích thước của Tôm Thẻ có dạng bậc thang, thể hiện sự sinh trưởng không liên tục. Kích thước giữa hai lần lột xác hầu như không tăng hoặc tăng không đáng kể và sẽ tăng vọt sau mỗi lần lột xác. Trong khi đó sự tăng trưởng về trọng lượng có tính liên tục hơn. Tôm Thẻ có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, tốc độ tăng trưởng tùy thuộc vào từng loài, từng giai đoạn phát triển, giới tính và điều kiên môi trường, dinh dưỡng...
Tôm có tốc độ tăng trưởng nhanh, trong điều kiện nuôi, với môi trường sinh thái phù hợp, tôm có khả năng đạt 8 - 10g trong 60 - 80 ngày, hay đạt 35 - 40g trong khoảng 180 ngày. Tôm tăng trưởng nhanh hơn trong 60 ngày nuôi đầu, sau đó, mức tăng trọng giảm dần theo thời gian nuôi.
Tuổi thọ của tôm Thẻ
Tôm Thẻ có tuổi thọ ngắn, tuổi thọ của tôm đực thấp hơn tôm cái. Trong điều kiện sinh thái tự nhiên, nhiệt độ nước 30- 32°C, độ mặn 20- 40‰ từ tôm bột đến thu hoạch mất 180 ngày, cỡ tôm thu trung bình 40g/con, chiều dài từ 4cm tăng lên tới 14cm. Tuổi thọ trung bình của Tôm Thẻ > 32 tháng.
2.5.6. Đặc điểm dinh dưỡng
Tôm chân trắng là loài ăn tạp, ăn cả thực vật và động vật ở các dạng phiêu sinh, ăn chất hữu cơ…Đối với thức ăn công nghiệp thì cần độ đạm tương tối thấp khoảng 35% nên giá thức ăn thường thấp hơn tôm sú. Tốc độ sinh trưởng nhanh: sau 180 ngày thả tôm bột chúng có thể đạt 40 g/con. (Thái Bá Hồ, Ngô Trọng Lư, 2003; Bộ Thủy Sản, 2004)
Tôm chân trắng lột xác vào ban đêm, thời gian giữa 2 lần lột xác khoảng 1 – 3 tuần, tôm nhỏ (< 3g) trung bình 1 tuần lột xác 1 lần, thời gian giữa 2 lần lột xác tăng dần theo tuổi tôm, đến giai đoạn tôm lớn (15 – 20g), trung bình 2,5 tuần tôm lột xác 1 lần.
Nhờ đặc tính ăn tạp, bắt mồi khỏe, linh hoạt, nên tôm chân trắng trong quần đàn có khả năng bắt mồi như nhau, vì thế tôm nuôi tăng trưởng khá đồng đều, ít bị phân đàn.
2.5.7. Đặc điểm sinh sản
Sinh sản: 10 tháng tuổi thì tôm đạt tuổi thành thục. Tôm thẻ chân trắng là loài có thelycum hở. Quá trình sinh sản tuân theo thứ tự: lột xác – thành thục – giao vĩ – đẻ trứng. Tôm trưởng thành di cư ra vùng biển có độ mặn cao để sinh sản. (Nguyễn Khắc Hường, 2003)
Mùa vụ đẻ trứng và sức sinh sản
Ở Bắc Equado, mùa vụ đẻ rộ từ tháng 4 đến tháng 5. Ở Peru mùa đẻ rộ từ tháng 12 đến tháng 4. Số lượng trứng đẻ ra tùy theo kích cỡ của tôm mẹ. Nếu tôm có khối lượng 30- 35g thì đẻ khoảng 100.000 – 250.000 trứng, đường kính trứng khoảng 0,22mm. ( Thái Bá Hồ, Ngô Trọng Lư, 2006).
Chương III. NỘI DUNG
3. Thiết kế trại nuôi
Ao lắng chính
Ao
cách
ly
Ao nuôi 1
6000 m2
Ao nuôi 2
3000 m2
Ao nuôi 3 4000 m2
Ao nuôi 4 4000 m2
Ao nuôi 5
4000 m2
Ao nuôi 6 4000 m2
Ao xữ lý
KHU QUẢN LÝ
KÊNH DẪN NƯỚC
XỮ
LÝ
NƯỚC
SÔNG
ĐƯỜNG GIAO THÔNG
H
TRẠM BƠM NƯỚC
3.1 Bảng thiết kế tổng quát trại nuôi thâm canh.
Cống xã nước Cống xiphong
Cống cấp nước Quạt nước
Ưu điểm:
Nằm trong vùng quy hoạch được phép nuôi.
Có nguồn nước cấp phù hợp, không bị ô nhiễm công nghiệp, đáp ứng các yêu cầu về lý hóa của nước.
Có ao lắng, ao cách ly nên hạn chế được sự lây lan của mầm bệnh.
Đất ao nuôi có độ kết dính nên hạn chế sự thẩm thấu giữa các ao, giữa các mương.
Thuận lợi về giao thông, gần nguồn điện.
An ninh tốt.
3.2. Chuẩn bị ao nuôi.
3.2.1. Cải tạo ao
Đối với ao cũ:
Sau khi thu hoạch tôm xong thì xả hết nước, nạo vét hoặc hút hết lớp bùn nhão đổ vào khu vực chứa thải rồi phơi đáy ao.
Tu sữa lại những chỗ bạt bị rách.
Đối với ao mới:
Bơm nước vào trong ao lắng để lắng khoảng 1 tuần sau đó lấy nước vào ao, ngâm 2 – 3 ngày rồi tháo cạn, thực hiện lặp lại 2 - 3 lần. quá trình lấy nước vào ao được lọc qua 2 lớp túilọc mịn để tránh cá tạp, trứng giáp xác vào ao.
Gia cố bờ ao, lót bạt đáy và bạt bờ. Ngoài ra, còn sử dụng lưới chim để bảo vệ ao nuôi.
Nhận xét:
Do Công Ty đã nuôi thẻ nhiều năm nên quy trình cải tạo ao rất khoa học, đã tạo điều kiện môi trường tốt trước khi thả giống, qua đó đã chống được mầm bệnh trong ao nuôi đồng thời cũng tăng tỉ lệ sống.
3.2.2. Diệt tạp
Lấy nước vào ao qua vải lọc, khi lượng nước cấp khoảng 1/3 ao thì dùng Clear Cup liều lượng 500ml/ao để tiêu diệt trứng giáp xác, cua,còng…
Sau đó tiếp tục cấp nước vào đầy ao rồi dùng Saponine với liều lượng từ 100-150kg/ao. Trước khi sử dụng mở hết quạt nước khoảng 1h. Ngâm Saponin trong nước ngọt trên 12 tiếng rồi té đều ra khắp ao, sử dụng vào ban đêm khoảng 21-22h tối.
Khi sử dụng xong thì chạy quạt tiếp tục khoảng 2h thì tắt quạt, qua ngày sau khi có nắng thì mở quạt chạy liên tục trong một ngày.
3.2.3. Khử trùng nguồn nước
Trong nước ao thường có nhiều mầm bệnh như virus, vi khuẩn, nấm, tảo độc và nguyên sinh động vật sinh ra các bệnh: đốm trắng, đầu vàng, MBV, đỏ mang, đóng rong….. Vì vậy, trước khi thả tôm giống cần phải khử trùng nước. Hoá chất dùng để khử trùng nguồn nước phổ biến là chlorine. Sau khi sử dụng saponine khoảng 5-7 ngày thì dùng chlorine để diệt khuẩn.
Chlorine có tác dụng diệt khuẩn rất tốt mỗi ao có thể dùng từ 20-30 kg hoà loãng với nước ao phun đều khắp ao. Trước khi thả tôm giống phải mở máy quạt nước cho bay hết khí chlo còn lại trong nước (thường thì từ 25-30 ngày). Sau đó test lại chlorine trước khi gây màu nước.
3.2.3. Gây màu
Sử dụng vi sinh với liều lượng 200g/ao sau đó khoảng 2-3 ngày thì dùng vôi kết hộp với dolomit khoảng 150kg/ao rồi sục khi liên tục trong 1 tuần. trước khi thả tôm thì sử dung vi sinh lại lần nửa để khoảng 3 ngày thì tiến hành thả tôm.
Màu nước có ý nghĩa rất lớn đối với ao nuôi tôm để :
Làm tăng lượng ôxy hoà tan trong nước.
ổn định chất nước và làm giảm các chất độc trong nước.
Làm thức ăn bổ sung cho tôm.
Giảm độ trong của nước giúp cho tôm nuôi dễ tránh địch hại.
Nâng nhiệt và ổn định nhiệt trong ao.
Hạn chế tảo sợi và tảo đáy phát triển.
Hạn chế các loại vi khuẩn gây bệnh phát triển; đảm bảo cân bằng sinh thái vùng nước.
Lắp đặt hệ thống sục khí: ban đầu 4-5 quạt/ao, khi tôm lớn 8-10 quạt/ao.
3.3 . Con giống
3.3.1. Chọn tôm giống
Chỉ tiêu cảm quan:
Trạng thái hoạt động: tôm bơi thành đàn ngược dòng liên tục quanh thành bể ương hoặc chậu, có phản xạ tốt khi có tác động đột ngột của tiếng động mạnh hoặc ánh sáng.
Ngoại hình: các phụ bộ hoàn chỉnh, đầu và thân cân đối, không có dị tật; chân đuôi mở rộng dạng chữ V khi bơi.
Kiểm tra chất lượng con giống bằng phương pháp PCR.
Công Ty bắt tôm giống từ Công Ty cổ phần chăn nuôi CP từ PL8 –PL 9.
3.3.2. Thả giống
Thả tôm vào ao khi ao đã được gây màu nước tốt đủ thức ăn tự nhiên cho tôm. Trước khi thả tôm kiểm tra các yếu tố môi trường như pH, độ kiềm, độ mặn...giữa trại giống và ao nuôi. Nếu có sự khác biệt thì phải điều chỉnh thích hợp để tránh sốc cho đàn giống.
Thả lúc sáng sớm hoặc chiều tối, nhiệt độ thấp trong ngày. Thông thường thì thả vào khoảng 4h sáng, trước khi thả thì thuần tôm bắng cách, trước hết rữa bọc chứa tôm qua nước có chứa dung dịch Povidine, có tác dụng diệt khuẩn tránh mầm bệnh xâm nhập trực tiếp vào ao, rữa lại bằng nước rồi mới cho tôm vào bể composit 500L. lấy nước trong ao cho vào bể khoảng 2/3 bể. sau đó cho tôm vào kết hợp với sục khí khoảng 20 phút sau khi thấy tôm hoạt động nhanh trong bể thì tiến hành thả tôm xuống ao. Vận hành hệ thống sục khí trước khi thả giống 3 giờ. Mật độ thả từ 150-180 con/m2.
Nhận xét:
Tuy mật độ thả của Công Ty rất cao nhưng tôm vẫn phát triển bình thường không phân tàn là do điều kiện quản lý tốt. Ngoài ra thì Công Ty có nhiều năm kinh nghiệm.
Trước khi đi bắt giống thì Công Ty đã thông báo cho nơi sản xuất biết trước độ mặn trong ao nuôi để cơ sở sản xuất biết và thuần độ mặn trước, khi bắt về thả thì tỷ lệ sống rất cao.
3.4. Cho ăn và quản lý thức ăn
Sử dụng thức ăn chuyên dùng cho Tôm chân trắng Hi-PO, có hàm lượng đạm > 400/0.tùy theo từng giai đoạn mà cung cấp thức ăn và khẩu phần ăn hợp lí.
Tôm từ 1-6 ngày tuổi sử dụng thức ăn HI-PO 7701. Cho ăn bằng phà và rãi đều khắp ao.
Từ ngày thứ 6-9 thì trộn thức ăn HI-PO 7701
và HI-PO 7702 lại với nhau. Đồng thời cho 1 ít thức ăn
vào trong nhá để tôm quen dần.
Đến ngày thứ 10 thì sử dụng thức ăn 7702 hoàn toàn
có hàm lượng đạm >400/0. ngoài ra còn tăng cường
hàm lượng vitamine, khoáng, acid amine thiết yếu,
Bổ sung chế phẩm sinh học tăng cường hệ vi sinh đường ruột, cải thiện độ tiêu hóa thức ăn cho tôm bằng cách trộn bổ sung trực tiếp vào thức ăn, thường thì trộn vào lúc 11h trưa và 15h chiều.
Khi tôm được 16 ngày thì trộn 2 loại thức ăn 7702 và 7703, lúc này sử dụng nhá để kiểm tra thức ăn nhằm cung cấp khẩu phần ăn cho hợp lí. cứ 1 lần cho ăn 10kg thì cho vào vó 100g.
Khi tôm được 26 ngày thì sử dụng thức ăn 7703.
Khi tôm được 33 ngày thì sử dụng thức ăn 7703 trộn với 7703p.
Khi tôm được 36 ngày thì sử dụng thức ăn 7703p lúc
này không còn trộn vitamine, khoáng, acid amine
thiết yếu và men tiêu hóa nữa mà thức ăn được cho ăn
bằng máy.
Khi tôm được 59 ngày thì sử dụng thức ăn 7703p trộn với 7704s.
Khi tôm được 67 ngày thì sử dụng thức ăn 7704s.
Khi tôm được 75 ngày thì sử dụng thức ăn HI-GRO 8804 cho đến khi thu hoạch.
Điều chỉnh lượng thức ăn cho ăn 4 ngày/lần,
buổi sáng cho ăn nhiều nhất còn buổi chiều ít nhất. Tuy nhiên lượng thức ăn thực tế được điều chỉnh hàng ngày, dựa vào kết quả kiểm tra nhá ăn sau mỗi lần cho ăn 150 – 180 phút.
Khi thời tiết thay đổi, nhiệt độ quá nóng hay quá lạnh
đều ảnh hưởng đến sức ăn của tôm. Vì thế, cần thay đổi
lượng thức ăn giữa các lần cho ăn trong ngày tùy vào
thời tiết, trên nguyên tắc tôm ăn mạnh nhất vào lúc trời nắng.
Nhận xét:
Qua số liệu thức ăn ở (Bảng 1) ta thấy lượng thức ăn tăng hay giảm phụ thuộc vào việc kiểm tra nhá, ngoài ra còn phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, nhiệt độ của nước, sức khoẻ, chất lượng nước ao nuôi, nhu cầu thực tế của tôm. Vì thế việc xác định lượng thức ăn phù hợp từng giai đoạn phát triển của tôm là rất cần thiết, vì khi tôm bị đói sẽ tăng trưởng chậm, sinh bệnh, thậm chí ăn thịt lẫn nhau. Trái lại, khi thức ăn quá nhiều, tôm không ăn hết gây lãng phí, ô nhiễm đáy và nước ao nuôi, tạo điều kiện cho vi khuẩn gây bệnh và tảo độc phát triển.
Trong khi cho ăn có bổ sung vitamin, khoáng, men tiêu hóa...vì thế làm tăng khả năng tiêu hóa thứ ăn và tăng sức đề kháng cho tôm.
3.5. Quản lý môi trường
Kiểm tra các yếu tố môi trường:
Kiểm tra 2 lần/ngày các yếu tố pH, nhiệt độ
Đối với độ kiềm, độ mặn được đo trước khi thả tôm
Kiểm tra 2 tuần/lần các yếu tố: NH3
Kiểm tra 1 lần/tháng các yếu tố: hàm lượng oxy
Kiểm soát, điều chỉnh pH, tăng độ kiềm trong ao nuôi bằng Dolomite (MgCaCO3) hoặc vôi (CaCO3), nhất là vào thời gian tôm lột xác.
Tăng cường oxy hòa tan bằng hệ thống quạt, vận hành 20 - 24 giờ/ngày đêm tuỳ vào giai đoạn nuôi, điều kiện thời tiết và chất lượng nước ao nếu ao có diện tích từ 4000-4500m2 thì phải sử dụng 8- 10 quạt nước. Ao từ 5000-6000m2 thì cần phải 12- 14 quạt nước mới cung cấp đủ oxy cho tôm. Ngoài ra việc lắp quạt cung cấp oxy cho tôm còn phụ thuộc vào mật độ nuôi và tỷ lệ sống của tôm, mà ta lắp cho hợp lý. Tăng cường sục khí vào cuối giai đoạn nuôi, những ngày nắng ít hay khi độ trong của ao giảm.
Cần lưu ý: Tắt bớt quạt nước khi cho tôm ăn và mở quạt nước lại sau khi cho ăn xong.
Sử dụng chế phẩm vi sinh nhằm tăng cường hệ vi sinh có lợi, giúp cải thiện nền đáy, chất hữu cơ trong nước và ổn định pH.
Chế độ thay nước: các ao nuôi tôm chân trắng thâm canh tại Công Ty không có thay nước, chỉ cấp nước khi cần: 3 - 6 lần/vụ. Nước được cấp vào ao bằng nguồn nước ngầm, thời điểm cấp nước tùy thuộc vào mực nước trong ao.
3.6. Quản lý sức khỏe tôm nuôi
Ao nuôi tôm nói chung, nuôi tôm chân trắng nói riêng, cần áp dụng các giải pháp phòng bệnh là chính. Việc phòng bệnh không hiệu quả, bệnh xảy ra, ngoài nguy cơ gây bùng phát dịch bệnh, quá trình xử lý bệnh sẽ dẫn đến các nguy cơ gây mất an toàn vệ sinh thực phẩm, tổn hại đến môi trường trong và ngoài ao nuôi và nhất định ảnh hưởng đến giá thành sản xuất.
Phòng bệnh bao gồm các hoạt động
Hạn chế các tác động xấu từ môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm như biến đổi của các chỉ tiêu lý, hóa học, sự gia tăng của mầm bệnh trong ao.
Ngăn ngừa các nguy cơ gây bệnh từ nguồn giống không đảm bảo, chất lượng nước cấp không đạt yêu cầu, quá trình xâm nhập của mầm bệnh từ bên ngoài do vệ sinh trang trại chưa phù hợp, …
Xử lý triệt để và có trách nhiệm khi bệnh xảy ra: báo ngay đến cơ quan liên quan vấn đề bệnh để xử lý kịp thời, đúng cách.
Cụ thể hơn, phòng bệnh trong quá trình nuôi bao gồm thực hiện tốt việc quản lý con giống, thức ăn, nguồn nước và theo dõi sức khỏe tôm nuôi.
Theo dõi sức ăn của tôm, đây được xem là một trong các dấu hiệu thể hiện rõ nhất tình trạng sức khỏe của tôm.
Quan sát hoạt động của tôm trong ao, biểu hiện của tôm vào nhá, các dấu hiệu cảm quan như tình trạng thức ăn trong ruột, các dấu hiệu bên ngoài khác, ..
Theo dõi dấu hiệu lột xác để kiểm soát chặt chẽ độ kiềm của nước, đảm bảo chất lượng nước để tôm phát triển tốt: tăng trọng tối đa và hình thành vỏ mới sau mỗi lần lột xác.19
Vệ sinh trang trại nuôi: Không xả rác, xả nước thải sinh hoạt, Dụng cụ, trang thiết bị sử dụng riêng biệt cho từng ao, công nhân được vệ sinh trước khi xuống ao tôm, kỹ thuật lao động trong trại.
3.7. Thu hoạch và xử lý chất thải
Kích cỡ tôm thu hoạch là 33 con/kg. Phương pháp thu hoạch tôm khá phổ biến là rút bớt nước xuống còn khoảng 1/3 ao, dùng lưới điện (kích điện) đánh bắt hầu hết số tôm trong ao và tác cạn ao thu số tôm còn lại.
Dụng cụ thu hoạch, cách thu hoạch phải ngâm qua
thuốc tím để tránh lây nhiễm giữa các ao: sử dụng dụng
cụ thu hoạch riêng rẽ cho từng ao hoặc vệ sinh kỹ
(giặt sạch, phơi ráo) trước khi sử dụng tiếp cho ao khác.
Nước thải và chất lắng đọng phải được xử lý trước khi
thải ra ngoài môi trường xung quanh: nếu cần phải thải
ngay, phải để lắng và xử lý bằng hóa chất diệt khuẩn (chlorine)
Phải xử lý phù hợp bùn ao nuôi thủy sản sau thu hoạch bùn được bơm đến bãi xử lý chất thải
3.8. MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
3.8.1. Hội chứng Taura (TSV – Taura Syndrome virus)
Nguyên nhân gây bệnh:
- Do Picornavirus gây ra, thường xuất hiện ở giai đoạn post 14 – 40.
- Có 2 biểu hiện: mãn tính và cấp tính.
- Gây chết 80 – 95% tôm nhỏ và 40% ở tôm lớn.
* Mãn tính:
- Gây thoái hóa vỏ, mềm vỏ.
- Xuất hiện những đốm đen trên lớp vỏ và cơ thể.
* Cấp tính:
- Mềm vỏ, trên thân và đuôi xuất hiện các đốm màu đỏ, các đốm này ngày càng lan rộng.
- Tôm yếu bơi lội, mất phương hướng.
- Chết nhanh hoặc ngay sau khi lột xác.
3.8.2 Bệnh đen mang
* Nguyên nhân gây bệnh:
- Trong ao xảy ra hiện tượng tảo tàn, đáy ao bị ô nhiễm các vật chất hữu cơ lơ lửng trong ao bám vào mang tôm làm mang chuyển sang màu nâu, đen.
- Tôm sống trong điều kiện kiện pH thấp, ao có nhiều ion kim loại nặng như Fe3+, Al3+, muối ion kim loại này kết tụ trên mang làm cho mang có màu đen.
- Ngoài các yếu tố môi trường, bệnh đen mang cũng còn do nhiều tác nhân gây ra như: vi khuẩn, nấm.
* Biện pháp phòng và trị bệnh
Khi có hiện tượng bệnh lý cần xem xét kỹ để biết tôm bị đen mang do nguyên
nhân nào. Trước hết phải thực hiện tốt các biện pháp cải thiện môi trường, nếu bệnh vẫn không khỏi cần phải xử lý hóa chất: BKC với liều lượng: 4kg/ 4500m2.
3.8.2. Bệnh do vi khuẩn
Các bệnh do vi khuẩn gây ra thường gặp nhất ở tôm chân trắng là các bệnh đứt râu, phồng mang, bệnh phân trắng.
Tác nhân chính là vi khuẩn thuộc giống Vibrio.Vi khuẩn Vibrio xâm nhập vào ao nuôi theo một số con đường: nguồn nước, tôm giống, thức ăn, đặc biệt là thức ăn tươi sống và từ đáy ao nếu công tác tẩy dọn chưa tốt.
Phương pháp phòng bệnh: việc phòng bệnh do vi khuẩn ở tôm chân trắng cũng tương tự như phòng bệnh do virus. Ngoài ra, cần làm tốt một số nội dung sau:
Tăng cường hệ miễn dịch tự nhiên của tôm bằng quản lý môi trường tốt và bổ sung một số sản phẩm như vitamin C, A, E, …. vào thức ăn.
Cải thiện điều kiện môi trường bằng một số biện pháp kỹ thuật như: xiphon đáy, thay nước mới, sát trùng nước bằng các loại thuốc diệt khuẩn như: Benzalkonium chloride (BKC), Iodine, vôi...
Chương IV : KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Môi trường
Qua bảng theo dõi của các yếu tố môi trường (bảng 2), Các chỉ tiêu môi trường trong ao như pH, nhiệt độ tương đối phù hợp, từ bảng trên ta thấy sự biến động pH trong ngày không vược quá 0.5ppm, nhiệt độ trong ngày dao động từ 250c-320c nằm trong ngưỡng thích hợp cho sự phát triển của tôm.
Trong khi nuôi nước được cấp liên tục vào ao và không có thay nước, bón vôi, vi sinh định kì, mặt khác sử dụng quạt nhiều (10- 12 quạt/ao) , nên hạn chế được mầm bệnh và tạo môi trường tốt cho tôm phát triển.
Nồng độ NH3 ở tháng thứ nhất chỉ có 0.1ppm, sang tháng thứ 2 tăng lên 0.2ppm điều đó cho thấy ao việc quản lý lượng thức ăn rất hợp lý không để cho thức ăn dư quá nhiều, ngoài ra ở Công Ty thường xuyên xiphong 1tuần/ lần nên hạn chế tối đa lượng chất thải qua đó làm giảm lượng khí độc trong ao nuôi từ đó mà hạn chế được mầm bệnh. Vì thế mà tôm phát triển rất nhanh.
Hàm lượng oxy thì tương đối cao, lúc đầu tôm còn nhỏ nên nhu cầu oxy còn thấp chỉ có 5- 6.5ppm nhưng sau đó tăng dần qua các tháng. Khi tôm được 75 ngày thì hàm lượng oxy tăng lên 6.5- 8ppm. Điều đó cho thấy khi trọng lên cơ thể tăng thì nhu cầu oxy cũng tăng lên.
4.2. Lượng thức ăn và tăng trưởng.
Tuổi tôm ( ngày)
10
18
26
34
42
50
58
66
75
Thức ăn (kg/ ngày)
19
35
66
88
160
140
190
220
235
Trọng lượng (g)
0.13
0.65
1.12
2.2
4.2
5.8
7.9
9.4
10.5
Bảng 3. Tốc độ tăng trưởng và lượng thức ăn của tôm ở ao số 3 tại Công Ty.
Biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng và lượng thức ăn của tôm sau 75 ngày nuôi
Biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng và lượng thức ăn của tôm sau 75 ngày nuôi
Qua biểu đồ trên ta thấy lượng thức ăn t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieuluantotnghiepnuoitrong_7719.doc