Đề tài Một số biện pháp rèn luyện khả năng diễn đạt có biểu cảm cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ( qua việc dạy trẻ đóng kịch)

MỤC LỤC

 

STT Phần nội dung Số trang

Phần I

Phần mở đầu 1

I Lí do chọn đề tài

1 Cơ sở lí luận 2

2 Cơ sở thực tiễn 7

II Mục đích nghiên cứu 10

III Nhiệm vụ nghiên cứu 10

1 Tìm hiểu thực tế 10

2 Tìm hiểu nguyên nhân 10

3 Đề ra phương pháp thích hợp 10

IV Phương pháp nghiên cứu 10

V Đối tượng nghiên cứu 11

VI Khách thể nghiên cứu 11

VII Giả thuyết khoa học 11

Phần II Nội dung

Chương I: Cơ sở lí luận của đề tài

I đặc điểm tâm sinh lí của trẻ mẫu giáo liên quan đến việc tiếp nhận tác phẩm văn học thông qua “trò chơi đóng kịch” 12

1 Tư duy 12

2 Ngôn ngữ 13

3 Tưởng tượng 14

4 Chú ý- Trí nhớ 15

5 Xúc cảm – Tình cảm 17

Chương IITìm hiểu thực trạng việc dạy trẻ nói có biểu cảm qua đóng kịch 19

I Khái quát về quá trình điều tra thực trạng dạy trẻ mẫu giáo (5-6 tuổi) nói có biểu cảm qua đóng kịch 19

1 Mục đích điều tra 19

2 Trường được điều tra 19

3 Nội dung điều tra 19

4 Phương pháp điều tra 19

II Phân tích kết quả điều tra 20

1 Khảo sát 20

1.1 Phát âm 20

1.2 Tập trả lời câu hỏi 20

1.3 Trẻ đóng kịch 20

III Tình hình phát triển ngôn ngữ trẻ mẫu giáo (5-6 tuổi) Trường mầm non Hoa Hồng – Yên Hưng 20

1 Bảng điều tra phát âm 21

1.2 Trả lời phiếu Ankét của giáo viên 22

1.3 Việc soạn giáo án của giáo viên 22

VI

1 Kết luận

Ưu điểm 24

Nhược điểm 24

3 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên 25

Chương III

Một số biện pháp rền luyện khả năng diến đạt biểu cảm trẻ mẫu giáo (5-6 tuổi) qua đóng kịch 26

26

I Kế hoạch giáo dục 26

II Biện pháp giáo dục 27

1 Xây dựng mẫu câu 27

2 Luyện qua trò chơi 28

3 Luyện qua kể đọc 40

III Thực nghiệm và phân tích kết quả thực nghiệm 41

1 Địa bànđiều kiện và đối tượng thực nhiệm 41

2 Mục đích thực nghiệm 41

3 Nội dung thực nghiệm 41

4 Các tiêu chí đánh giá 42

5 Cách thức tiến hành thực nghiệm 42

5.1 Thực nghiệm đối chứng 43

5.2 Thực nghiệm hình thành

6 Mô tả thực nghiệm đóng kịch “ chú dê đen

Đánh giá chung kết quả thực nghiệm hình thành 45

50

 

Phần III 53

Kết luận

 

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4920 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp rèn luyện khả năng diễn đạt có biểu cảm cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ( qua việc dạy trẻ đóng kịch), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y phát âm của trẻ bị tổn thương, hay chịu ảnh hưởng của lời nói ngọng của lớn của người lớn trong địa phương thì trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi mới phạm nhiều lỗi trong việc nắm ngữ âm của tiếng mẹ đẻ. Trẻ mẫu giáo lớn đã biết sử dụng ngữ điệu một cách phù hợp với nội dung hay nội dung của câu chuyện mà trẻ kể Trẻ thường dùng ngữ điệu êm ái để biểu thị tình cảm yêu thương trìu mến. Ngược lại khi giận dữ trẻ lại dùng ngữ điệu thô mạnh. Khả năng này được thể hiện khá rõ khi trẻ kể những câu chuyện mà mình thích cho người khác nghe. Tính sáng tạo ra những từ ngữ, tính tích cực cao đối với ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn diễn đạt có biểu cảm đặc biệt được thể hiện ró ràng trong khi trẻ đóng kịch. Trong quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học cô giáo cần chú ý tới đặc điểm phát triển ngôn ngữ ở lứa tuổi này mà giúp trẻ đóng kịch lại một câu chuyện, một tác phẩm nào đó mang lại kết quả cao khi điến đạt ngôn ngữ . 3. Tưởng tượng Tưởng tượng là quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa có trong kinh nghiệm bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những hình ảnh ( biểu tượng đã có) Đối với trẻ em những gì làm xúc động mạnh mẽ là phương tiện duy nhất để làm cho trí tưởng tượng và tính nhạy cảm phải hoạt động, có thể nói trí tưởng tượng của mẫu giáo đã phát triển mạnh mẽ, gặp sự tưởng tượng trong các loại hình văn học nghệ thuật sẽ là sự gặp gỡ phù hợp làm bừng sáng lên những tia lửa điện hồ quang, làm dễ dàng sự tiếp nhận tác phẩm văn học mà đặc biệt là ở trẻ mẫu giáo phát triển trí tưởng tượng cực cao khi phải nhập vai, đóng đúng vai thể hện nhân cách sao cho thật giống với nhân vật trong truyện. Nhưng dù kết quả của tưởng tượng có mới mẻ độc đáo thế nào đi nữa thì các chất liệu của nó cũng bắt nguồn từ hiện thực bởi trí tưởng tượng có được nhờ ở vốn tri thức văn hoá kinh nghiệm sống. Văn học góp phần trong phát triển trí tưởng tượng của trẻ. Vì vậy việc dạy trẻ đóng kịch tái tạo lai tác phẩm văn học để phát triển ngôn ngữ biểu cảm vô cùng quan trọng. Qua đó nhà sư phạm cần phát huy những gì đã có và phải cung cấp cho trẻ các biểu tượng,các khả năng diến đạt lưu loát, biểu cảm thông qua dạy trẻ đóng kịch. 4. Chú ý – trí nhớ: Chú ý là quá trình định hướng các quá trình tâm lý khác. Chú ý là xu hướng và là sự tập trung của chú ý vào một đối tượng xác định. Chú ý được coi như sự tổ chức, định hướng hoạt động tâm lý vì khi ta được coi như sự tổ chức, định hướng hoạt động tâm lý vì khi ta chú ý đến cái gì thì qua quá trình tri giác tư duy… sẽ được nhận thức sâu hơn , rõ hơn. Trí nhó là một quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm của cá nhân dưới hình thức biểu tượng bao gồm sự ghi nhớ giữ và tái tạo sau đó ở trong óc, cái mà con người đã cảm giác, tri giác, rung động, hành động hay suy nghĩ trước đây. Đặc điểm chú ý- trí nhớ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi là chú ý có chủ định. Thuộc tính của chú ý được phát triển mạnh như sức tập trung chú ý- sức bền vững chú ý- sự phân phối chú ý- sự di chuyển chú ý. Như vậy ở lứa tuổi trẻ có tập trung chú ý hay phân phối chú ý thì trẻ mới tiếp thu các tri thức hay hoạt động nghệ thuật được nhanh nhậy. Đặc biệt là sự di chuyển chú ý được chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác, rất phù hợp với việc đóng kịch cho trẻ dù nhập vai bất cứ một nhân vật nào trong tác phẩm văn học trẻ không những phải tưởng tượng mà còn ghi nhớ, chú ý cần được thể hiện từ dáng đi, đứng tang phục, lời nói… thể hiện được đúng tính cách khả năng diến đạt ngôn ngữ phải lưu loát biểu cảm thì người nhge mới hiểu được vở kịch mà trẻ đóng. chính vì vậy đặc điểm chú ý sau chủ định của trẻ thường được gắn vào các trò chơi đặc biệt là trò chơi phân vai. Dựa vào đặc điểm này mà giáo viên dạy trẻ đóng kịch rất thuận lợi để phát triển các loại trí nhớ các ký tự… ngoài ra còn có trí nhớ dài hạn và ngắn hạn; Mà hình thức dạy bài mới giáo viên kể cho trẻ nghe tác phẩm văn học mới trẻ ghi nhớ và hình thức ôn bài cũ trẻ đóng kịch tái hiện lại tác phẩm đó là cô đã gợi lại chú ý dài hạn cho trẻ. 5. Xúc cảm và tình cảm. Xúc cảm- tình cảm đó là những thái độ cảm xúc của con người đối với những sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan, phản ánh ý nghĩa của chúng trong mối liên hệ với nhu cầu và động cơ của họ. Tình cảm là sản phẩm cao cấp của sự phát triển các quá trình tình cảm trong những điều kiện xã hội. ở trẻ mẫu giáo lớn các loại tình cảm bậc cao đã được hình thành, đặc điểm chính là những rung cảm, trẻ thể hiện thái độ cá nhân rõ ràng, rứt khoát đúng hoặc sai. Trong những tình huống quen thuộc trẻ có khả năng làm chủ những biểu hiện phản ứng hành vi xúc cảm của chính mình trẻ có thể kìm nén những xúc cản của trẻ chính mình trẻ có thể kìm nén những xúc cảm của trẻ chính khả năng này tạo điều kiện cho trẻ thích ứng chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Tóm lại cấu trúc tâm lý tình cảm- cảm xúc ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi được phát triển cả về nội dung và hình thức các loại tình cảm và vai trò của tình cảm càng ngày càng tri phối rõ nét hơn trong đời sống sinh hoạt của trẻ theo hướng từng bước làm chủ các hành vi xúc của mình. Dựa vào đặc điểm tâm lý này mà giáo viên dạy trẻ đóng kịch thể hiện tình cảm-xúc cảm của bản thân trẻ mà từ đó diễn đạt biểu cảm trong hoạt động cá nhân cũng như trong cuộc sống. Chương II : Tìm hiểu thực trạng việc dạy trẻ nói có biểu cảm qua đóng kịch I. Khái quát quá trình điều tra thực trạng dạy trẻ nói có biểu cảm qua đóng kịch (5-6 tuổi) 1- Mục đích điều tra: Để có cơ sở nghiên cứu các biện pháp dạy trẻ nói có biểu cảm thông qua việc đóng kịch, chúng tôi tiến hành điều tra nhằm đánh giá thực trạng tình hình chung của việc dạy trẻ nói có biểu cảm . 2- Trường được điều tra: Trường mầm non Hoa Hồng- Huyện Yên Hưng. 3- Nội dung điều tra: Thăm dò ý kiến giáo viên về hình thức dạy trẻ nói có biểu cảm thông qua đóng kịch của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Việc soạn giáo án của giáo viên Tình hình phát triển ngôn ngữ ở trẻmg 5-6 tuổi. 4- Phương pháp điều tra: Thăm dò ý kiến giáo viên bằng cách trả lời câu hói trong phiếu Ankét Khảo sát khả năng phát âm và ngôn ngữ diến đạt có biểu cảm bằng cách kẻ bảng, điều tra nhứng từ cần phát âm chuẩn ( đúng sai) và trả lời các câu hỏi nhiều từ, ít từ… Sử dụng phương pháp quan sát để điều tra. Chúng tôi đến từng lớp quan sát và dự giờ ( cho trẻ đóng kịch )để xem xét cách tổ chức của giáo viên , đồng thời ghi chép công tác chuẩn bị ở mức độ nào? việc soạn giáo án của giáo viên như thế nào? II. Phân tích kết quả điều tra: 1. Khảo sát để xác định khả năng của trẻ: - Số trẻ được khảo sát : 30 cháu - Nội dung khảo sát: 1.1. Phát âm: Số trẻ phát âm tương đối chuẩn: 35% Số trẻ phát âm ngọng: 65% 1.2. Tập trả lời câu hỏi: Số trẻ nói được câu dài lưu loát biểu cảm: 30% Số trẻ nói được câu từ 4-7 từ : 30% Số trẻ nói được câu từ 7-10 từ : 40% 1.3. Trẻ đóng kịch : Số trẻ biết thể hiện tính cách, diến đạt theo nội dung các nhân vật trong chuyện mà trẻ đóng vai : 30% Số trẻ nhận biết và nói được tên các nhân vật trong chuyện nhưng hạn chế về cách diến đạt : 455 Số trẻ nhận biết diến đạt tính cách nhân vật: 25% III. Tình hình phát triển ngôn ngữ ở độ tuổi mẫu giáo 5-6 tuổi.(trường mầm non Hoa Hồng- Yên Hưng) Thực tế sự phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 tuổi còn chưa đồng đều. Trẻ chưa sử dụng chính xác các từ của tiếng Việt, từ chỉ thời gian, chưa hiểu hết ý nghĩa của từ trong hoàn cảnh giao tiếp cho nên trẻ sử dụng chưa đúng nghĩa trong câu ở hoạt động vui chơi. ở đây trẻ hay sử dụng câu rút gọn thiếu thành phần chủ hoặc vị ngữ. Tuy trẻ mẫu giáo 5 tuổi diễn đạt chưa mạch lạc câu nói của trẻ còn lộn xộn những diễn đạt còn chưa mạch lạc ngữ điệu còn thiếu biểu cảm ( chưa biết lựa chọn sắp xếp từ thích hợp) . Quá trình trẻ chơi với nhau, trong giờ học còn nói trống không nhiều trẻ hay nói bậy. Kết quả trong quá trình sử dụng phương pháp quan sát trẻ –phương pháp đàm thoại 40% trẻ nói đúng, 60% trẻ nói sai 1. Bảng điều tra phát âm: STT Những từ cần điều tra- Phát âm Từ Ghi chú Họ và tên L N Quả lựu Quả na 1 Lê Tuấn Anh + + + + +(đúng) 2 Hoàng Thị Mai Anh + + + + - ( sai ) 3 Nguyễn Ngọc Anh - - - - 4 Mai Quỳnh Lan - - - - 5 Hoàng Văn Nam + + + + 6 Lê Vũ Hoài Nam - - - - 7 Trần Thị Trang - - - - 8 Nguyễn Văn Tuân - - - - 9 Vũ Văn Lộc + + + + 10 Trần Văn Lại - - - - 11 PHạm Thu Huyền + + + + 12 Hà Thu Huyền + + + + 13 Vũ Thị Hương - - - - 14 Nguyễn Mạnh Hưng - - - - 15 NguyễnVũ Tiến Hưng - - - - 1.2. trả lời phiếu Ankét của giáo viên ( 3 phiếu) Thăm dò ý kiến giáo viên bằng phiếu Ankét nhằm mục đích tìm hiểu nhậ thức đánh giá giáo viên mầm non về vấn đề dạy trẻ nói biểu cảm qua việc cho trẻ đóng kịch với hệ thống câu hỏi đã chuẩn bị sẵn và yêu cầu giáo viên trả lời. - Hệ thống câu hỏi: + Địa bàn trường của chị thuộc khu vực nào? + Điều kiện hoạt động của trường chị như thế nào? + Chị có thích dạy trẻ đóng kịch không? vì sao? + Để thực hiện một trò chơi đóng kịch cho trẻ chị phải làm những công việc gì? + Chị gặp khó khăn thuận lợi gì? khi tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ? + Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi có hứng thú với trò chơi này không? + Chị đã sử dụng phương pháp, biện pháp gì khi tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ + Theo chị thì cơ sở lí luận về việc dạy trẻ đóng kịch đã được cung cấp đầy đủ chưa? + Chị gặp khó khăn, thuận lợi gì trong việc soạn giáo án? Nói chung về nhận thức đánh giá của giáo viên mầm non về vấn đề nầy tương đối đồng nhất, tuy nhiên cũng chỉ dừng lại ở mức độ nhất định. Việc soạn giáo án của giáo viên : Qua việc điều tra chúng tôi thấy mục đích yêu cầu đặt ra trong giáo án cong rất chung chung. Hầu hết giáo viên đặt mục đích yêu cầu theo cuốn chương tình chăm sóc giáo dục trẻ em của Bộ giáo dục - Đào tạo. Chủ yếu giáo viên chỉ xác định một số mục đích yêu cầu sau: Trẻ hiểu nội dung tác phẩm . Trẻ biết thể hiện theo giọng nói của nhân vật trong tác phẩm . Phát triển ngôn ngữ cho trẻ Với mục đích giáo dục thông qua các tác phẩm văn học đặc biệt là qua trò chơi đóng kịch rèn luyện khả năng điến đạt có biểu cảm cho trẻ thì không một giáoốan nào đề cập đến. * Qua xem một số giờ đóng kịch của trẻ chúng tôi đã ghi chép lại: - Lần 1: Dạy trẻ đóng kịch mới “ Quả bầu tiên” + Cô cũng đã đọc và kể chuyện cho trẻ nghe toàn bộ câu truyện cô đã kết hợp cho trẻ xem tranh, nhưng giáo viên chưa biết sử dụng sắc thái của giọng mình trinhg bày tác phẩm, để thể hiện trọng vẹn nội dung tư tưởng, phong cách của nghệ thuật. Khi phân vai cho trẻ còn gò ép trẻ, không cho trẻ thỏa thuận mà cô lại chỉ đích danh từng trẻ phải đóng vai gì, Chưa phát huy được tính tích cực sáng tạo phat huy trí tưởng tượng của trẻ , ngôn ngữ bị hạn chếbởi giáo viên làm hộ trẻ quá nhiều cô là người hướng dẫn chương trình, những câu phức trong vai diễn của trẻ khó cô lại nói hộ trẻ. Chủ yếu lại hay gọi cháu khá giỏi đóng kịch chứ không gọi trẻ học yếu nhút nhát, trẻ hay nói ngọng cô lại không muốn cho trẻ đóng kịch sợ trẻ nói sai ngôn ngữ khi nhập vai. - Lần 2: Cho trẻ đóng lại “kịch nhổ củ cải”. + Bắt đầu vào cô không kích thích hứng thú, gợi cho trẻ tưởng tượng nhớ lại nội dung truyện qua đàm thoại hay tranh mà cô hỏi luôn các con đã được đóng kịch “ nhổ củ cải” chưa? hôm nay cô lại cho lớp mình đóng lại kịch đó nhé! + Cô phân vai từng trẻ đóng theo tên nhân vật trong chuyện và cô bắt đầu dẫn chuyện, cứ lần lượt cô dấn đến đau là các vai ra làm động tác thể hiện và nói theo trí nhớ của mình. Cô giáo hầu như không để ý sửa sai cho trẻ, nói câu thiếu cấu trúc ngữ pháp hay nói ngọng. Kết thúc kịch cô yêu cầu cà lớp vỗ tay khen các bạn, trong khi trẻ diễn kịch song, vai đúng sai như thế nào cô chưa nhận xét cho trẻ. IV. Kết luận: 1. Ưu điểm - Về phía cô đã chú ý đến việc soạn giáo án cho tiết dạy một vài cô cũng đã gây hứng thú cuốn hút trẻ vào tiết học bằng cách cho trẻ xem tranh, mô hình của truyện, đã chuẩn bị sân khấu cho trer đóng kịch . - Về phía trẻ đã chú ý nghe cô kể chuyện và đàm thoại truyện để nhớ được nội dung truyện. Những trẻ khá giỏi đã biết tham gia đóng kịch . 2. Nhược điểm: - Về phía cô phần lớn là soạn giáo án còn chung chung, chủ yếu là dựa vào cuốn “ Chương trình chăm sóc, giáo dục và hướng dẫn thực hiện”. đây là cuốn sách mang tính chất và phương hướng chỉ đạo chung nên mục đích yêu câudf đặt ra cho mỗi vở kịch rất chung chung. Chưa chú ý phân mức độ trẻ trong lớp khá- trung bình- yếu. Trong tiết học cô chưa xác định được tiết này nên sử dụng phương pháp gì, biện pháp nào là chính, biện pháp nào là hỗ trợ. Khi cô sử dụng biện pháp đàm thoại ( trao đổi, thoả thuận) nhưng câu hỏi đơn giản, bắt buộc, ngay hệ thống câu hỏi cũng thiếu lô gic , không kích thích được tính tích cực cho trẻ và ngôn ngữ biểu cảm càng khó phát huy. Vì vậy khả năng diến đạt ngôn ngữ nói lưu loát, mạch lạc có biểu cảm của trẻ còn hạn chế. Trong khi sử dụng trang phục cho trẻ đóng kịch còn đại khái thậm chí không đủ trang phục hết cho các vai đóng kịch. Cô giáo chưa chú ý chọn tác phẩm có tính kịch nhiều, có đối thoại giữa các nhân vật tạo điều kiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ. -Về phía trẻ: đa số trẻ chưa tập trung chú ý khi cô hướng dẫn, thỏa thuận trò chơi; nên chưa hứng thú tham gia trò chơi đóng kịch nhiều. Khi đóng kịch còn nói đớt, nói ngọng, nói lắp, câu nói còn thiếu cấu trúc ngữ pháp. 3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên - Giáo viên chưa nhìn thấy được tầm quan trọng, vị trí vai trò của giáo dục nghệ thuật đối với trẻ mẫu giáo. - Giáo viên chưa nắm vững được phương pháp, biện pháp khi dạy trẻ đóng kịch, không có sự linh hoạt sáng tạo, do vậy trong trò chơi đóng kịch không hấp dẫn. - Giáo viên chưa hiểu được qua việc trẻ đóng kịch có tác dụng rất lớn trong phát triển ngôn ngữ và rèn luyện được khả năng diễn đạt có biểu cảm cho trẻ. - Trong quá trình kể chuyện cho trẻ nghe giọng của cô buồn tẻ đều đều, nét mặt cử chỉ, thiếu sinh động hấp dẫn. - Các tiết học, thời gian có hạn số học sinh trong lớp rất đông, cô giáo không quan tâm đến từng trẻ dẫn đến trẻ nói trống không nhiều. Ví dụ: khi cô hỏi trẻ, trẻ đứng lên trả lời câu hỏi của cô hoàn toàn thiếu chủ ngữ không “thưa cô”, khi cô, người khác đưa quà chiều trẻ chưa nói “ con xin cô” số trẻ này còn chiếm khoảng 75-80%. Nhiều trẻ dùng từ chưa chính xác cô hỏi “con sờ quả bóng bay thấy nó như thế nào”? thì 1/3 số trẻ trong lớp trả lời “quả bóng sờ thấy nó nhẵn” 2/3 số trẻ trong lớp nói: “ sờ quả bóng thấy nó buồn buồn” như vậy cách diễn đạt ngôn ngữ mạch lạc biểu cảm còn nhiều hạn chế. Đặc biệt tình trạng trẻ nói ngọng (L,N) còn nhiều bởi do ảnh hưởng ở địa ohương. Đôi khi cô giáo cong nói ngọng sai chính tả thông qua đọc thơ, kể chuyện, hát cho trẻ nghe… Đó là một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến trẻ nói chưa đúng ngữ pháp, diễn đạt thiếu biểu cảm . Chương III: Một số biện pháp rèn luyện khả năng điến đạt biểu cảm trẻ 5-6 tuổi (qua đóng kịch) I. Kế hoạch giáo dục . Qua việc tiếp xúc trực tiếp với trẻ tôi thấy rằng cong nhiều trẻ nói chưa đúng cấu trúc ngữ pháp, điễn đạt còn yếu, chưa mạch lạc biểu cảm. Nên tôi đề ra những biện pháp sau đây để giúp trẻ diễn đạt ttot hơn, nói đúng theo ngôn ngữ tiếng Việt đúng ngữ pháp diễn đạt có biểu cảm . - Lập bảng kế hoạch. Thời gian Nội dung Phương pháp Ghi chú 2-3 ->14-3 Luyện nói đúng cấu trúc câu Ví dụ:- Con, con gà - Con chải đầu cho cô xinh trai - Lấy đồ chơi Đàm thoại Trẻ nói lắp Trẻ nói sai cấu trúc Trẻ nói trống không 2 tuần sau 15-3->30-3 Luyện nói mạch lạc biểu cảm Ví dụ: Con gà trống Chú dê đen Mèo đi câu cá Đọc kể diễn cảm, đàm thoại Đóng kịch II . Biện pháp giáo dục 1. Xây dựng mẫu câu: Xây dựng mẫuc câu là hướng dẫn cho trẻ nói theo cách mô hình tiếng Việt. Khi xây dựng mẫu câu phải chuẩn mực, các mẫu câu có nội dung đơn giản dễ hiểu, có cấu trúc ngữ pháp đúng, từ ngữ chính xác. Nhưng để trẻ hiểu được nói được câu đơn giản dễ hiểu thì cô phải làm mẫu, giới thiệu mẫu câu cho trẻ bằng cách đặt các câu hỏi trong các hoạt động vui chơi, học tập. Ví dụ: trong giờ kể chuyện cô có thể đặt ra nhiều câu hỏi mẫu Cô hỏi “ Cô vừa kể cho lớp mình nghe chuyện gì? Trẻ trả lời: “ Thưa cô ! Cô vừa kể cho lớp mình nghe câu chuyện hai anh em” Cô hỏi “ Người anh là người thế nào”? Trẻ trả lời: “ Thưa cô! người anh là người chăm chỉ chụi khó lao động ạ” Trong giờ tìn hiểu môi trường xung quanh: “ Làm quen với các con vật nuôi trong gia đình có 4 chân, đẻ con. Cô đặt ra nhièu mẫu câu hỏi kết hợp với đồ dùng trực quan, sinh động, tranh ảnh đồ chơi…gây hứng thú lôi cuốn trẻ chú ý: Cô đọc câu đó về đồ vật: ví dụ “ Con gì ăn no… phì phò” Trẻ đoán : con lợn. Cô đưa tranh con lợn hỏi trẻ “Con lợn có mấy chân”? Trẻ trả lời: “ Thưa cô ! Con lợn có 4 chân ạ” Cô lại hỏi “ Con lợn nó kêu thế nào” Trẻ trả lời: “ Thưa cô! Con lợn nó kêu ụt ịt” Đối với những trẻ nói sai từ cô cần cung cấp những từ đúng, bổ xung từ còn thiếu, nhắc lại. Ví dụ: “ ớt cay lắm” - đây là câu trẻ nói vừa thiếu từ lại lộn xộn từ. Cô nói lại cho trẻ nghe “ Mẹ ơi! ớt cay lắm” cô cho trẻ nhắc lại; Như vậy trong quả trình giao tiếp với trẻ cô đã dạy trẻ nói đúng ngữ pháp ( cấu trúc câu) và diễn đạt mạch lạc. 2. Luyện qua trò chơi: Đặc điểm của trẻ mẫu giáo hoạt động vui chơi bằng các hình thức trò chơi giúp cho trẻ bộc lộ nhiều khả năng ngôn ngữ của mình, kích thích trẻ vươn lên trong việc sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt cho những người xung quanh có thể hiểu được nguyện vọng ý kiến của mình * Tổ chức cho trẻ chơi trò chơi đóng kịch nhằm giúp trẻ lời nói mang sắc thái biểu cảm và tu từ. Đây là trò chơi cho trẻ mang tính nghệ thuật cao, thường tái hiện lại hình tượng và hành động của các nhân vật khi chơi trò chơi đóng kịch , trẻ nói bằng ngôn ngữ dân gian có nội dung phong phú và đầy sức diễn cảm, từ đó giúp trẻ được cảm thụ sự tinh tế của ngôn ngữ , nắm được phương tiện thể hiện ngôn ngữ lĩnh hộiđược sự phong phú của tiếng mẹ đẻ. Tất cả nhẽng điều này ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.Khi cho trẻ đóng kịch cô cần chọn những chuyện có nội dung kịch tính cao, mâu thuẫn ngày càng phát triển đến điểm đỉnh, từ đõ cô kể diễn cảm nhiều lần, đàm thoại với trẻ , đặc biệt cô nhấn mạnh ngữ điệu giọng của nhân vật, giúp trẻ cảm nhận làm theo , đóng vai nhân vật trong ( chuyện), kịch. Khi trẻ nhập vai giáo viên cần sửa cho trẻ từng câu, từ ngữ giúp trẻ nói năng rõ ràng mạch lạc và biểu cảm thì vở kịch mới lôi cuốn hấp dẫn hoàn thiện. Muốn dạy trẻ đóng kịch để đạt được kết quả tốt, cần được tiến hành theo 4 bước sau: +Bước 1: Cô chọn chuyện hấp dẫn có tính kịch: Khi chọn tác phẩm văn học để dựng kịch, người giáo viên chú ý đến những chuyện có tình tiết hấp dẫn nhất đối với trẻ, có hnình thức đối thoại là chủ yếu. Trong lĩnh vực này những truyện dân gian Nga rất có giá trị. Những chuyện ấy đơn giản, nhiều hành động, diễn cảm và giàu đối thoại, những truyện dân gian như “Cáo, thỏ và gà trống” “ Chó sói và bày chú dê con”, “ Na sa và con gấu”… đã được sử dụng và dựng kịch thành công trong trường mầm non . Khi đóng kịch truyện cổ tíchcó thể đưa tích hợp một bài hát dân ca vào gây thêm hứng thú cho trẻ. Nội dung kịch cũng hấp dẫn sinh động hơn. + Bước 2: Giúp trẻ hiểu nội dung câu chuyện. Giáo viên kể chuyện, sau đó trẻ kể lại nhớ nội dung hơn khi nghe cô kể diễn cảm nhiều lần, cho trẻ xem tranh minh họa, đàm thoại với trẻ về nội dung chi tiết của truyện, đặc biệt cô nhấn mạnh ngữ điệu giọng cuả từng nhân vật. Điều đó giúp trẻ tái tạo lại hình ảnh nhân vật trong khi đóng kịch. + Bước 3: Dựng cảnh, luyện tập. Cô chuẩn bị một số phong cảnh vẽ phù hợp với nội dung kịch (tạo một góc sân khấu) Chuyển thể tác phẩm sang kịch bản, cho trẻ xem tranh minh họa là một hình thức, biện pháp trẻ nắm chính xác hơn về hình dáng tính cách nhân vật được quan hệ như thế nào? các nhân vật được phản ánh trong tư thế, nét mặt, hành động. Giúp trẻ hiểu thấu đáo những cá tính và sự kiện mà tác giả dựng lên. Trẻ có thể nhập vai chơi, hoặc có thể giúp trẻ phân vai và giúp trẻ hiểu vai đóng thuộc lời nói nhân vật, kết hợp động tác hỗ trợ cử chỉ, ánh mắt khi nhập vai. Người dẫn chuyện có thể là một trẻ đã được cô chọn và rèn trước, nếu không giáo viên là người dẫn chuyện (ở thời gian đầu) Đối với trẻem, điều quan trọng khi đóng kịch là làm sao vai diễn của trẻ phải có nhiều cảm xúc hấp dẫn. Thường thường trẻ trước tuổi đi học hay từ chối các vai phản diện hoặc là nhập vai không thoải mái. Trong những trường hợp đó cần làm các em hiểu sự cần thiết phải có những vai đó, chỉ cho trẻ biết rằng không có chúng thì không thể có kịch. + Bước 4: Hóa trang và biểu diễn. Mỗi vở kịch có thể dựng 3-4 lần với các nhóm diễn viên khác nhau. Điều quan trọng là phải làm sao lôi cuốn được tất cả số trẻ trong lớp vào cuộc. Một việc làm có giá trị là thỉnh thoảng lại ôn lại những vở kịch đã dựng và trẻ em được báo trước, việc đó giúp trẻ suy nghĩ sâu xắc hơn về những độnh tác sân khấu, giúp trẻ tự tin hơn khi diễn đạt ngôn ngữ mạch lạc, biểu cảm . Đối với việc đóng kịch, trang trí có một ý nghĩa to lớn. Trang trí góp phần tạo ra ấn tượng về một vở kịch thật sự. Có thể sử dụng những thứ có sẵn ở trong lớp để trang trí: bàn ghế, vật liệu góc xây dựng, góc nghệ thuật, những lùm cây, hàng rào bằng bìa cứng… sử dụng rộng rãi một số kiểu quần áo : khăn đỏ, tạp dề, lẵng mây ( cho truyện cô bé quàng khăn đỏ) tai mũi thỏ, đuôi cáo, mào gà, mặt lạ sói, mặt là gấu… có thể là những con rối. Trẻ rất thích được hóa trang có thể hóa trang trên miệng, mắt, má có thể làm mũ trên đầu, thắt lưng, áo choàng… ở đây vấn đề quan trọng là mỗi tương quan hài hòa giứ nhân vật và bài trí: Con thỏ không thể to hơn con gấu, ngôi nhà không thể bé hơn những người và nhân vật sống trong đó… Trẻ mẫu giáo lớn có thể biểu diễn cho các em nhỏ hơn xem, chứ không chỉ dừng lại ở các bạn riêng trong lớp của trẻ. Xem kịch là một hoạt động văn hóa không chỉ người diễn mà cả người xem cũng tỏ ra là người có văn hóa. Kết quả của buổi diễn tốt đẹp của tác phẩm văn học và sự hưởng ứng của người xem bằng những lời tán thưởng khen ngợi, bằng những tràng vỗ tay nồng nhiệt hay những bông hoa trao tặng cho những diễn viên… Đôi khi người xem còn hát múa cùng với “diễn viên” làm cho không khí kịch trở nên sôi động… nhờ đó, không những trẻ hào hứng với giáo viên mà sự tiếp nhận tác phẩm văn học càng được nâng cao hơn, ngôn ngữ giao tiếp càng được phát triển . Ví dụ1: “ Kịch Mèo đi câu cá” 1.Mục đích yêu cầu: - Giúp trẻ hiểu nội dung truyện - Thể hiện vai trò mình đóng thông qua điệu bộ cử chỉ, lời đối thoại rõ ràng, mạch lạc, biểu cảm (diễn cảm) biết phối hợp với các vai khác. - Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 2. Chuẩn bị: - Truyện hấp dẫn có kịch tính cao “mèo đi câu cá” kịch thơ - Trẻ thuộc truyện- đọc thuộc thơ diễn cảm - Một phông vẽ cảnh một ao cá xung quanh có cây hoa lá đẹp, một con sông chảy - Một ngôi nhà làm bằng mô hình (làm bằng xốp) - Một cái chum vẽ bằng bìa cứng đặt bên ngôi nhà, bụi chuối - Hai cái giỏ vẽ bằng bìa cứng, hai cần câu, hai mảnh xốp (đá) - Hai mũ mèo, mũ chim 3 cái, mũ thỏ 2 cái, mũ hoa 3 cái 3.Tiến hành: +Phân vai(thỏa thuận) Người dẫn truyện: 1 cháu gái Mèo anh :1 cháu trai Mèo em :1 cháu gái 8 trẻ cả gái + trai trong vai thỏ, chim, hoa. + Biểu diễn: Người dẫn truyện: “anh em mèo trắng, vác giỏ đi câu em ngồi bờ ao, anh ra sông cái” +) Cảnh 1: 2 anh em nhà mèo tung tăng ra sân khấu tay cầm giỏ, tay giữ cần câu đặt lên vai (2 anh em dặn nhau đi câu cá) em đến bờ ao ngồi, anh ra sông cái làm động tác câu cá. - Dẫn truyện: .. “hiu hiu gió thổi, buồn ngủ quá chừng mèo anh đang ngồi, ngủ luôn một giấc lòng riêng thầm nhắc, đã có em rồi…” +) Cảnh 2: mèo anh làm động tác ngáp ngủ, tay dụi dụi vào mắt ngả người khoanh tay trước ngực nhắm mắt. Mèo em vẫn ngồi trên ghê câu cá giả vờ giật cần câu. - Dẫn truyện: “mèo em đang ngồi thấy bầy thỏ bạn đùa vui múa lượn, vui quá là vui…” +) Cảnh 3: Các bạn thỏ, chim cầm tay nhau ra sân khấu múa lượn rủ mèo em cùng chơi. Mèo em đặt cần câu xuống rồi nói: ôi thôi! Anh câu cũng đủ. - Dẫn truyện: “nghĩ rồi hớn hở, nhập bọn vui chơi…” +) Cảnh 4: đang cùng nhau múa hát, các bạn chim thỏ thấy trời tối kéo nhau về, tay vẫy chào tạm biệt mèo em, mèo em trở lại chỗ ao thu xếp cần câu trở về nhà. Mèo anh cũng vươn vai tỉnh ngủ chuẩn bị đi về lều. - Dẫn truyện: “lúc ông mặt trời, xuống núi đi ngủ đôi mèo hớn hở, quay về lều gianh giỏ em, giỏ anh, không con cá nhỏ cả hai nhăn nhó, cùng khóc meo meo!” +) Cảnh5: mèo anh mèo em hớn hở vac cần câu, xách giỏ mèo em hỏi mèo anh, mèo anh hỏi mèo em, cả hai đều nói cầm giỏ dốc ngươc kên và nét mặt nhăn nhó đồng thanh nói “không con cá nhỏ” va cùng khóc meo meo! Kết thúc: cô giáo cùng tất cả khán giả vỗ tay, 1 số bạn lên tặng hoa. 4. Nhận xét: - Cô giáo nhận xét đánh gia từng vai diễn (chú ý mặt biểu cảm trong cử chỉ lời nói, hành động của các nhân vật…) Ví dụ 2: kịch “chú dê đen” Mục đích- yêu cầu: - Giúp trẻ hiểu nội dung câu truyện Trẻ biết thể hiện vai trò mình đóng thông qua điệu bộ cử chỉ lời nói mạch lạc biểu cảm (giọng dê trắng rụt rè, sợ sệt run rẩy –giọng dê đen cương quyết dứ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu luan 6.doc
Tài liệu liên quan