Hoạt động của ngành giáo dục là một hoạt động vô cùng rộng lớn, con người là sản phẩm của GD - ĐT. Nhân tố con người quyết định sự phát triển của giáo dục, của xã hội, của đất nước. Để làm tốt công tác GD - ĐT, quản lý giáo dục có tính chất quyết định đến hiệu quả của giáo dục, nhưng công tác quản lý giáo dục lại vô cùng khó khăn và phức tạp. Chính vì vậy giáo dục phải có sự phối kết hợp giữa 3 môi trường: Gia đình - nhà trường và xã hội thì mới có thể nâng cao được chất lượng giáo dục.
Thực tế cho thấy rằng nhà trường muốn làm tốt nhiệm vụ giáo dục thì phải có đội ngũ giáo viên có đủ năng lực và trình độ, phối hợp với các ban ngành, các tổ chức chính trị xã hội của đất nước. Năng lực của đội ngũ, điều kiện của cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học và các trang thiết bị, đồ dùng dạy học khác có đáp ứng được cho việc dạy và học hay không. Mục tiêu, nhiệm vụ GD-ĐT thực hiện được đến mức độ nào, chính là nhờ một phần lớn vào năng lực, trình độ khoa học của người quản lý. Như triết học Mác - LêNin đã khẳng định: "Vai trò to lớn của cá nhân trong tập thể".
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4212 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số giải pháp trong việc hình thành nhân sách cho học sinh THCS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I:
Mở đầu
I - Lý do chọn đề tài:
Đảng ta, dân tộc ta coi trọng sự nghiệp giáo dục - đào tạo là sự nghiệp cách mạng cực kỳ quan trọng, Nghị quyết TW II khoá VIII đã khẳng định: "Giáo dục là quốc sách hàng đầu", về ngành giáo dục làm nhiệm vụ hết sự vẻ vang. Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Những lớp người có đức, có tài, có sức khoẻ để góp phần xây dựng nước nhà như lời Bác dạy trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường năm 1945: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu...". Vì vậy giáo dục - đào tạo là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Giáo dục phổ thông, trong đó giáo dục ở bậc THCS có một vị trí hết sức quan trọng, bởi vì hết bậc tiểu học học sinh bước sáng một giai đoạn mới, có nhiều thay đổi về môi trường: Thầy, cô mới và được nhiều thầy, cô dạy trong một buổi học. Phương pháp dạy cũng khác hơn so với bậc tiểu học. Tâm lý của các em cũng có sự thay đổi, các em đang tập làm người lớn, muốn bắt chước người lớn. Chính vì vậy giáo viên phải nắm được tâm lý học sinh và có phương pháp giáo dục phù hợp để vừa truyền thụ kiến thức cho các em, vừa có tác dụng giáo dục hình thành nhân sách cho các em qua mỗi bài học, mỗi tiết dạy. Nghị quyết TWII khoá VIII đã nêu "giáo viên là nhân tốt quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh". Sản phẩm của giáo dục là con người có đủ trình độ và năng lực để trinh phục và cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phải phục vụ con người và cải tạo xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Năng lực của người thầy có vai trò quan trọng trong quá trình dạy học. năng lực con người trong lĩnh vực giáo dục quyết định giá trị nhân sách của lớp người được giáo dục. Người thầy quyết định chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục, lao động sáng tạo của nghề dạy học là yếu tố quan trọng nhất trong sự cấu thành chất lượng của tay nghề thầy giáo, cô giáo. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Mỗi giáo viên đều phải xác định được vai trò và nhiệm vụ của mình. Nâng cao ý thức trách nhiệm, không ngừng tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực, để góp phần mình vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo, để đào tạo ra những lớp người có đủ đức, đủ tài, có sức khoẻ để nối gót những lớp người đi trước xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Vì vậy cần phải xây dựng đội ngũ giáo viên nói chung và giáo viên bậc THCS nói riêng, trước hết là những người có đạo đức, trình độ và năng lực. Đó là nhiệm vụ hết sức quan trọng của ngành giáo dục - đào tạo.
Các cấp, các ngành đặc biệt là ngành giáo dục đã có những chủ trương, bện pháp để nâng cao trình độ, năng lực của giáo viên bằng nhiều hình thức như việc mở các lớp tại chức để nâng cao trình độ, tổ chức các lớp bồi dưỡng chính trị, bồi dưỡng về phương pháp dạy học... vào dịp hè để nâng cao nhận thức chính trị, xã hội, nâng cao tay nghề cho giáo viên, đáp ứng được nhu cầu của công tác giáo dục, đào tạo ra được những lớp người đáp ứng được với thời kỳ đổi mới hiện nay, công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Là một cán bộ quản lý trường học, việc giáo dục học sinh phát triển toàn diện tôi thường xuyên quan tâm. Với vốn kiến thức đã được học trong trường sư phạm, về tâm lý lứa tuổi ở bậc THCS và nhiều năm được trực tiếp giảng dạy đối tượng học sinh này. Chính vì vậy tôi đặc biệt chú ý nghiên cứu việc hình thành và phát triển nhân sách học sinh ở bậc THCS.
II- Mục đích của đề tài:
Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hình thành nhân cách XHCN cho học sinh THCS. Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường. Từ thực tiễn quá trình công tác của bản thân trong việc quản lý nhà trường đồng thời học tập kinh nghiệm các trường bạn. Qua nghe báo cáo kinh nghiệm của các trường tiên tiến để đúc rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc nâng cao chất lượng toàn diện nói chung và việc phát triển nhân cách cho học sinh nói riêng.
III- Thời gian nghiên cứu:
Việc giáo dục phát triển nhân sách cho con người cần phải có thời gian thường xuyên và liên tục. Chính vì vậy việc hình thành nhân cách cho học sinh bậc THCS cần phải được tiến hành liên tục trong 4 năm, theo khoá học tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài này và đánh giá kết quả qua 4 khoá học sinh học và tốt nghiệp THCS.
IV- Nhiệm vụ của đề tài:
- Nghiên cứu một số giải pháp trong việc hình thành nhân sách cho học sinh THCS.
- Tìm hiểu thực trạng công tác thực hiện việc hình thành nhân sách cho học sinh THCS trong phạm vi trường của mình.
- Hệ thống một số biện pháp thực hiện có hiệu quả trong việc hình thành nhân cách cho học sinh THCS.
V- Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu qua thực tiễn chỉ đạo việc hình thành nhân cách cho học sinh THCS của trường mình và học tập các trường tiên tiến.
- Tổng kết kinh nghiệm chỉ đạo của Phòng giáo dục, Sở giáo dục - đào tạo về các giải pháp hình thành nhân cách cho học sinh THCS.
- Nghiên cứu qua lý luận bài giảng của các lớp học cán bộ quản lý giáo dục - đào tạo.
Phần II: Nội dung
Chương I:
Cơ sở lý luận
><
I- Vị trí và tầm quan trọng của giáo dục:
Giáo dục - đào tạo có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi giáo dục - đào tạo làm ra sản phẩm là con người có tri thức để xây dựng và bảo vệ đất nước. Khi đất nước mới được giải phóng Bác Hồ đã kêu gọi: "diệt giặc dốt, giặc đói, giặc ngoại xâm". Ngày nay Đảng và Nhà nước ta luôn luôn làm theo lời dạy của Người. Xoá đói giảm nghèo, đối với giáo dục đã phổ cập giáo dục trên toàn quốc, tiến tới phấn đấu phổ cập ở các bậc học cao hơn. Làm được điều đó ngành GD - ĐT giữ một vai trò quan trọng "sự nghiệp GD-ĐT, khoa học văn hoá nhằm phát huy nhân tố con người và vì con người trong sự nghiệp xây dựng CNXH, bảo vệ Tổ quốc. Mặc khác khoa học giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, là động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới (Nghị quyết đại hội TWII khoá VII).
Đảng ta luôn luôn chú ý đến việc phát triển sự nghiệp GD - ĐT, xác định vai trò và nhiệm vụ của ngành GD - ĐT, Nghị quyết TW II khoá VIII đã nêu rõ: "Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của ngành giáo dục là nhiệm vụ xây dựng những con người và thế hệ gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa".
Đất nước ta đang trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại, bảo vệ và phát huy những tiềm năng của dân tộc và của con người Việt Nam. Vì vậy con người Việt Nam cần có tri thức, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, luôn làm chủ những tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có sức khoẻ để kế thừa xây dựng CNXH. Vì vậy ngành GD - ĐT cần xác định được nhiệm vụ quan trọng của mình, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó để đáp ứng được thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
II- Vai trò của công tác dạy và học:
Hoạt động của ngành giáo dục là một hoạt động vô cùng rộng lớn, con người là sản phẩm của GD - ĐT. Nhân tố con người quyết định sự phát triển của giáo dục, của xã hội, của đất nước. Để làm tốt công tác GD - ĐT, quản lý giáo dục có tính chất quyết định đến hiệu quả của giáo dục, nhưng công tác quản lý giáo dục lại vô cùng khó khăn và phức tạp. Chính vì vậy giáo dục phải có sự phối kết hợp giữa 3 môi trường: Gia đình - nhà trường và xã hội thì mới có thể nâng cao được chất lượng giáo dục.
Thực tế cho thấy rằng nhà trường muốn làm tốt nhiệm vụ giáo dục thì phải có đội ngũ giáo viên có đủ năng lực và trình độ, phối hợp với các ban ngành, các tổ chức chính trị xã hội của đất nước. Năng lực của đội ngũ, điều kiện của cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học và các trang thiết bị, đồ dùng dạy học khác có đáp ứng được cho việc dạy và học hay không. Mục tiêu, nhiệm vụ GD-ĐT thực hiện được đến mức độ nào, chính là nhờ một phần lớn vào năng lực, trình độ khoa học của người quản lý. Như triết học Mác - LêNin đã khẳng định: "Vai trò to lớn của cá nhân trong tập thể". Vì vậy xây dựng đội ngũ giáo viên trong giáo dục hết sức quan trọng trong quá trình dạy học. Phòng giáo dục chỉ đạo các trường phổ thông, các trường học là những đơn vị độc lập trong hệ thống GD-ĐT. Song nội dung, mục tiêu, phương pháp đều thống nhất. Do đó chất lượng giáo dục ở ngành học phổ thông nói chung, ở bậc THCS nói riêng có một vai trò hết sức to lớn và quan trọng trong quá trình GD-ĐT con người, những thế hệ kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, muốn phát huy tính tích cực của đội ngũ giáo viên thì đội ngũ giáo viên phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chuẩn, có năng lực sư phạm, có phẩm chất đạo đức, có tác phong mẫu mực, thương yêu học sinh. Đội ngũ giáo viên phải có trình độ tiếp nhận và phân tích các nguồn thông tin để có phương pháp thích ứng, phù hợp khi xử lý tình huồng. Có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao tay nghề và có uy tín với phụ huynh học sinh để thu được kết quả cao nhất trong quá trình giáo dục.
Chương II:
Thực trạng của trường THCS Yên Hà
><
I- Đặc điểm vị trí địa lý, dân cư, kinh tế - xã hội của xã Yên Hà:
Yên Hà là một xã vùng sâu, vùng xa của huyện Quang Bình, toàn xã có 752 hộ và 3.620 khẩu, có 5 dân tộc anh em: Tày, Dao, Nùng, Kinh, Cao Lan. Xã được phân bố thành 9 thôn bản. Trong đó có những thôn đặc biệt khó khăn, là nơi tập trung của đồng bào dân tộc Dao. Đồng bào các dân tộc Dao, Nùng vẫn còn sinh đẻ nhiều, số gia đình 3-4 con vẫn còn phổ biến. Nền kinh tế của một số hộ gia đình còn khó khăn, do đó việc huy động đóng góp xây dựng trường không thuận lợi.
Tình hình an ninh chính trị ổn định, không có những hiện tượng vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Nhân dân địa phương tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền.
Về hệ thống giáo dục, toàn xã trước đây có một trường liên cấp (trường PTCS) bao gồm cả Mầm non, tiểu học và THCS. Từ tháng 8 năm 2004 được thành lập 3 trường: Trường Mầm Non, trường Tiểu học và trường THCS. Các em trong độ tuổi đến trường trong toàn xã khá đông, nhưng do điều kiện một số thôn bản cách xa trung tâm xã. ở bậc tiểu học có các phân trường ở tại các thôn bản, đến bậc THCS có đến 1/3 số học sinh của trường đi học ở các xã bạn, do vậy số học sinh trường THCS chênh lệch quá lớn so với học sinh trường Tiểu học trong xã.
II- Đặc điểm của trường THCS Yên Hà:
- Trường THCS Yên Hà mới được tách ra từ trường PTCS và thành lập từ tháng 8 năm 2004.
1. Số lớp, số học sinh:
Năm học 2004-2005, trường THCS Yên Hà có 8 lớp với 262 học sinh.
* Trongđó:
+ Khối 6: 02 lớp = 81 học sinh
+ Khối 7: 02 lớp = 55 học sinh
+ Khối 8: 02 lớp = 62 học sinh
+ Khối 9: 02 lớp = 64 học sinh
2. Thực trạng đội ngũ giáo viên trường THCS Yên Hà:
Tổng số cán bộ quản lý, giáo viên của trường 16.
Trong đó: + Ban giám hiệu: 01
+ Giáo viên trực tiếp giảng dạy: 15
Trong tổng số giáo viên trực tiếp giảng dạy, chia theo trình độ.
+ Cao đẳng: 12
+ 7+3: 02
+ 10 + 2: 01 (Giáo viên tiểu học dạy nhô)
Đại bộ phận cán bộ giáo viên trong trường có đời sống ổn định, an tâm công tác, tuổi đời cao nhất là 49; trẻ nhất là 22 tuổi. Đó là một đội ngũ có năng lực, có tinh thần trách nhiệm. Chính vì vậy họ luôn phát huy được vai trò của mình trong công tác, thể hiện được phẩm chất tốt đẹp của người giáo viên, có uy tín với phụ huynh học sinh. Trường THCS Yên Hà năm học 2004-2005, số giáo viên, cán bộ quản lý đạt được các danh hiệu thi đua với tỷ lệ khá cao.
- Đề nghị công nhận danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp Tỉnh: 02
- Giáo viên giỏi cấp huyện: 01
- Lao động giỏi: 03
- Giáo viên giỏi cấp trường: 03
- Số còn lại hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Với đội ngũ giáo viên THCS như vậy, những năm trước đây đã góp phần xây dựng trường PTCS Yên Hà nhiều năm liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến.
III- Hình thành nhân cách cho học sinh Trung học cơ sở:
Học sinh THCS bắt đầu từ 11 tuổi vào học lớp 6, lúc này các em gặp nhiều thay đổi về môi trường, chuyển sang cấp học mới, tiếp xúc với nhiều thầy cô giáo trong một buổi học và tâm lý của các em cũng có sự phát triển khác biệt ở cấp Tiểu học. Nhưng dù ở lứa tuổi nào, cấp học nào các thầy, cô giáo cũng phải hiểu được tâm lý của các em, có phương pháp giáo dục phù hợp để phát triển nhân cách cho các em. Nhân cách của cá nhân không sinh ra cùng một lúc với sự ra đời của cá nhân, mà nó được hình thành và phát triển dần dần từ nhỏ đến lớn và cần được bồi đắp trong suốt cả cuộc đời. Theo quan niệm phổ biến hiện nay các thành tố của nhân cách xây dựng nên từ tổng hợp các tính chất, tinh thần, các quá trình nhận thức, các thái độ xúc cảm, tình cảm và hành động.
Tất cả các thái độ riêng ấy đều gắn bó với động cơ chung của cả cuộc đời, cũng như với động cơ cụ thể trong từng hoạt động của từng người. Động cơ có nhiều mức, trong đó động cơ cao nhất là lý tưởng của cuộc đời như hình ảnh đẹp, một tâm lý khoa học, một chuẩn mực đạo đức. Có nhiều cách để tìm hiểu xem con người có hệ thống động cơ nào là động cơ chính. Ta so sánh một học sinh ngoan và một học sinh chậm tiến cho thấy rõ. Một bên nhằm vươn tới những gì thuộc về su hướng tiến bộ của xã hội, còn một bên trong suốt quá trình luôn biểu hiện sự suy thoái nhân cách, lao vào con đường nô lệ. Các biểu hiện bản năng nếu tự có ý thức do giáo dục đúng đắn sẽ được phát triển tốt. Nhân cách là cấu tạo mới do từng người tự hình thành và được phát triển trong quá trình sống, giao tiếp, học tập và lao động, vui chơi bằng các hoạt động xã hội. Con người ngay từ nhỏ đã lĩnh hội những phong cách sống của loài người chứa đựng trong mối quan hệ xã hội, có liên quan đến hoạt động của trẻ như Lê-nin nói: "Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý đạo đức của xã hội mà nó là thành viên, nhân cách con người hình thành và phát triển theo con đường từ bên ngoài hấp thụ vào bên trong nội tâm, từ các quan hệ với thế giới đồ vật do các thế lực trước họ tạo ra từ các quan hệ xã hội mà nó gắn bó".
Công tác giáo dục của chúng ta nhằm xây dựng toàn diện nhân cách cho con người Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới cần có những con người lao động sáng tạo, có trình độ, năng lực, có tay nghề giỏi, có tâm hồn trong sáng và khả năng giao tiếp là rất quan trọng vì tất cả các mối quan hệ xã hội, quan hệ người, vật, quan hệ với các thiết bị lao động sản xuất đều gắn bó bằng cách này hay cách khác thông qua mối quan hệ giữa người với người, trong các tổ chức có các mối quan hệ giao tiếp sẽ làm cho con người phát triển về nhân cách.
Cũng như trong quá trình sống trong gia đình, đến trường học, sinh hoạt trong các tổ chức như: Trường, lớp, đoàn đội. Các tổ chức này kết hợp cùng với gia đình, xã hội cũng chưa chắc đã là môi trường tốt. Vấn đề là ở chỗ cả gia đình và các tổ chức trong xã hội đều phải hướng các em vào những hoạt động phù hợp với tâm lý lứa tuổi, thu hút các em vào những hoạt động bổ ích để vun đắp cho những tâm hồn nhân cách tốt. Giáo dục của chúng ta mong muốn không có những học sinh chậm tiến trong một môi trường giáo dục tốt.
IV- Phát triển nguồn lực:
Sự phát triển của con người không chỉ là quá trình lựa chọn, cải tiến cái tối ưu trong hoạt động của con người nói chung, mà trước hết phải có một quan niệm đúng đắn về vai trò của con người trong phát triển kinh tế - xã hội. Đánh giá đúng vị trí của con người, nhất là giá trị tinh thần, giá trị đạo đức. Khái niệm phát triển con người giữ vai trò then chốt trong việc hoạch định "chiến lược GD-ĐT con người", hoạch định của đường lối đổi mới là đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
Đó là chiến lược của con người do con người và vì con người. Phát triển con người là điều kiện cơ bản để phát triển tài năng của từng con người, từng tổ chức và cộng đồng. Đây là bài học giá trị trong những năm đổi mới về phát triển GD-ĐT để tạo ra những lớp người có đạo đức, có tri thức, có kỹ năng sống và kỹ năng nghề nghiệp. Chăm sóc cho sự nghiệp GD-ĐT, bồi dưỡng sức mạnh vật chất, sức mạnh tinh thần của con người nhằm đào tạo nguồn nhân lực. Phát triển GD-ĐT, giáo dục từng con người nhằm xây dựng nền móng phát triển nguồn lực lâu dài, đặt con người vào trọng tâm phát triển, xem con người là mục tiêu và động lực phát triển kinh tế - xã hội. Lấy văn hoá dân tộc là động lực thúc đẩy sự phát triển, tăng trưởng kinh tế gắn bó với đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, GD-ĐT, thực hiện tốt sự công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Con người là điều kiện cơ bản để đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đó là quan điểm chính để phát triển nhanh và bền vững đất nước. Nguồn nhân lực con người giữ một vị trí đặc biệt trong cơ cấu các yếu tố phát triển kinh tế. Nguồn nhân lực rất dồi dào, phải tập trung vào chuyển dịch cơ cấu, phân công lao động, giải quyết việc làm, phân bổ nguồn nhân lực, đào tạo lại, đào tạo mới để đáp ứng được với nền khoa học công nghệ mới. Trình độ văn hoá, tình độ dân trí có ảnh hưởng tới trình độ nghề nghiệp và năng suất lao động.
V- Phát triển nhân cách cho học sinh THCS:
Trong quá trình phát triển tâm lý con người, về phương diện cá thể của học sinh THCS. Đây là giai đoạn các em có nhiều thay đổi về tâm lý. ở lứa tuổi 11, 12 bắt đầu vào lớp 6 các em đang ở lứa tuổi dậy thì, đang tập làm người lớn và muồn được làm người lớn. Do nền kinh tế - xã hội phát triển, điều kiện sinh hoạt của các em nâng cao cả vật chất lẫn tinh thần, các em rất nhậy cảm với những thay đổi. Do vậy các tổ chức xã hội nói chung và nhà trường nói riêng, đặc biệt là các tổ chức như đoàn - đội và trực tiếp là các thầy cô giáo phải có phương pháp giáo dục phù hợp để các em có được những hành động đúng đắn trong các hoạt động. Trong suốt quá trình học tập ở trường THCS, các em chuyển từ lứa tuổi thiếu niên sang lứa tuổi thanh niên.
Trường THCS Yên Hà là một trường thuộc vùng sâu, vùng xa của huyện đại đa số các em và học sinh dân tộc ít người, do vậy đến cuối bậc THCS phần lớn các em đã ở lứa tuổi 15 - 16 thậm trí có em 17 tuổi. ở lứa tuổi này các em có lòng tự trọng cao và đặc biệt ở lứa tuổi 11-17 là thời kỳ sinh lý thay đổi vì vậy phần nào có ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính cách của các em. Giáo viên phải nắm vững tâm lý học sinh và cá tính từng em để hướng các em có được phong cách sống đẹp, tránh những hiện tượng tiêu cực xảy ra vì nếu giáo dục không khéo ở lứa tuổi này các em rất dễ tự ái, dẫn đến tự ti và tiêu cực. Nhưng nếu có được phương pháp giáo dục phù hợp thì sẽ khơi dậy được và hình thành một nhân cách mạnh mẽ, một nhân cách tốt hướng tới sự phát triển những nét đẹp trong từng cá nhân, tạo ra một lớp người, một thế hệ đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội.
Đào tạo thế hệ trẻ là mục tiêu của quốc gia trong từng giai đoạn nhất định, nhà trường có vị trí, chức năng đặc biệt trong sự nghiệp "trồng người". Bậc THCS có vai trò quan trọng và rất to lớn trong việc hình thành nhân cách cho học sinh.
Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường của xã hội hoá, là nơi có những thế mạnh đặc biệt trong việc hình thành nhân cách cho các em, vì các em có những tình cảm đặc biệt đối với những người ruột thịt trong cuộc sống rất đời thường. Đồng thời có những giá trị văn hoá bền vững, có thời gian gắn bó rất nhiều so với môi trường khác.
Xã hội là tổng hoà của các mối quan hệ, việc hình thành nhân cách của các em chịu ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể hoạt động ở đây bao gồm: Một hệ thống làm việc, những hành vi cư xử, việc sử dụng các phương tiện, công cụ, sự tuân thủ theo quy tắc chuẩn mực xã hội. Như vậy các hoạt động giao tiếp có vai trò quan trọng trong sự hình thành nhân sách của các em. Các em làm "người" thông qua các hoạt động làm việc, thông qua các mối quan hệ xã hội. Tất cả các mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp đều có thể ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh trung học cơ sở theo hai hướng: Tích cực và tiêu cực.
Mọi yếu tố nêu trên đều có những thế mạnh và hạn chế của nó, nếu các yếu tố của 3 môi trường: nhà trường, gia đình, xã hội đều tác động tới học sinh theo cùng một hướng đúng đắn và thống nhất thì việc hình thành và phát triển nhân cách cho các em sẽ có hiệu quả cao hơn. Nếu các yếu tố đó tác động tới học sinh không đồng bộ, trái ngược nhau thì sẽ vô hiệu hoá lẫn nhau, ảnh hưởng xấu tới việc hình thành và phát triển nhân cách cho các em.
Thực tế hiện nay trường THCS Yên Hà luôn dựa vào 3 môi trường: Gia đình, nhà trường và xã hội để hình thành nhân cách cho học sinh. Đầu năm học giáo viên chủ nhiệm phải hoàn thành sơ yếu lý lịch học sinh để nắm vững điều kiện, hoàn cảnh từng em. Tìm hiểu kỹ tâm lý các em để có phương pháp giáo dục, giúp đỡ các em.
Nhà trường kết hợp với gia đình thông qua sổ liên lạc để thường xuyên giữa gia đình và nhà trường có sự trao đổi, kết hợp giáo dục học sinh kịp thời.
Nhà trường luôn tham mưu với cấp uỷ, chính quyền địa phương trong việc xây dựng một môi trường xã hội lành mạnh để các em không bị ảnh hưởng bởi những hiện tượng tiêu cực của xã hội.
Trong các hoạt động của nhà trường, hướng các em vào hoạt động trong các tổ chức có nề nếp như lớp, chi đội, liên đội, chi đoàn. Thường xuyên hướng các em vào hoạt động theo các chủ điểm của các phong trào thi đua, có sơ kết, tổng kết và khen chê đúng mức, kịp thời. Động viên, khích lệ các em phát huy tính tích cực, giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, chuyên cần học tập nhằm hình thành nhân cách cho các em, tạo điều kiện cho nhà trường đạt được mục tiêu trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục toàn diện.
Đặc biệt đối với học sinh chậm tiến, các thầy, cô giáo phải tìm biện pháp giáo dục khéo léo, mềm dẻo, bền bỉ, kiên trì và đôi khi cần nghiêm khắc, kiên quyết nhằm hạn chế đến mức thấp nhất và hầu như không có học sinh có ý thức tổ chức kỷ luật, phẩm chất đạo đức kém.
Cả 3 môi trường: Gia đình, nhà trường và xã hội có mối liên hệ chặt chẽ với nhau để giáo dục học sinh trong quá trình học ở trường THCS từ lớp 6 đến lớp 9. Ban giám hiệu nhà trường và từng thầy, cô giáo phải thường xuyên có kế hoạch chăm lo đến từng học sinh, về thời gian không có khoảng cách trong nhiệm vụ giáo dục của mình. Đặc biệt trong việc hình thành nhân cách xã hội chủ nghĩa cho học sinh.
* Kết quả chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trong 3 khoá gần đây:
Khoá: 1999-2003
2000-2004
2001-2005
Cả ba khoá không có học sinh xếp loại hạnh kiểm yếu, kém.
ở lớp cuối cấp số học sinh xếp loại hạnh kiểm trung bình giảm dần từ 7% xuống đến 5,5%. Lớp cuối cấp khoá 2001-2005 học sinh xếp hạnh kiểm trung bình chỉ còn 3,2%, số còn lại đều xếp hạnh kiểm khá, tốt.
Phần III:
Kết luận
Sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân nhằm chăm lo và phát triển nhân tài cho đất nước. Trường THCS Yên Hà luôn luôn xác định được nhiệm vụ của mình, góp phần trong việc tạo nguồn nhân lực, nhân tài cho địa phương và cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đaị hoá đất nước.
Công tác giáo dục nói chung, việc hình thành nhân cách xã hội chủ nghĩa cho học sinh, đặc biệt là học sinh ở bậc trung học cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng nhưng cũng vô cùng khó khăn và phức tạp. Vì đây là một môn khoa học nghệ thuật, việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh nói chung nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.
Vậy muốn làm tốt được nhiệm vụ chính trị của mình, đội ngũ cán bộ quản lý cũng như đội ngũ giáo viên phải được thường xuyên bồi dưỡng về chính trị, về kiến thức, về phương pháp và khoa học giáo dục. Muốn vậy Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành phải thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện cho những người làm công tác giáo dục được tham gia học tập.
Yên Hà, ngày 20 tháng 5 năm 2005
Người viết
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp trong việc hình thành nhân sách cho học sinh THCS.doc