MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG 3
1.1. Quá trình hình thành và phát triển 3
1.2. Phạm vi và nội dung hoạt động 4
1.3. Cơ cấu tổ chức 5
1.4. Các loại dịch vụ mà ngân hàng cung cấp 7
1.5. Tóm tắt quá trình thực tập 8
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÓ TÀI SẢN ĐẢM BẢO TẠI NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG 11
2.1. Thực trạng hoạt động kinh doanh trong những năm gần đây 11
2.2. Thực trạng hoạt động cho vay có TSĐB 14
2.2.1. Quy định, chính sách tín dụng của ngân hàng 14
2.2.2. Tình hình cho vay có TSĐB 15
2.2.2.1. Tài sản cầm cố thế chấp 17
2.2.2.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay 21
2.2.2.3. Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba 21
2.3. Đánh giá hoạt động cho vay có TSĐB 22
2.3.1. Một số kết quả đạt được 22
2.3.2. Một số hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động cho vay có TSĐB 24
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÓ TSĐB 27
3.1. Định hướng pháp triển của ngân hàng 27
3.1.1. Định hướng chung 27
3.1.2. Định hướng của ngân hàng 27
3.2. Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay có TSĐB 29
3.2.1. Đa dạng hóa khách hàng . .29
3.2.2. Đa dạng hóa các loại hình cho vay có TSĐB 30
3.2.3. Nâng cao tính pháp lý trong các văn bản, nghị định 32
3.2.4. Nâng cao trình độ của nhân viên tín dụng 33
3.2.5. Nâng cao chất lượng thẩm định tài sản 34
3.2.6. Tổ chức đánh giá lại giá trị TSĐB thường xuyên 35
3.3. Một số kiến nghị 36
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ 36
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước 36
KẾT LUẬN 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 40
DANH MỤC BẢNG BIỂU 41
43 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3506 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay có tài sản đảm bảo tại Ngân hàng Đại Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tất cả các công nhân viên chức NH Đại Dương có trách nhiệm tuân thủ qui định của pháp luật trong lĩnh vực NH, hoạt động tín dụng và các qui định liên quan khác.
Phải phù hợp với chiến lược hoạt động và phát triển của NH Đại Dương theo từng thời kỳ: Việc mở rộng tín dụng phải dựa trên chiến lược, định hướng của NH qua từng thời kỳ và giai đoạn.
Quan điểm bình đẳng và hướng tới khách hàng: Trong cấp tín dụng, NH Đại Dương không phân biệt thành phần kinh tế, hình thức sở hữu và thực hiện theo đúng qui trình cấp tín dụng.
Đề cao trách nhiệm cá nhân: NH đề cao trách nhiệm của cá nhân trong hoạt động tín dụng, tuân thủ các bước cấp tín dụng, các cá nhân được giao quyền quyết định và phải chịu trách nhiệm đối với quyết định đó, không ngừng học hỏi nâng cao trình độ đạo đức và nghiệp vụ.
2.2.1.2. Chính sách tín dụng của NH TMCP Đại Dương:
Chính sách cho vay:
- Đối tượng vay vốn: Mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn.
- Nguyên tắc cho vay:
+ Sử dụng đúng mục đích
+ Hoàn trả gốc và lãi đúng hạn
- Điều kiện cho vay:
+ Phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự.
+ Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
+ Có phương án đầu tư, sản xuất kinh doanh khả thi và phù hợp với qui định của pháp luật.
- Mức cho vay: Điều này còn căn cứ vào: năng lực tài chính của khách hàng, TSĐB, mức độ khả thi của dự án, định hướng phát triển của Nhà nước...
- Thời hạn cho vay:
- Lãi suất cho vay: Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt theo qui định của NHNN, NH Đại Dương .
- TSĐB: Định giá TSĐB vô cùng quan trọng trong việc xác định hạn mức cho vay
Chính sách quản lý rủi ro tín dụng:
- Không tập trung cấp tín dụng quá cao cho một nhóm khách hàng, một ngành nghề.
- Khi quyết định cấp tín dụng cho một dự án lớn phải thực hiện theo chế độ tập thể.
- Đối với các dự án có vốn vay trên 10 tỷ đồng thì phải trải qua 3 phòng: Phòng thẩm định dự án, phòng quản trị rủi ro và phòng quản lý nợ.
Tình hình cho vay có TSĐB:
Bất cứ một doanh nghiệp sản xuất nào cũng cần vốn, đặc biệt hiện nay trong điều kiện các doanh nghiệp rất cần đi tắt đón đầu trong sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy vốn lại càng có ý nghĩa rất quan trọng giúp doanh nghiệp đầu tư đổi mới máy móc thiết bị nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra các sản phẩm có tính cạnh tranh và hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế. Sở giao dịch đứng trên tư cách như là một NHTM cũng là một nơi để các doanh nghiệp huy động vốn. Khi cho vay, ngân hàng phải tuân thủ các quy chế về cho vay, quyết định về đảm bảo tiền vay và giao dịch đảm bảo.
Hiện nay căn cứ vào Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng NNVN ban hàn quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng; Quyết định số 28/2002/QĐ-NHNN ngày 11/01/2002 về sửa đồi điều 2 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHH; Nghị đinh 178/1999/NĐ-CP ra ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, Nghị định 85/2002/NĐ- CP về sửa đổi bổ xung nghị định 178, Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch đảm bảo; cùng với các Quyết định về việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hệ thống Ngân hàng Đại Dương Việt Nam, trong năm qua hoạt động bảo đảm tiền vay tại ngân hàng đã có những bước chuyển biến đáng kể.
Đảm bảo tiền vay là một điều kiện cho vay quan trọng, vì vậy trong quan hệ với các doanh nghiệp nhà nước, Ngân hàng luôn xác định thực hiện bảo đảm tiền vay là điều kiện không thể thiếu trong quan hệ vay vốn, bảo lãnh và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Bảng 2.2: Doanh số cho vay theo các hình thức bảo đảm
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm
Tổng DSCV
DSCV có BĐBTS
DSCV không có BĐBTS
%DSCV có BĐBTS/ Tổng DSCV
2007
1013,783
197,163
861,620
19,4%
2008
1371,625
310,400
1061,225
22.6%
2009
1833,723
610,740
1222,983
33,31%
20010
1682,586
758,227
924,359
45,06%
(Nguồn: Báo cáo kết quả cho vay của ngân hàng từ năm 2007-2010)
Vấn đề bảo đảm tiền vay trở thành một vấn đề rất cần thiết đối với công tác bảo toàn vốn và phát triển hoạt động tín dụng của mỗi ngân hàng, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Sau 18 năm hoạt động, các khách hàng của Ngân hàng chủ yếu là các khách hàng quen,có mối quan hệ làm ăn lâu năm vì thế khoản mục cho vay không có tài sản đảm bảo chiếm khá lớn trong doanh số cho vay của Ngân hàng. Tuy nhiên trong thời gian gần đây do yêu cầu phát triển của nền kinh tế, hội nhập và mở cửa mà qua bảng trên ta thấy Ngân hàng Đại Dương đã chú ý nhiều tới vấn đề tài sản đảm bảo. Doanh số cho vay không có Bảo đảm bằng tài sản tuy chiếm một tỷ trọng lớn nhưng có xu hướng ngày càng giảm, doanh số cho vay có bảo đảm ngày càng tăng từ 19,4% (2007); 22.6% (2008); 33,31%(2009) tới 45,06% (2010). Có được điều này là do xuất phát từ phương châm đa dạng hoá khách hàng, hoạt động an toàn hiệu quả của Ngân hàng. Trong các loại hình bảo đảm tiền vay bằng tài sản thì hình thức bảo đảm tiền vay hình thành từ vốn vay tuy là hình thức mới song doanh số cho vay cao nhất và chiếm tỷ trọng lớn trong các loại hình tài sản bảo đảm, tiếp theo đó là thế chấp, cầm cố và bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
Tài sản cầm cố thế chấp
Trong nghiệp vụ cho vay của các ngân hàng hiện đại, việc thu hồi nợ từ thanh lý tài sản cầm cố thế chấp được coi là nguồn trả nợ thứ hai của dự án khoản vay ( nguồn trả nợ thứ nhất là từ nguồn thu của bên vay từ dự án). Vì vậy trong hoạt động của Ngân hàng, tài sản cầm cố, thế chấp cũng được nhiều chú ý và có bước tiến đáng kể.
Bảng 2.3 : Dư nợ cho vay có tài sản cầm cố, thế chấp
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm
Tổng
dư nợ
Dư nợ có BĐBTS
Dư nợ có TSĐB của khách hàng vay
DNTC/ dư nợ có ĐB
DNCC/ dư nợ có ĐB
Số tiền
Số tiền
%/ Tổng dư nợ
Cầm cố
Thế chấp
1
2
3
4
5
6
7
8
2006
862
129
15%
2,8
2,3
1,79%
2,17%
2007
930
197
21,24%
13,2
8,4
4,27%
6,7%
2008
1508,232
695,520
46,11%
85,751
52,079
7,49%
12,33%
2009
2050,689
1167,840
56,95%
29,629
57,882
4,96%
2,54%
(Nguồn: Báo cáo kết quả cho vay của Ngân hàng Đại Dương năm 2007-2010)
Tài sản cầm cố:
Hiện nay tại Ngân hàng Đại Dương, đối tượng cho vay cầm cố chủ yếu là các cá nhân, hộ gia đình vay để sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và một số doanh nghiệp cầm cố động sản để vay vốn, mở rộng sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất. Tài sản được dùng làm tài sản đảm bảo là các giấy tờ có giá như sổ tiết kiệm, trái phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, cầm cố vàng kim khí quý và các tài sản khác mà độ an toàn tương đối cao, giá trị tín dụng cấp trên tài sản lớn. Đối với các tài sản cầm cố là các loại máy mc thiết bị, do điều kiện nền kinh tế nước ta chưa phát triển nên hầu hết các máy móc lạc hậu, hiệu quả kinh tế thấp, hao mòn nhanh vì vậy sẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong việc định giá các tài sản, hơn nữa đây là các loại tài sản có giá trị lớn, chuyên dùng để sản xuất một loại mặt hàng gây khó khăn trong việc phát nại và giá trị thu hồi không đảm bảo. Vì vậy tài sản mà Ngân hàng ưu đãi nhất hiện nay là sổ tiết kiệm, chiếm hơn 80% tổng số tài sản cầm cố.
Biểu đồ số 2.3: Tỷ trọng các loại tài sản cầm cố
(Nguồn: Báo cáo kết quả cho vay của Ngân hàng năm 2010)
Doanh số và dư nợ cho vay cầm cố: Doanh số và dư nợ cho vay cầm cố chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng số tài sản bảo đảm tiền vay từ 2,17%; 6,7%; 12,33%; 2,5% , tỷ trọng này có xu hướng tăng qua các năm 2007-2009 và hơi giảm năm 2010 vì Ngân hàng có xu hướng sử dụng tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay hơn.
Hiện nay theo quy định của Ngân hàng Đại Dương, mức cho vay tối đa với tài sản cầm cố được quy định như sau:
Với tài sản cầm cố là giấy tờ có giá: Mức cho vay tối đa bằng số tiền gốc cộng lãi chứng từ có giá trừ số lãi phải trả cho ngân hàng trong thời gian xin vay.
Với tài sản cầm cố do khách hàng vay, bên bảo lãnh giữ sử dụng hoặc bên thứ ba giữ, mức cho vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản bảo đảm.
Với tài sản cầm cố do ngân hàng giữ. Mức cho vay tối đa bằng 75% giá trị tài sản bảo đảm.
Chất lượng các khoản cho vay cầm cố của sở giao dịch trong thời gian qua là rất hiệu quả, khách hàng luôn sử dụng tiền vay đúng mục đích và hoàn trả đúng thời hạn, Ngân hàng Đại Dương chưa phải xử lý tài sản cầm cố đối với bất kỳ một khoản vay nào để thu hồi nợ. Việc không phát sinh khoản nợ quá hạn trong cho vay cầm cố là một thành tích rất đáng biểu dương tạo tiền đề phát triển lâu dài cho hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố tại Ngân hàng Đại Dương.
Tài sản thế chấp.
Ngân hàng Đại Dương cho vay có tài sản thế chấp chủ yếu là các cá nhân, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân với mục đích xin vay phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Tài sản thế chấp hiện nay chủ yếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và một số loại tài sản khác. Thế chấp quyền sử dụng đất là một vấn đề phức tạp hơn so với biện pháp bảo đảm khác vì nó liên quan tới đất đai (một thứ tài sản thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý). Do thực hiện đúng quyết định của Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng Đại Dương đã đánh giá hợp lý và chính xác tài sản thế chấp, trên cơ sở đó đưa ra các mức cho vay tương ứng linh hoạt.
Mức cho vay tối đa bằng 75% giá trị tài sản đảm bảo.
Riêng mức cho vay tối đa so với giá trị quyền sử dụng đất do Tổng giám đốc quy định cụ thể từng thời kỳ trong phạm vi mức nói trên.
Đối với bộ chứng từ xuất khẩu thế chấp cho vay mức cho vay tối đa bằng 100% giá trị bộ chứng từ hoàn hảo.
Trong các loại tài sản thế chấp thì hiện nay thế chấp bằng nhà cửa, vật kiến trúc được ưa chuộng hơn cả do thế chấp bằng nhà cửa, quyền sử dụng đất không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt hàng ngày của khách hàng vay. Hơn nữa ở nước ta cơ sở hạ tầng thấp, đời sống vật chất chưa cao nên đất đai nhà cửa vẫn là tài sản có giá trị nhất.
Biểu đồ số 2.4: Tỷ trọng các loại tài sản thế chấp
(Nguồn: Báo cáo kết quả cho vay của Ngân hàng năm 2010)
Doanh số dư nợ và cho vay thế chấp: Qua bảng 2.3 ta thấy khối lượng tài sản thế chấp tăng nhanh qua các năm, từ 2,3 tỷ năm 2007 tới 57,882 tỷ năm 2010. Tuy nhiên tỷ trọng của tài sản thế chấp trên tổng doanh số tài sản đảm bảo là nhỏ, có tăng qua các năm nhưng mức tăng là không đáng kể. Điều này có thể do trong hoạt động cho vay thế chấp đã phát sinh nợ quá hạn, tuy nhiên đa số các khoản nợ này. Ngân hàng Đại Dương đều có khả năng thu hồi chỉ có một số ít buộc Ngân hàng phải bán đấu giá tài sản để thu nợ. Việc phát sinh nợ quá hạn cho thấy Bảo đảm tiền vay không phải là rào chắn rủi ro an toàn nhất để bảo vệ an toàn nguồn vốn tại Ngân hàng. Chính sự am hiểu về chuyên môn nghiệp vụ, cộng với khả năng nắm bắt thông tin nhanh nhậy để phân loại, thẩm định chính xác và toàn diện khách hàng, phương án vay vốn…cùng với kỹ năng tạo lập các mối quan hệ bền vững với khách hàng mới là yếu tố then chốt bảo đảm chất lượng và hiệu quả tín dụng cũng như tăng trưởng bền vững trong hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng Đại Dương.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Hiện nay, bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là biện pháp phòng ngừa rủi ro phổ biến nhất, được cả ngân hàng và khách hàng ưa chuộng trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Tỷ trọng cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay luôn chiếm ưu thế vượt trội trong tổng khối lượng cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại các ngân hàng thương mại. Không nằm ngoài xu hướng đó, hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng Đại Dương luôn chiếm tỷ trọng cao, dư nợ không ngừng tăng lên đảm bảo cả về chất lượng và khối lượng tín dụng. Cụ thể là:
Bảng 2.4: Cho vay có TSĐB hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng Đại Dương năm 2007 – 2010
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm
Tổng doanh số cho vay
DSCV có TSĐB
DSCV có BĐ bằng TSHTTVV
% so với tổng DSCV có TSĐB
2007
1013,783
197,163
150,011
76,08
2008
1371,625
310,400
250
80,54
2009
1833,723
610,740
421,265
68,97
2010
1682,586
758,227
612,807
80,82
(Nguồn: Báo cáo kết quả cho vay của Ngân hàng năm 2007 – 2010)
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là việc bên thứ ba cam kết với ngân hàng về việc sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ của mình đối với ngân hàng. Trong thời gian qua, tài sản bảo lãnh của Ngân hàng Đại Dương còn rất khiêm tốn cả về số lượng khách hàng và khối lượng giao dịch do đây là một hình thức còn rất mới mẻ, khách hàng chưa quen sử dụng bởi vì trên thực tế: Với những khoản vay ngắn hạn, khách hàng thường sử dụng tài sản của mình để thế chấp hoặc cầm cố, nếu là các khoản vay trung và dài hạn thì khách hàng sử dụng luôn tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm cho nghĩa vụ của mình. Hơn nữa tại Việt Nam không có nhiều tổ chức cá nhân đứng ra bảo lãnh bởi nghiệp vụ bảo lãnh còn khá mới mẻ với các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Hành lang pháp lý cho hoạt động bảo lãnh còn chưa hoàn thiện và chưa phát huy được công dụng. Ngoài ra tiềm lực về tài chính của các tổ chức kinh tế ở Việt Nam còn nhiều yếu kém, chỉ riêng việc đảm bảo khả năng tự chủ tài chính cho mình còn khó khăn thì không thể đứng ra bảo lãnh cho nghĩa vụ trả nợ của người khác. Nói như trên không có nghĩa là hình thức bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba khả năng mở rộng và phát triển kém, mà ngược lại đây là hình thức có tiềm năng rất lớn và đang được Ngân hàng Đại Dương quan tâm thực hiện.
Đánh giá hoạt động cho vay có TSĐB
Một số kết quả đạt được:
Như vậy đến năm 2010, Ngân hàng Đại Dương đã thực hiện tốt các nhiệm vụ và hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu đặt ra. Nguồn vốn huy động đạt 85,4%,hoàn thành 124% kế hoạch; dư nợ cho vay đạt 105% chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2007 đặt ra.
Đến 31/12/2010, dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 2.788 tỷ đồng, tăng 374 tỷ đồng so với năm 2007, tốc độ tăng 15,5%, đạt 90% kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Đại Dương phù hợp với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn. Trong đó:
Dư nợ cho vay VND: 1.889 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 68% trong tổng dư nợ, tăng 183 tỷ đồng so với đầu năm, tỷ lệ tăng 11%.
Dư nợ cho vay USD (quy VND): 899 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 32% trong tổng dư nợ, tăng 191 đồng so với đầu năm, tỷ lệ tăng 27%.
Dư nợ cho vay ngắn hạn: 988 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 35,4% trong tổng dư nợ, tăng 73 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 8%.
Dư nợ cho vay trung, dài hạn: 1.800 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 64,6% trong tổng dư nợ, tăng 301 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 20%.
Dư nợ cho vay quốc doanh: 2.066 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 74% trong tổng dư nợ, giảm 6%.
Dư nợ cho vay ngoài quốc doanh: 722 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 26% trong tổng dư nợ, tỷ lệ tăng 6%.
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Đại Dương đã có sự chuyển biến tích cực về chất, mức độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng quản lý và giám sát, cho vay thận trọng, không chạy theo số lượng và hướng tới một cơ cấu tín dụng cân đối, hợp lý. Chủ động rút dần dư nợ đối với doanh nghiệp yếu kém, dư nợ cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng cả về tỷ trọng và số tuyệt đối. Dư nợ cho vay có tài sản đảm bảo tăng 9% so với năm 2009. Trong năm đã có thêm 197 khách hàng là các DNNN, doanh nghiệp ngoài quốc doanh thuộc nhiều ngành hàng đến quan hệ tiền gửi và vay vốn tại Ngân hàng Đại Dương.
Vốn tín dụng đã được đầu tư có hiệu quả vào các doanh nghiệp, kinh doanh các ngành hàng lương thực thực phẩm, dược phẩm, hóa chất, ngành công nghệ truyền hình, bưu chính viễn thông, điện lực và dịch vụ giao thông vận tải. Cơ cấu khách hàng cũng từng bước được thay đổi, khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa, khách hàng tư nhân tăng lên rõ rệt, làm cho cơ cấu tín dụng bền vững hơn, phù hợp với chiến lược phát triển của Ngân hàng Đại Dương.
Chất lượng tín dụng đã được nâng lên rõ rệt, các khoản cho vay đều được thẩm định chặt chẽ, nợ quá hạn giảm cả về tỷ trọng và số tuyệt đối, dư nợ quá hạn cuối năm chỉ còn 7,2 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,26% trong tổng dư nợ cho vay.
Về kết quả thu hồi nợ tồn đọng: Ngân hàng Đại Dương đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực để thu hồi nợ quá hạn khó đòi như phát mại tài sản, bám sát đôn đốc khách hàng trả nợ khi có nguồn thu. Kết quả trong năm đã thu được 1 tỷ 932,5 triệu đồng. Tuy nhiên, kết quả thu hồi nợ đọng ngoại bảng còn thấp so với kế hoạch Ngân hàng đề ra.
Như vậy về hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã đạt được nhiều kết quả đáng tin cậy. Khoản cho vay có bảo đảm ngày càng được áp dụng nhiều hơn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, trong đó bảo đảm tài sản bằng nguồn hình thành từ vốn vay chiếm khá lớn. Lượng khách hàng ngày càng được mở rộng và đa dạng hoá, góp phần rất lớn vào sự tăng trưởng cao, bền vững và hiệu quả, làm lành mạnh hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Một số hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động cho vay có TSĐB
Một số những hạn chế trong hoạt động cho vay có TSĐB tại Ngân hàng Đại Dương
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực cho vay có TSĐB, nhưng bên cạnh đó việc nhận tài sản đảm bảo đang gặp không ít những hạn chế vướng mắc
về thủ tục và khả năng thẩm định. Những hạn chế còn đang tồn tại:
- Khó thanh lý các tài sản là máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất hoặc có thanh lý được thì cũng không thu hồi đủ gốc và lãi vay.
- Hạn chế trong việc kiểm soát và xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ đối với những doanh nghiệp nhà nước do không có hoặc thiếu giấy tờ chứng minh quyền sở hữu cần thiết của tài sản.
- Danh mục nhận các loại tài sản mà Ngân hàng có thể nhận thế chấp còn hạn chế.
Những hạn chế trên đây được xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan mang lại.
Nguyên nhân chủ quan của Ngân hàng Đại dương
Là một tổ chức kinh tế hoạt động trong hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Đại Dương cũng chịu một sự cạnh tranh khá gay gắt trong việc tìm kiếm nguồn vốn huy động và tìm khách hàng cho vay vốn. Nền kinh tế thế giới đang trong quá trình hội nhập vì vậy các NHTM liên tục điều chỉnh tăng lãi suất do đó công tác quản trị rủi ro về lãi suất theo thị trường gặp khó khăn, do vậy mà Ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn.
Những sơ sót trong công tác thẩm định: Hiện nay Ngân hàng còn thiếu rất nhiều những nhân viên có kiến thức sâu về các mảng kỹ thuật nghiệp vụ như xây dựng, đóng tàu,…một cán bộ tín dụng phải tìm hiểu rất nhiều kỹ thuật khác nhau do đó việc thẩm định các loại tài sản chủ yếu là trên những chỉ tiêu tài chính và hiệu quả đạt được, đôi khi nó mang tính chất dự đoán của cán bộ tín dụng vì vậy kết quả tất yếu là các khoản thẩm định thiếu sự toàn diện và chính xác trong kết luận. Mặc dù mạng lưới và hệ thống thông tin đã được cải thiện rất nhiều nhưng hiện nay ở Ngân hàng chưa có phòng quản lý các thông tin và xếp loại tín dụng cho khách hàng do đó công tác thu thập và xử lý thông tin thiếu tính hệ thống, chất lượng thông tin không cao, khả năng tích hợp các thông tin còn yếu do đó việc xếp loại tín nhiệm khách hàng còn chưa thực hiện được. Việc đánh giá khách hàng chủ yếu dựa vào chủ quan và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng, theo góc độ khoa học thì việc đánh giá mang tính chủ quan sẽ ẩn chứa rất nhiều rủi ro.Tuy nhận thức rõ được các hạn chế đó nhưng trong điều kiện hiện tại không cho phép nên các cán bộ tín dụng của Ngân hàng vừa phải tự thu thập thông tin, tự đánh giá thẩm định, vừa làm vừa rút kinh nghiệm và khắc phục các khó khăn. Vì vậy điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc triển khai các nghiệp vụ bảo đảm của nguồn vốn.
Nguyên nhân khách quan:
- Đối với tài sản cầm cố, thế chấp:
Hiện nay Ngân hàng Đại Dương thực hiện cầm cố các loại tài sản được quy định tại nghị định 178/1999/NĐ- CP. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện còn có nhiều những bất cập. Theo quy định của Ngân hàng nhà nước, khi cầm cố tài sản, bảo lãnh bằng tài sản, các bên được thoả thuận về việc khách hàng vay, bên bảo lãnh hoặc bên thứ ba giữ tài sản cầm cố, nghĩa là khách hàng vay có thể giữ tài sản là máy móc, thiết bị, dây chuyền. Nhưng theo quy định của Bộ luật dân sự nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu, thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho người thứ ba giữ. Như vậy ở đây có sự thiếu nhất quán và gây khó khăn cho Ngân hàng khi nhận máy móc thiết bị dây chuyền sản xuất làm bảo đảm tiền vay.
Việc thẩm định tài sản bảo đảm còn nhiều thiếu xót và tắc trách, đánh giá chưa sát sao với giá trị thực của tài sản, chủ quan trong việc xác minh tính đúng đắn và hợp pháp của giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất. Điều này gây ra nhiều bất lợi cho Ngân hàng Đại Dương, đòi Ngân hàng phải có biện pháp xử lý tài sản đảm bảo hiệu quả. Song ngay trong công tác xử lý tài sản để thu hồi nợ cũng còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân bao gồm cả chủ quan và khách quan. Ngân hàng vẫn phải theo đuổi những vụ tranh chấp tại toà kinh tế tốn rất nhiều công sức, thời gian, tiền của trong khi việc đôn đốc trả nợ còn nhiều khó khăn, tốc độ thu hồi còn chậm.
Đối tượng khách hàng của Ngân hàng còn bó hẹp trong một số ngành và một số lĩnh vực, chưa tiếp cận nhiều trong việc cấp tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, đặc biệt là thành phần kinh tế liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. Do vậy khối lượng tín dụng nhỏ lẻ, danh mục tài sản được chấp nhận cho cầm cố, thế chấp cũng chưa đa dạng về mặt thực tiễn.
- Bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh:
Hiện nay việc bảo lãnh của Tổng công ty cho các doanh nghiệp thành viên tại Ngân hàng được hạch toán độc lập. Theo thông tư 06/2000 của NHNN quy định “Bên bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình. Tổ chức tín dụng bên bảo lãnh có thể thoả thuận biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh để đảm bảo thực hiện trong nghĩa vụ bảo lãnh”. Tuy nhiên trong thực tế do doanh nghiệp thành viên không hội đủ các tài sản bảo đảm, do vậy tổng công ty đứng ra bảo lãnh, nhưng việc bảo lãnh này là rất khó khăn do hầu hết tài sản của Tổng công ty thuộc quyền quản lý của các doanh nghiệp thành viên, tài sản riêng của Tổng (văn phòng công ty) thường rất nhỏ. Do đó nếu yêu cầu bảo lãnh bằng tài sản sẽ gây khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp thành viên, vì vậy để giải quyết vấn đề này, Ngân hàng Đại Dương đề nghị cho phép tổng công ty bảo lãnh bằng khả năng tài chính chứ không bảo lãnh bằng tài sản.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CHO VAY CÓ TÀI SẢN ĐẢM BẢO TẠI NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG
Định hướng pháp triển của NH
Định hướng chung
Mục tiêu và nhiệm vụ xuyên suốt trong năm 2011 của ngành Ngân hàng Hà Nội là nghiêm túc thực hiện yêu cầu, chỉ đạo của NHNN Việt Nam, thành phố Hà Nội; thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung, giải pháp về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và ngân hàng theo Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ, Chỉ thị của NHNN và chỉ đạo của Thành ủy, UBND TP Hà Nội. Các chỉ tiêu tổng thể (định hướng chung cho ngành Ngân hàng Hà Nội) được đưa ra gồm:
Tổng vốn huy động tăng 25% - 27% so với năm 2010
Tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế phù hợp với mục tiêu tốc độ tăng tín dụng dưới 20% so với năm 2010 của hệ thống Ngân hàng;
Tỷ lệ nợ xấu/Tổng dư nợ nhỏ hơn 3%;
Tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập là 25%;
Định hướng của NH
Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và Quốc tế ngày càng mở rộng, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ phát triển kinh tế của đất nước. Các Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Đại Dương nói riêng gặp không ít khó khăn vướng mắc trong quá trình hoạt động kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực nhất là đối hoạt động tín dụng. Bước sang 2011, trên cơ sở kết quả kinh doanh các năm 2008, 2009, 2010 và căn cứ vào mục tiêu nhiệm vụ và các biện pháp kinh doanh Ngân hàng Đại Dương đề ra nhiệm vụ kinh doanh cho năm 2011, cụ thể như sau:
Các mục tiêu hoạt động kinh doanh năm 2011:
- Nguồn vốn huy động duy trì ở mức 18.000tỷ đồng (cao hơn mức bình quân năm 2010)
- Dư nợ cho vay tăng 15% so với năm 2010
- Lợi nhuận hạch toán nội bộ 400 tỷ đồng.
- Tỷ trọng nợ quá hạn trên tổng dư nợ < 1%.
- Thu phí dịch vụ từ 10 tỷ đồng. (tăng 20% số thực hiện năm 2007).
- Thu nợ khó đòi ngoại bảng 2 tỷ đồng.
- Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp Nhà nước chiếm 70% trong tổng dư nợ.
- Tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo chiếm 58% trong tổng dư nợ.
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, Ngân hàng cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể sau:
a. Đẩy mạnh khai thác mọi nguồn vốn, hướng tới việc tạo lập một cơ cấu nguồn vốn cân đối, chi phí đầu vào thấp.
Bằng mọi biện pháp để duy trì các khách hàng truyền thống. Giao trách nhiệm cụ thể cho các phòng nghiệp vụ và phòng giao dịch có quan hệ trực tiếp với khách hàng chủ động đưa ra biện pháp thu hút vốn khi có nguồn thu. Làm tốt công tác tiếp thị và chăm sóc khách hàng kể cả doanh nghiệp và dân cư có nguồn tiền gửi lớn, để đàm phán giữ nguồn khi đến hạn, tuyệt đối không để khách hàng rút tiền gửi ngân hàng khác vì chưa được quan tâm đầy đủ.
Nghiên cứu, phân tích thị trường, tìm kiếm các đơn vị là các tổ chức đoàn thể, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp có nguồn thu để khai thác vốn. Thường xuyên quảng cáo, tuyên truyền để thu hút nguồn vốn từ dân cư. Tiếp tục đưa ra các hình thức khuyến mãi mới (quà tặng, các chính sách
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo tốt thực tập năm 2011- Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay có tài sản đảm bảo tại Ngân hàng Đại Dương.doc