MỤC LỤC
Phần 1 :Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Đối tượng nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Mục đích nghiên cứu
5. Giả thuyết nghiên cứu
6. Các phương pháp nghiên cứu
Phần 2. Cơ sở lý luận chung
1. Các khái niện cơ bản
1. Khái niệm nhận thức
2. Khái niệm nhu cầu
3. Khái niệm định kiến xã hội
4. Nhận thức chung về đối tượng chấp hành xong hình phạt tù
5. Khái niệm tái hoà nhập cộng đồng
6. Khái niệm tự đánh giá.
2. Một số đặc điểm tâm lý trong quá trình tái hoà nhập cho những người đã chấp hành xong hình phạt tù
Phần 3. Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4745 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhận thức của những người sau khi chấp hành xong hình phạt tù về quá trình tái hoà nhập cộng đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hức chung, và thực tiễn thi hành công tác này ở nước ta hiện nay và thực trạng tái hoà nhập của các đối tượng tù tha hiện nay. Qua đó đóng góp một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các chính sách pháp luật, xã hội về vấn đề này.
2. Đối tượng nghiên cứu :
Tìm hiểu nhận thức của những người sau khi chấp hành xong hình phạt tù về quá trình tái hoà nhập cộng đồng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Tìm hiểu nhận thức của những người sau khi chấp hành xong hình phạt tù về quá trình tái hoà nhập cộng đồng :
3.1. Nhận thức về nhu cầu tái hoà nhập cộng đồng của các đối tượng là tù tha trên cơ sở các chính sác đãi ngộ của Nhà nước và Pháp luật nước ta hiên nay.
3.2. Nhận thức của các đối tượng tù tha về định kiến xã hội, gia đình, bạn bè khi trở về cải tạo tại địa phương.
3.3. Nhận thức của các đối tượng tù tha tiến bộ trong quá trình tái hoà nhập cộng đồng.
3. 4. Nhận thức của các đối tượng tù tha tái phạm tội vi phạm pháp luật
4. Mục đích nghiên cứu :
4.1. Tìm hiểu nhận thức tái hoà nhập, thích nghi xã hội của những người vừa chấp hành xong hình phạt tù dưới các biện pháp giáo dục chuẩn bị về mạt tâm lý và các chính sách khoan hồng của Nhà nước, pháp luật của nước ta hiện nay.
4.2. Đề xuất một số biện pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục những đối tượng tù tha, giúp họ có được nhận thức đúng đắn nhất và trở thành những người có ích khi trở về hoà nhập với cộng đồng.
5. Giả thuyết nghiên cứu :
Thời gian được trở về điạ phương tự cải tạo, rèn luyên bản thân thì nhận thức tái hoà nhập, thích nghi xã hội của những người vừa chấp hành xong hình phạt tù đã dần dần được hình thành một cách đúng đắn, rõ nét và thực sự đã có sự chuẩn bị sẵn sàng cho hoạt động tái hoà nhập, thích nghi với xã hội.
Các đối tượng là tù tha nhận thức rõ ràng những khó khăn khi tái hoà nhập với xã hôi( mặc cảm, không có việc làm, định kiến. . . )
Mặt khác các chính sách, nghị quyết, văn bản, chỉ thị ưu đãi của nhà nước và pháp luật sẽ giúp cho quá trình hoàn lương của các đối tượng sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương cải tạo được nhanh chóng và sớm hoà nhập được với cộng đồng.
6. Các phương pháp nghiên cứu :
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
PHẦN 2 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I. Những khái niệm cơ bản
1. Khái niệm nhận thức
Trong quá trình hoạt động của con người nhận thức là một hoạt động không thể thiếu, nhận thức phản ánh hiện thực xung quanh và chính bản thân mình. trên cơ sở đó con người tỏ thái độ, tình cảm và hành động. Như vậy nhận thức càng sâu sắc, càng tích cực thì càng có cơ sở để có thể tiến hành những hành động phù hợp. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp cứ nhận thức đúng sẽ đi đến hành động đúng.
Theo Can-Tơ nhà triết học cổ điển Đức- cả trong các hệ thống của chủ nghĩa kinh nghiệm duy vật, nhận thức được xem xét như kết quả của hoạt động tư duy của chủ thể nhằm thấu hiểu thế giới bên ngoài. "Can Tơ muốn xây dưng một quan niệm nhận thức riêng của mình, đã đi đến kết luận rằng quan hệ của nhận thức cảm tính với nhận thức giác tính hay lý tính không phải là bậc thấp với bậc cao; Chúng đều là hai hành động khác nhau của trí tuệ. Ông cho rằng để hiểu được bản chất của nhận thức thì cần phải nghiên cứu chính bản thân tri thức. Can Tơ là người muốn nhấn mạnh tính tích cực của chủ thể trong nhận thức".
Nhờ hoạt động nhận thức, chúng ta không chỉ phản ánh hiện tượng xung quanh ta mà cả bản thân, không chỉ phản ánh cái hiện tại mà cả cái đã qua và sắp tới, quy luật phát triển của hiện thực. Nghĩa là hoạt động của nhận thức bao gồm nhiều quá trình khác nhau, mức độ phản ánh khác nhau :cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng. . . những quá trình này sẽ cho chúng ta những sản phẩm khác nhau (hình ảnh, biểu tượng, khái niệm) toàn bộ hoạt động nhận thức có thể chia thành hai giai đoạn lớn :
+ Giai đoạn nhận thức cảm tính bao gồm cảm giác và tri giác.
+ Giai đoạn nhận thức lý tính có quan hệ chặt chẽ và tác động bổ sung cho nhau.
V. I. Lênin đã rút ra kết luận cho hoạt động nhận thức đó là :"từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý của sự nhận thức hiện thực khách quan". Hay "Nhận thức là sự phản ánh của thế giới khách quan vào bộ óc con người"
Có thể nói rằng nhận thức là quá trình phản ánh khách quan vào bộ óc của con người nhưng sự phản ánh này không chỉ giảm thụ động mà là quá trình biện chứng thể hiện tính tích cực của chủ thể trong mối quan hệ với khách thể.
Tóm lại, nhận thức là một quá trình, mang tính tích cực của con người, nhận thức là khả năng phản ánh những thuộc tính của sự vật hiện tượng với quan hệ của chung trong nhận thức khách quan thông qua thực tiễn của con người.
*Mối quan hệ giữ nhận thức và hành vi
Mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi là mối quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau. chỉ có được những hành vi đúng đắn khi có sự nhận thức đúng dắn và ngược lại, bằng việc thực hiện các hành vi chuẩn xác phù hợp mới tạo cho con người hoàn thiện trong nhận thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, nhưng hành vi lại không phù hợp với nhận thức, nhânj thức sai lệch sẽ đễ dàng biến các hành vi bị lệch chuẩn. Có thể thấy rằng hành vi thao tác, công cụ của nhận thức để tác động vào hiện thực khách quan. Qua việc thực hiện hành vi chủ thể của hành vi có thể thay đổi được những nhận thức của họ.
Đối với những người vừa chấp hành xong hình phạt tù họ đều nhận thức được rằng phạm tội là một hành vi trái pháp luật, có ảnh hưởng xấu cho xã hội. Nhà nước và Pháp luật luôn luôn lên án và có những hình phạt đích đáng cho những ai có những hành vi tái với pháp luật. Và khi những người có những hành vi sai lệch các chuẩn mực đạo đức của xã hội, họ đã phải chịu những hình phạt đó là cải tạo trong các trại tạm giam, các trung tâm giáo dưỡng đó là quá trình giúp họ nhìn nhận lại hành vi sai trái của mình từ đó tự kiểm điểm và cải tạo sửa chữa lỗi lầm của mình. Sau thời gian cải tạo tốt trong các trại tạm giam, trung tâm giáo dưỡng họ được trở về địa phương và nhận được các chế độ ưu đái của Nhà nước và pháp luật giúp họ sớm hoàn lương hoà nhập với cộng đồng. Như vậy nhận thức đúng và hành vi đúng sẽ tạo nên một nhân cách đúng và một nhân cách lệch chuẩn khi nhận thức sai và đẩy đến hành vi sai.
2. Khái niệm nhu cầu :
Theo từ điển tâm lí học thì " nhu cầu có nghĩa là điều kiện cần thiết để đảm bảo tồn tại và phát triển. Được thoả mãn thì dễ chịu, thiếu hụt thì khó chịu, căng thẳng ấm ức. Có nhu cầu cá nhân, có nhu cầu chung của tập thể, khi hoà hợp, khi mâu thuẫn; có nhu cầu cơ bản; thiết yếu, giả tạo" (Nguyễn Khắc Viện, Từ điển Tâm lí học, NXB Thế giới, trang 259-260)
Nhu cầu của cá nhân sẽ thay đổi khi trình độ phát triển của xã hội thay đổi. Cho nên cần xác định rõ những tiêu chuẩn sinh lí, xã hội, tâm lí để phân biệt những nhu cầu xác đáng với những ham muốn, đòi hỏi không quan trọng.
Nhu cầu là nhân tố xác định hành động của con người với mỗi nội dung của nhu cầu sẽ hình thành hành động của mỗi cá nhân và từ nội dung của nhu cầu nó sẽ quyết đinh, thúc đẩy hành động của con người. Khi nhu cầu được thoả mãn sẽ làm nảy sinh những cảm xúc dương tính, tạo cho sự phát triển nhân cách của cá nhân hoàn thiện. Và khi cách thức thoả mãn nhu cầu lệch lạc, hoặc không thể thoả mãn dẫn tới những cảm xúc âm tính, là nguyên nhân nảy sinh những lệch chuẩn về hành vi nhân cách. Hay rõ ràng hơn là nhu cầu luôn bộc lộ ở hai chiều hướng : tích cực và tiêu cực. Nhu cầu được xem là tích cực khi nó phù hợp với chuẩn mực xã hội, cộng đồng, bằng những cách thức phù hợp trong điều kiện của bản thân, xã hội để thoả mãn thì sẽ xuất hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực tạo nên sự phát triển nhân cách. Ngược lại nhu cầu tiêu cực nảy sinh khi nó không còn phù hợp với những chuẩn mực xã hội, cách thức để thoả mãn nó không phù hợp và dẫn đến những hành vi lệch chuẩn.
Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu của con người có những đặc điểm cơ bản sau :
Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng. Khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả năng đáp ứng sự thoả mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng. Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thoả mãn no quy định. Nhu cầu có tính chu kì. Nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật : nhu cầu của con người mang bản chất xã hội. Nhu cầu của con người rất đa dạng : nhu cầu vật chất gắn liền với sự tồn tại của cơ thể như : nhu cầu ăn, mặc, ở. . . nhu cầu tinh thần bao gồm : nhu cầu tinh thần bao gồm : nhu cầu nhận thức, nhu cầu thẩm mĩ, nhu cầu lao động, nhu cầu giao lưu và nhu cầu hoạt động xã hội.
Tóm lại, nhu cầu bao gồm nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, nó là yếu cần thiết, tất yếu cho sự tồn tại và ohát triển của cá nhân. Nó định hướng và quy định cho mọi hoạt động của con người. Vì thế nhu cầu tích cực hay không tích cực sẽ ảnh hưởng đến một cá nhân cách hoàn thiện hay lệch chuẩn.
3. Định kiến xã hội
Định kiến xã hội là thái độ có sẵn về đối tượng (ở một con người hay một vấn đề nào đó). Đây chính là sự nhận định, đánh giá mang tính chất một chiều dựa trên cơ sở khách quan nhưng chưa đủ chứng cớ xác định và thường mang một hàm ý xấu.
Định kiến xã hội là sự định hướng mà con người tiếp nhận được từ trong cuộc ssống nhằm tạo ra sự phân biệt xã hội đẫn đến sự phân biệt đối xử. Theo pgs Trần Thị Minh Đức :Định kiến xã hội có 3 mức độ thể hiện sự phân biệt đối xử từ thấp đến cao.
+ Thứ nhất : đó là đặc ngữ thể hiện ở tính miệt thị một cách không cố ý đẫn đến phân biệt đối xử (ví dụ như từ mọi rợ, ngu đần. . . )Đặc ngữ lưu truyền trong nhân gian, trong nhóm xã hội và thường thấm sâu vào ý thức cá nhân một cách vô thức.
+ Thứ hai : đó là sự nhận thức (tri thức, quan niệm, sự hiểu biết về các vấn đề xã hội). Chính vì vậy con người có kiến thức càng cao thì định kiến càng giảm đi
+ Thứ ba : thể hiện trong ứng xử, hành vi, hành động.
Định kiến thường được hình thành trong gia đình, môi trường giáo dục của nhà trường, các phương tiện truyền thông một cách vô thức hay có ý thức.
Định kiến là phân biệt đối xử do sự không ngang nhau về trình độ văn hoá, hoàn cảnh sống, tri thức, vị trí kinh tế- xã hội đẫn đến định kiến bản thân làm thay đổi hình ảnh của bản thân thể hiện ở sự căm ghét bản thân mình, làm méo mó hình ảnh của bản thân. Định kiến dẫn đến sự phân biệt đối xử với người khác do hiệu ứng Pygmalyon (nhà điêu khắc Hy Lạp ) là quá trình hình thành ở người khác những đặc điểm mà thực chất họ không có nhưng người giao tiếp lại nghĩ họ có.
Tóm lại : Định kiến xã hội là suy nghĩ, thái độ có sẵn đối với một người, một nhóm người, một dân tộc hay một vấn đề nào đó. Định kiến xã hội có hai mặt. Thứ nhất, định kién xã hội làm đơn giẩn hoá quá trình xã hội hoá người khác, làm cản trở sự hiểu biết các đối tượng xã hội một cách chính xác. Thứ hai, định kién xã hội dẫn đến thái độ đối xử không đúng làm cho việc tri giác đối tượng sai. Chính hiệu quả thứ hai này là yếu tố vản trở cực kỳ lớn đối với những người lầm lỡ muốn quay trở lại làm người bình thường.
4. Nhận thức chung về đối tượng chấp hành xong hình phạt tù :
Đối tượng chấp hành xong hỡnh phạt tự bao gồm số đối tượng phạm tội đang chấp hành hỡnh phạt tự cú thời hạn hoặc tự chung thõn ở cỏc trại giam, trại tạm giam (họ phải là phạm nhõn), hết thời hạn hay chưa hết thời hạn nhưng tiến bộ được hưởng chính sách khoan hồng được tha về địa phương (đặc xá, ân xá).
Đối tượng tù tha về địa phương về mặt pháp lý họ có nghĩa vụ và được hưởng các quyền như các công dân bình thường khác trừ số phải chấp hành hình phạt bổ sung theo quyết định của Tòa án như : cấm cư trú, quản chế, . . . Phân loại đối tượng tha tù : 2 nhóm cơ bản gồm nhóm đối tượng phải chấp hành tiếp các hình phạt bổ sung theo quyết định của Tòa án và nhóm các đối tượng không phải chấp hành các hình phạt và các biện pháp bổ sung khác. Nhìn chung các đối tượng tù tha ở địa phương rất phức tạp và da dạng về loại hình, đặc điểm, sự hoạt động và tính chất mức độ vi phạm cũng như thái độ cải tạo.
5 Khái niệm tái hoà nhập cộng đồng :
5. 1. Khái niệm cộng đồng :
Fich Ter, nhà xã hội tư sản trong tác phẩm "những khái niệm cơ bản của TLHXH" hiểu cộng đồng bao gồm 4 yếu tố cơ bản sau đây :
+ Sự tương quan cá nhân mật thiết với người khác, tương quan này có thể hiểu là tương quan mặt đối mặt, thân mật.
+ Có sự liên hệ về mặt tình cảm hay cảm xúc trong mọi cá nhân, khi thức hiện các vai trò xã hội, nhiệm vụ được giao.
+ Có sự hiến dâng về mặt tinh thần đối với giá trị mà tập thể cho là cao cả.
+ Có yếu tố đoàn kết, hợp tác với người khác và với tập thể.
Theo quan điểm của nhà xã hội Mác xít thì cho rằng :
"Cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa cá nhân, được quy định bởi nhóm cộng đồng về các lợi ích của họ, nhờ sự giống nhau về cái được tồn tại và hoạt động của con người hợp thành cộng đồng đó".
Tóm lại, có nhiều quan niệm khác nhau về cộng đồng, tuy nhiên chúng ta có thể hiểu cộng đồng như sau :
- Cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa con người với nhau, được quy định bởi những đặc trưng chung. Trong đó con người có cùng quyền lợi và những nghĩa vụ phải thực hiện.
- Cộng đồng phải thể hiện mối liên hệ về mặt tình cảm hay cảm xúc ở mọi cá nhân, trong cộng đồng đó con người phải tuân thủ và có thái độ tích cực đối với giá trị mà tập thể cho là cao cả.
5. 2. Khái niệm tái hoà nhập cộng đồng :
Đối với cuộc sống đời thường mà những người vi phạm, những người lầm lỗi đó mất đi. Có quan điểm cho rằng tái hũa nhập cộng đồng là “tái hoàn lương” trở lại Tái hũa nhập cộng đồng thực chất là các biện pháp quản lý của công đồng đối với những người lầm lỗi. Nhiều người lại thống nhất cho rằng tái hũa nhập cộng đồng là “quay lại lần thứ hai” hũa nhập với cộng đồng xó hội những người có qua khứ tội lỗi sau một thời gian bị cách lý khỏi xã hội, cộng đồng dân cư. Tái hòa nhập cộng đồng hiểu đơn giản là là xóa đi những tội lỗi và mặc cảm của người tạo cơ hội bình thường hóa các mối quan hệ xã hội để họ hòa nhập với cộng đồng nơi họ cư trú với tư cách là một công dân, một thành viên của xã hội. Đây là những biện pháp tác động tích cực giúp đỡ những người lầm lỗi, những người có quá khứ phạm tội xóa bỏ đi những mặc cảm của bản thân đối với cộng đồng và để họ có thể trở về là người công dân lương thiện với đúng nghĩa của nó.
Tóm lại, tái hoà nhập cộng đồng của người sau khi chấp hành xong hình phạt tù là hành động biểu hiện tính tích cực, trong đó cá nhân mong muốn được thực hiện những hành dông phù hợp các giá trị, chuẩn mực, đạo đức và pháp luật của Nhà nước nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách, cung như đảm bảo cho sự ổn định và phát triển xã hội. Vì vậy muốn tái hoà nhập cộng đồng, những đối tượng tù tha này phải trải qua một thời gian học tập, cải tạo nhằm điều chỉnh lại những sai lệch trong nhân cách dẫn đến sai lệch trong hành vi đã diễn ra trong thời kì họ phạm tội, nhằm lấy lại bản chất mà người họ, bản thân họ đã đánh mất. Điều đó phần lớn là nhờ chính sự cố gắng của bản thân họ trong việc nhận thức đúng dắn về quá trình cải tạo hoàn lương và một phần là nhờ các chính sách ưu đãi của Pháp luật.
6. Khái niệm tự đánh giá :
* Quan điểm của I. a. Liphina : Theo Liphina, tự đánh giá "Thái độ của con người đối với những năng lực, những khả năng, những phẩm chất nhân cách cũng như đối với toàn bộ mặt bên ngoài của mình "- Như vậy, tự đánh giá theo tác giả thực chất là quá trình hình thành và phát triển thái độ đối với chính bản thân. Đối tương của tự đánh giá bao gồm toàn bộ thế giới bên trong của cá nhân cũng như biểu hiện của thế giới đó ra bên ngoài. Hơn thế nũa, đối tượng mà tự đánh giá nhằm vào không chỉ là những giá trị cá nhân đó có mà cả những giá trị cá nhân mong đợi và dự kiến.
* Quan niệm của V. P. Levcovie : Tự đánh giá là giai đoạn phát triẻn cao nhất của ý thức, nó bao gồm không chỉ sự nhận thức về bản thân mà cả sự đánh giá đúng sức lực, khả năng và thái độ phê phán đối với bản thân.
* Quan niệm của I. A. Paloxova :tác giả xem xét tự đánh giá ở hai nghĩa.
+ Là biểu tượng của con người về chính mình đã được hình thành một cách bền vững.
+ Là quá trình cá nhân đánh giá mình tren biểu tượng nhân cách về mình được nảy sinh, kiểm tra và cải biến.
* Quan niệm của S. Franz : Tác giả phân tích bản chất cơ chế tự đánh giá xuất phát từ góc độ nhận thức luận.
Ở góc độ nhận thức luận thì tự đánh giá_một dạng đặc biệt của hoạt động tự nhận thức. Đó là nhận thức của cá nhân về mức độ biểu hiện của các hiện tượng tâm lý, của phương thức thái độ. . . đang tồn tại ở bản thân ".
Quá trình tự nhận thức bao gồm :
+ Thứ nhất :Những quá trình cung cấp tài liệu ban đầu
+ Thứ hai : những quá trình dẫn đến sự xác định đơn giản ở bản thân.
+ Thứ ba :những quá trình dẫn đến sự tự đánh giá.
+ Thứ tư :Những quá trình dẫn đến sự tự phê phán.
Quá trình tự nhận thức dẫn đến sự tự đánh giá theo tác giả diễn ra 4 bước :
1- Cá nhân tiếp nhận các nguồn thông tin khác nhau về bản thân.
2- Cá nhân xử lý thông tin và xác định những hiện tượng cơ thể, tâm lý, những thái độ tồn tại ở bản thân mình.
3- Cá nhân xác định được những hiênh tựng tâm lý của mình đang tồn tại ở mức nào.
4- Cá nhân phát biểu về bản thân mình dưới dạng của sự tự đánh giá.
Lý luận về sự tự đánh giá của S. Franz đã làm sáng rõ bản chất và cơ chế rự đánh giá. Tác giả đã xem xét tự đánh giá như 1 quá trình nhận trhức, đặc biệt trong đó cá nhân không chỉ xác định được những hiện trượng tâm lý đang có ở bản thân mà còn chỉ ra mức độ tồn tại của các hiện tượng tâm lý đó.
* Qua các khái niệm của R. J. hubner, G. C. Stanton : coi tự đánh giá là quá trình cụ thể nhận thức hình ảnh của bả thân mình theo cá cấp độ :
+ Hình ảnh chung về bản thân
+ Hình ảnh bản thân có tính nhân hoá ở nhà trường xã hội và thể chất.
+ Hình ảnh bản thân có tính tổng quát được xem xét ở bình diện giá trị của bản thân trong nhóm, trong cộng đồng.
* Một nhóm tác giả khác thì cho rằng : Tự đánh giá là một hoạt động nhận thức đặc biệt của con người, trong đó đối tượng nhận thức chính là bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu thập, xử lý thông tin về chíng mình, chỉ ra được mức độ giá trị nhân cách tồn tại ở bản thân từ đó có thái độ hành động phù hợp nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục dể tự hoàn thiện và phát triển.
Tóm lại, tự đánh giá là một hoạt động nhận thức dặc biệt, bởi đối tượng nhận thức chính là bản thân chủ thể, tự đánh giá là quá trình chủ thể thu thập, xử lý thông tin về chính mình. Thông qua tự đánh giá, chủ thể nhận thức toàn bộ thế giới bên trong của cá nhân cũng như mặt biểu hiện của thế giưới đó ra bên ngoài, khả năng và thái độ phê phán đối với bản thân.
Tự đánh giá cũng như mọi hiện tượng tâm lý khác, bởi chi phối và quy định bởi các yếu tố bên ngoài, những yếu tố xuát hiện và ảnh hưởng đến cá nhân trong quá trình hoạt động và thế giới bên trong toàn bộ phẩm chất tâm lý, ý thưc nhân cách của mỗi cá nhân. Tất nhiên các yếu tố bên trong mới tác động trực tiếp tơối tự đánh giá, còn yếu tố bên ngoài phải thông qua hoạt động và giao tiếp của cá nhân mà chuyển thành yếu tố bên trong thì mới ảnh hưởng tới tự đánh giá của cá nhân.
II. Một số đặc điểm tâm lý trong quá trình tái hoà nhập xã hội cho những người sắp chấp hành xong hình phạt tù :
Trước hết cần có công tác chuyên biệt để chuẩn bị quản lý cho phạm nhân trước khi bước vào cuộc sống trong điều kiện mới. Chuẩn bị tâm lý cho ngưoeì sắp chấp hành xong hình phạt tù có ý nghĩa ngày càng lớn, nhất là trong những năm gần đây, các nhà tội phạm học đã đã có sự phân tích sâu sắc yếu tố tâm lý, trong đó có vai trò của yếu tố tâm lý trong việc tái phạm.
Cũng trong những năm gần đây các nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra sự thiếu sót của công tác chuẩn bị về mạt đạo đức và thực tiễn cho pham nhân đến với cuộc sống trong điều kiện bình thường. "Chuẩn bị tâm lý" phải được tiến hành thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình cải tạo và giáo dục phạm nhân, như việc hình thành ở họ tình cảm, thói quen. . . Cũng như hình thành ở họ các chuẩn mực cư xử trong điều kiện mới. Các tác động tâm lý toàn diện như vậy sẽ đem đến kết quả là phạm nhân sẽ sẵn sàng về mặt tâm lý sống trong điều kiện mới. Sự sẵn sàng về mặt tâm lý là điều kiện thuận lợi cho phạm nhân hoà nhập nhanh chóng vào môi trường xã hội mới mà không phải tốn sức mà vượt qua những mâu thuẫn và căng thẳng bên trong.
Con người khi bước vào cuộc sống và môi trường xã hội mới sẽ luôn gặp phải những khó khăn nhất định, và để vượt qua những khó khăn đó (thái độ của người thân, vợ con, việc làm, kinh tế. . . ) họ không phải lúc nào cũng sẵn sàng về mặt tâm lý. đối với những người mới chấp hành xong hình phạt tủ, sự đối mặt với những khó khăn như vậy có thể gây ra ở họ những phản ứng không phù hợp với điều kiện và chuẩn mực đạo đức xã hội. Nhiều khi điều này còn bị khoét sâu vào do nhận thức không đúng đắn, định kiến của những người xung quanh đối với người mới chấp hành hình phạt tù. Nhận thúc không đúng dắn đó dẫn tới sự kích động hay kìm hãm đột ngột và phá hỏng hoạt động tinh thần của họ. Phạm nhân bắt đầu đánh giá hành vi của mình và hành động của những người khác không chính các và hậu quả là họ sẽ hành động không đúng. Sự chuẩn bị tâm lý tại các trại lao động cải tạo của các nhà quản giáo giúp cho phạm nhân vượt qua sức ỳ của tâm lý, đẩy nhanh sự thay đổi tâm lý cho phù hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh.
Điều quan trọng hơn cả là phải nâng cao tính tích cực của các phẩm chất nhân cách tíc cực trong qúa trình chuẩn bị tâm lý cho phạm nhân với cuộc sống trong điều kiện mới. . .
Có thể chia tất cả những người đã chấp hành xong hình phạt tù thành ba loại :
+ Những người đã tự cải tạo trong giai đoan ở trại cải tạo. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù, họ mong muốn được nhập vào cuộc sống lao động chân chính một cách tích cực. Đôi khi những mong muốn này tạo điều kiện để vượt qua những khó khăn mà họ gặp phải trong giai đoạn thích nghi.
+ Những người có những thiếu sót trong giáo dục. Những thiếu sót này có thể là trong thế giới quan, trong ý thức pháp luật, trong đạo đức và cả trongthói quen lao động của phạm nhân. Dự báo về hành vi tích cực của những người thuộc loại này phụ thuộc nhiều vào điều kiện xung quanh_nơi mà họ sống và làm việc sau khi họ mãn hạn cải tạo.
+ Những người không chịu cải tạo trong quá trình chấp hành hình phạt. Vì hàng loạt nguyên nhân nên khi còn ở trại cải tạo họ không thoát khỏi các quan điểm, thiên hướng định hướng phạm tội của mình, thậm trí là không thoát khỏi thế giới quan phạm tội. Tồi tệ nhất là trong một số trường hợp, những người này khi ở trại cải tạo đã tích luỹ thêm kinh nghiệm phạm tôi cho mình, phát triển các thói quen phạm tội. Họ coi việc chấp hành xong hình phạt là cơ hội để được tiếp tục hoạt động phạm tội.
Quả trình thích nghi với điều kiện sống bình thường trong môi trường xã hội bình thường sau một thời gian dài bị tước tự do là hiện tượng phức tạp, đòi hỏi có ý chí lớn, các phẩm chất đạo đức cao, nhận thức pháp luật tốt. Những người chấp hành xong hình phạt tù trong thời giạn ngắn cần phải phục hồi hoặc là tiếp tục hàng loạt các thói quen. Họ cần biết chi tiêu tiền làm ra, đảm bảo về quần áo, thức ăn, nhà cửa cho bản thân, việc làm. . .
Các công trình nghiên cứu của Khoa Tâm Lý Học, Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn về đối tượng hiên đang bị giáo dục, cải tạo tại các trại tam giam, trại phục hồi nhân phẩm, trại cai nhiện và các đối tượng ở Trwongf giáo dưỡng_Bộ Công An cũng như nghiên cứu và điều tra người dân ở những vùng có những đối tượng này đã chấp hành xong hình phạt tù trỏ về địa phưong sinh sống (thời gian nghiên cứu từ năm 1997-2002) kết quả cho thấy : có 85. 7% người dân không muốn những đối tượng này sau khi đã chấp hành xong hình phạt tù là hàng xóm, bạn bè, người thân, đồng nghiệp. . . của mình. Số còn lại họ thờ ơ, bàng quan, lạnh nhạt. . . Nhìn chung, thái độ của người dân như vậy đã tạo nên "hàng rào tâm lý" ngăn cản quá trình tái hoà nhập xã hội của phạm nhân và chính phạm nhân cũng ý thức được điều này ngay trong thời gian họ đang ở trong trại cải tạo. Họ cho rằng :tất cả mọi người sẽ xa lánh họ (67. 1%); riêng với những người sau cai nghiện ma tuý thì có 60. 29% cho rằng mọi người sẽ xa lánh, lạnh nhạt ;thậm chí có 51. 1% số gái mại dâm biết trứoc gia đình sẽ từ bỏ họ nếu họ về gia đình; 37. 4%tự cho rằng họ không thể làm người lương thiện được. Riêng đối với đối tượng làm nghề trộm cắp, cướp giật, hành hung người, gây rối trật tự, sử dụng ma tuý hoạt động mại dâm thì có tới 75. 27% không có khả năng xin việc hoặc cơ sở tuyển lao động từ chối họ. Đối với người nghiện ma tuý, hoạt động mại dâm có 95% tái phạm sau khi từ trại giáo dục cải tạo lao động trở về.
Thích nghi còn phụ thuộc vào mức độ xa lánh xã hội của phạm nhân, thời gian hoạt động phạm tội, môi trường xã hội mà phạm nhân sống trước đây trong thời gian chưa bị bắt giam. Những phạm nhân từng phạm các tội như cướp giật tài sản, hiếp dâm khó thích nghi, còn những phạm nhân phạm các tội như lừa đảo, tham nhũng nhận hối lộ. . . dễ thích nghi hơn. Trong khoảng 60% các trường hợp có sự thích nghi xã hội thành công, người ta
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLH 50.doc