MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
I. KHÁI QUÁT VỀ NGÔN NGỮ 3
1.1. Các học thuyết về phát triển ngôn ngữ. 3
1.1.1. Quan điểm học hỏi: 3
1.1.2. Quan điểm tự nhiên. 3
1.1.3. Quan điểm tương tác. 4
1.1.4. Quan điểm về sự phát triển ngôn ngữ trẻ em của Vưgôtxki. 5
1.2. Định nghĩa ngôn ngữ. 5
1.3. Các bộ phận của ngôn ngữ. 6
1.3.1. Âm vị: 6
1.3.2. Cú pháp: 6
1.3.3. Ngữ nghĩa: 7
1.4. Các chức năng của ngôn ngữ. 7
1.4.1. Chức năng chỉ nghĩa: 7
1.4.2. Chức năng thông báo. 7
1.4.3. Chức năng khái quát hoá. 7
II. SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ 0 - 6 TUỔI. 8
2.1. Tuổi sơ sinh: (0 - 2 tháng) 8
2.2. Tuổi hài nhi (2 - 12 tháng tuổi). 8
2.3. Tuổi vườn trẻ (1-3 tuổi).(còn gọi là tuổi ấu nhi) 12
2.3.1. Hoàn thiện sự thông hiểu lời nói của người lớn. 13
2.3.2. Hình thành ngôn ngữ tích cực riêng của trẻ. 14
2.4. Thời kì mẫu giáo (3- 6 tuổi) 18
2.4.1. Nắm vững ngôn ngữ và ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ 20
2.4.2. Phát triển vốn từ và cơ cấu ngữ pháp 21
2.4.3. Sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc. 22
III. SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ Ở TRẺ CÂM ĐIẾC. 26
KẾT LUẬN. 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 19713 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ 0-6 tuổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
am”.
Chức năng này của ngôn ngữ còn gọi là chức năng giao tiếp.
1.4.3. Chức năng khái quát hoá.
Ngôn ngữ không chỉ một sự vật, hiện tượng riêng rẽ, mà chỉ một lớp, một loại các sự vật, hiện tượng có thuộc tính chung bản chất. Ngôn ngữ là một phương tiện đắc lực của hoạt động trí tuệ.
Có thể nói, nhờ có ngôn ngữ, các chức năng tâm lý người, từ những chức năng đơn giản nhất (cảm giác, tri giác…) đến những chức năng phức tạp nhất (tư duy, tưởng tượng…) đều được cải tổ, biến đổi về chất, làm cho đời sống tâm lí con người cao hơn hẳn đời sống tâm lý con vật.
Do đó, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ được coi là mặt phát triển quan trọng nhất trong thời thơ ấu.
II. SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ 0 - 6 TUỔI.
2.1. Tuổi sơ sinh: (0 - 2 tháng)
Tuổi sơ sinh bắt đầu cuộc sống của mình bằng tiếng hét mà những ngày đầu mang tính chất phản xạ không điều kiện. Tiếng hét ban đầu là kết quả sự co thắt của khe dọc, sự thắt cơ kèm theo những phản xạ hô hấp đầu tiên. Một số nhà bác học cho rằng, tiếng hét cũng là sự biểu hiện của cảm xúc tiêu cực. Sự thắt cơ gây ra cảm giác khó thở. Hay trẻ có những khuôn mẫu kêu và khóc khác nhau để báo đói, đau và khó chịu (Nguyễn Văn Đồng - 2004).
Thực ra những trường hợp này không thể phân biệt được phản ứng cơ và thái độ cảm xúc vì trẻ sơ sinh vẫn chưa có một kinh nghiệm sống nào cả. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, ngay từ những ngày đầu của cuộc sống, đứa trẻ đáp lại những cảm giác khó chịu gắn liền với nhu cầu ăn, ngủ, mặc ấm bằng tiếng hét: trẻ hét khi đói, tã ướt…
Khi được giáo dục bình thường, tiếng hét “oa, oa” của trẻ sơ sinh chuyển dần dần thành sự biểu hiện ít mạnh mẽ của cảm xúc tiêu cực tiếng khóc (Mukhina, 1980).
2.2. Tuổi hài nhi (2 - 12 tháng tuổi).
Là một sinh vật còn bất lực, cuộc sống của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào người lớn. Người lớn cho ăn no, mặc ấm, người lớn tạo ra những ấn tượng ban đầu… Do đó, giao tiếp với người lớn là nhu cầu đầu tiên, bức thiết của trẻ em tuổi này mà thiếu nó đứa trẻ không tồn tại và phát triển được.
Nhu cầu giao tiếp tạo ta cơ sở cho sự xuất hiện sự bắt chước những âm thanh trong ngôn ngữ con người. Đứa trẻ sớm bắt đầu yên lặng, lắng nghe khi người lớn nói với nó. Sau 3 tháng, nếu đứa trẻ có thể trọng tốt, nó luôn luôn phát ra các âm thanh, phát ra tiếng kêu “gừ gừ”. Thường tiếng kêu này trở nên mạnh hơn nếu người lớn cúi xuống bên cạnh đứa trẻ.
Khi phát ra âm thanh, đứa trẻ cũng lắng nghe những âm thanh đó. Có khi nó bắt chước mình một cách rõ rệt: nó phát ra các âm thanh khá lâu, những âm thanh mà đầu tiên nó phát ra một cách ngẫu nhiên. Ít lâu sau đứa trẻ có thể bắt chước khác rõ nhịp điệu của các âm được phát ra. Chẳng hạn khi người ta đưa võng cho nó đồng thời lại ru “a.. a.. a ! a… a… a!” đứa trẻ tái tạo lại chính âm thanh đó đồng thời cả nhịp điệu của chúng nữa (âm thanh có thể có thể khác: “ư … ư… ư!” hay “o… o…o!”).
Cuộc trò chuyện giữa người lớn và trẻ hài nhi nhìn bề ngoài tưởng chừng như vô nghĩa. Nhưng hực ra, nó đã khêu gợi ở trẻ trạng thái cảm xúc tích cực, sự thích thú được giao tiếp với người lớn, và bắt đầu có những phản ứng lại những sắc thái tình cảm khác nhau trong lời nói của người lớn. Trẻ thường nhoẻn miệng cười khi nghe thấy những âm thanh vui vẻ và thường mếu máo khi nghe những âm thanh dữ tợn, như mắng mỏ hay quát tháo.
Càng về cuối năm, đứa trẻ lại càng thích giao tiếp với người lớn hơn bằng những âm bập bẹ của mình. Nếu được người lớn đáp ứng thì đứa trẻ lại càng thích thú phát ra nhiều âm thanh bập bẹ hơn. Âm bập bẹ có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển ngôn ngữ sau này. Trong tiếng bập bẹ, trẻ học cách sử dụng môi, lưỡi và hơi thở để chuẩn bị cho việc học nói.
Sự thông hiểu lời nói của đứa trẻ đầu tiên xuất hiện trên cơ sở tri giác nhìn và nghe. Quá trình dạy trẻ thông hiểu lời nói thường diễn ra như sau: người lớn hỏi trẻ “cái gì đây?”, “ở đâu?”, “bố đâu?”, “mẹ đâu?”… những câu hỏi đó gây ra ở trẻ phản ứng định hướng cho trẻ nhìn thấy, sau đó cần lặp đi lặp lại nhiều làn quá trình đó, kết quả là hình thành được mối liên hệ giữa các âm thanh trong câu hỏi và đối tượng mà người lớn chỉ cho.
Lúc đầu trẻ hài nhi nghe ngôn ngữ như những âm thanh nào đó. Ngữ âm là yếu tố đầu tiên quyết định thái độ phản ứng của trẻ cũng tức là quyết định sự hiểu ngôn ngữ của trẻ. Chẳng hạn, khi người lớn nói với trẻ câu: “Lại đây với bác!” với ngữ điệu nặng nề, nghe như giận dữ thì đứa trẻ tỏ ra sợ hãi, mếu máo hoặc là khóc. Nhưng vẫn cân “Lại đây với bác!” mà lại nói với trẻ bằng ngữ điệu trìu mến, âu yếm thì đứa trẻ sẽ nhoẻn miệng cười và đưa tay ra.
Một thí dụ khác: đưa cho trẻ một bức tranh có chó sói và dê, người lớn cố tình nói bằng một giọng thô bạo: “Đây là chó sói”. Bằng một giọng êm dịu hơn: “Con dê con”. Sau đó người lớn bằng cùng một giọng: “chó sói đâu?” - trẻ chỉ đúng. “Dê con đâu?” cũng chỉ đúng. Người lớn thay đổi ngữ điệu, câu hỏi về chó sói được nói lên bằng một giọng mà trước đây người lớn nói về dê con. Trẻ chỉ con dê. Và khi hỏi về con dê cũng bằng giọng như thế, trẻ chỉ vào con dê. Người lớn hỏi về con dê bằng giọng thô bạo.Trẻ chỉ vào con sói.
Đến cuối tuổi hài nhi, đã xuất hiện mối liên hệ giữa tên đối tượng và chính đối tượng, mối liên hệ thể hiện ở sự tìm đối tượng và tìm kiếm đối tượng. Đó cũng là hình thức đầu tiên của sự thông hiểu ngôn ngữ. Lúc này trẻ có thể chỉ ra đúng đối tượng mà người lớn hỏi.
Nhưng điều quan trọng đối với trẻ không phải là việc tìm kiếm đúng đối tượng, mà quan trọng là sự tìm kiếm đó cốt là để giao tiếp với người lớn. Cứ mỗi lần được người lớn khích lệ thì đứa trẻ hết sức vui mừng, làm thoả mãn nhu cầu giao tiếp.
Cuối tuổi này, ở đứa trẻ đã có thể xuất hiện cả phản ứng ngôn ngữ để đáp lại lời nói của người lớn. Chẳng hạn, để đáp lại câu hỏi “Bố đâu?”, thông thường hơn cả là đứa trẻ quay đầu về phía bố và bập bẹ một cách vui sướng: “Bố ! Bố!”.
Thông thường, trẻ có thể nói được từ 4 đến 15 từ. Những trẻ trai thường “ít mồm” hơn. Vốn từ thụ đọng phong phú hơn nhiều. Đó là những tên gọi của đa số cá đồ chơi, bát đĩa, quần áo, đó là những mệnh lệnh thuộc loại “đưa đây”, “không được”, “lại đây nào”… Hay đó là những từ phân loại những người xung quanh theo một cách nhất định: mẹ, bố, bà, em, cô, chú…
Cùng với sự bắt đầu thông hiểu lời nói của người lớn và với việc sử dụng những từ đầu tiên, bản thân đứa trẻ cũng hướng về người lớn để đòi hỏi họ giao tiếp với mình, để đòi hỏi biết những tên gọi của những đồ vật ngày càng mới.
Như vậy, đến cuối tuổi hài nhi, sự lĩnh hội ngôn ngữ đã có tính chất tích cực và trở thành một trong những phương tiện quan trọng để mở rộng khả năng giao tiếp của đứa trẻ đối với người lớn. Thật không đúng nếu cho rằng, lúc đầu đứa trẻ trưởng thành còn sau đó thì người ta giáo dục nó, dạy nó. Tất cả các hình thức hành vi, tất cả những thuộc tính tâm lí và năng lực vốn có của con người mà đứa trẻ thu nhận được đều nhờ ngay từ thuở ấu thơ, người ta đã dạy nó đi, dạy nó hành động với các đồ vật, dạy nhìn, dạy nghe, quan sát, nhận biết, ghi nhớ (Lê Văn Hồng, 19810).
Nếu người lớn tích cực giao tiếp với trẻ, dạy cho trẻ thì ngôn ngữ trẻ sẽ phát triển tốt.
2.3. Tuổi vườn trẻ (1-3 tuổi).(còn gọi là tuổi ấu nhi)
Tuổi vườn trẻ là thời kì nhạy cảm đối với sự phát triển ngôn ngữ: chính trong thời gian này, sự lĩnh hội ngôn ngữ diễn ra có hiệu quả nhất. Việc nắm vững hoạt động với đồ vật và việc giao tiếp với người lớn tạo ra sự biến đổi đáng kể trong các hình thức giao tiếp giữa trẻ ấu nhi với người lớn. Điều đó quyết định sự phát triển ngôn ngữ ở lứa tuổi này.
Thời kì này, những hình thức “chỉ đạo câm” (tức là sự chỉ dẫn của người lớn đối với trẻ bằng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt…) đã tỏ ra lỗi thời, không đáp ứng được nhu cầu chiếm lĩnh phương thức sử dụng đồ vật của trẻ. Hứng thú ngày càng tăng của trẻ đối với hoạt động với đồ vật càng kích thích trẻ hướng tới người lớn, mở rộng giao tiếp để mong được họ giúp đỡ trong việc nắm vững cách thức sử dụng đồ vật xung quanh. Đó chính là yếu tố làm nảy sinh ở trẻ nhu cầu giao tiếp với người lớn bằng ngôn ngữ.
Bên cạnh nhu cầu giao tiếp ngôn ngữ thì việc tích luỹ các biểu tượng do hoạt động với đồ vật mang lại có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Các biểu tượng đó tạo ra cơ sở để lĩnh hội nghĩa của các từ và để liên kết chúng với hình ảnh của các sự vật và hiện tượng trong thế giới xung quanh.
Tuy vậy, việc phát triển ngôn ngữ của trẻ ở tuổi này phần lớn là tuỳ thuộc vào sự dạy bảo của người lớn. Những đứa trẻ mà người lớn ít giao tiếp hay ít được thoả mãn yêu cầu giao tiếp thì thường nói rất chậm. Để kích thích trẻ nói, người lớn cần đòi hỏi trẻ phải bày tỏ nguyện vọng của mình bằng lời nói mới đáp ứng nguyện vọng đó.
Sự phát triển ngôn ngữ trẻ ấu nhi theo 2 hướng chính: hoàn thiện sự thông hiểu lời nói của người lớn và hình thành ngôn ngữ tích cực riêng của đứa trẻ.
2.3.1. Hoàn thiện sự thông hiểu lời nói của người lớn.
Trong khi hoạt động với đồ vật, trẻ em thường gặp những tình huống cụ thể trong các hành động với đồ vật chưa thể tách rời khỏi nhau.
Trong nhận thức của trẻ dường như chúng liên kết với nhau thành một tình huống trọn vẹn khiến cho rẻ không thể lĩnh hội các từ biểu đạt đồ vật riêng, hoạt động riêng; mà trẻ chỉ có thể lĩnh hội ngôn ngữ biểu đạt cả tình huống trọn vẹn ấy. Chẳng hạn, trẻ hiểu lời nói “đánh trống” khi trẻ trông thấy một người đánh trống hay chính trẻ đang cầm dùi gõ vào trống. Lời nói “đánh trống” là biểu đạt cho toàn bộ tình huống này.
Đứa trẻ lên hai chưa hiểu được các từ riêng lẻ: từ “trống” là để chỉ cái trống, từ “đánh” là chỉ hành động gõ vào trống. Và trẻ lại càng không hiểu lời nói “đánh trống” khi tách rời khỏi tình huống cụ thể. Cũng như vậy, đứa trẻ chỉ có thể hiểu lời nói: “Bắt tay nào” khi trông thấy một người lớn chìa tay ra bắt tay nó.
Bởi vậy, để trẻ nhanh chóng hiểu được lời nói, chúng ta cần phải kết hợp lời nói với một tình huống cụ thể, trong đó các hành động với đồ vật được thực hiện, vì lúc này trẻ chưa phản ứng trực tiếp với lời nói mà phản ưng với toàn bộ tình huống. Lời nói kết hợp với tình huống cụ hể mới tạo thành tín hiệu hành động đối với trẻ lên hai tuổi.
Sự kết hợp giữa lời nói với tình huống cụ thể được lặp đi lặp lại nhiều lần, dần dần đứa trẻ hiểu được lời nói mà không phụ thuộc vào tình huống cụ thể nữa.
Sau một tuổi rưỡi, việc hiểu lời nói tách khỏi tình huống cụ thể được tiến bộ rõ rệt. Nhờ đó, người lớn có thể dùng lời nói để chỉ dẫn hành động của trẻ và sự phục tùng của trẻ đối với lời chỉ dẫn của người lớn trở nên vững chắc hơn. Chẳng hạn, người lớn có thể yêu cầu trẻ cầm lấy một đồ vật khác ở trước mặt. Tuy nhiên, việc thông hiểu ngôn ngữ chưa thể tách khỏi tình huống cụ thể. Đối với trẻ hai tuổi, lời nói có tác dụng khởi động sớm hơn nhiều so với lời nói có tác động kìm hãm. Điều đó có nghĩa là đứa trẻ bắt đầu thực hiện hành động nào đó theo lời dẫn dễ dàng hơn nhiều so với việc ngừng lại một hành động mà người lớn buộc thôi làm, hay cấm đoán.
Ví dụ: Người lớn bảo trẻ: “đánh trống đi” thì đứa trẻ hành động ngay lập tức. Nhưng khi nó đánh trống mà người lớn lại bảo “thôi, không đánh nữa”, thì nó không ngừng ngay mà phải một lúc sau mới thôi.
Chỉ khi hiểu lời nói tách khỏi tình huống cụ thể thì việc chỉ dẫn của người lớn mới bắt đầu điều chỉnh hành vi của trẻ trong những điều kiện khác nhau. Khả năng này thường có ở đứa trẻ lên ba. Trong thời kỳ này, sự thông hiểu lời nói của người lớn được biến đổi về chất. Đứa trẻ không chỉ hiểu những từ riêng rẽ, không chỉ có khả năng thực hiện những hành động có đối tượng theo lời chỉ dẫn của người lớn. Đứa trẻ bắt đầu thích nghe bất kì lời nói nào của người lớn. Cả những lời nói không trực tiếp nhằm vào bản thân nó.
Nghe và hiểu những thông báo nằm ngoài hoàn cảnh giao lưu trực tiếp của người lớn với trẻ là một thành tựu quan trọng. Nó giúp trẻ biết sử dụng ngôn ngữ như là phương tiện cơ bản để nhận thức thế giới.
2.3.2. Hình thành ngôn ngữ tích cực riêng của trẻ.
Trẻ lên hai hoạt động với đồ vật ngày càng phong phú, thì giao tiếp với những người xung quanh ngày càng được mở rộng. Nhịp độ phát triển ngôn ngữ tăng lên. Đến cuối tuổi thứ hai, trẻ sử dụng được 300 từ và cuối tuổi lên 3 là 1500 từ.
Đặc biệt từ 20 tháng tuổi trở đi, trẻ trở nên mạnh dạn hơn có nhiều sáng kiến hơn. Điều đó không chỉ thúc đẩy trẻ cố lĩnh hội ngôn ngữ, thông hiểu lời nói của những người xung quanh mà còn kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ tích cực, tức lời nói.
Đây là thời kỳ nhạy cảm đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Trẻ không chỉ luôn đòi hỏi biết được tên các đồ vật mà còn cố gắng phát ra lời nói để hỏi tên các đồ vật đó. Chẳng hạn, trẻ nêu những câu hỏi như: “Cái gì đây?”, “Cái gì kia?” đòi hỏi người lớn phải giải đáp cho nó và trẻ rất thích thú khi gọi được đúng tên các đồ vật và hiện tượng xung quanh.
Trong những thời kỳ đầu, ngôn ngữ của trẻ ít giống với ngôn ngữ của người lớn. Chẳng hạn “ăn” thì trẻ nói là “măm”, “chuối” thì trể nói là “chúi”, “thịt” thì trẻ gọi là “xịt”, “bổ cam” thì trẻ gọi là “mổ cam”… Người ta gọi loại ngôn ngữ ấy là “ngôn ngữ tự kỉ trung tâm”. Ngôn ngữ trung tâm có các đặc diểm: ngôn ngữ nói với mình; người khác không hiểu, nếu tách khỏi văn cảnh; và nói tắt (Vưgôtxki - 1998).
Sở dĩ, ở trẻ xuất hiện ngôn ngữ ấy là vì:
Thứ nhất - do người lớn gần gũi trẻ nói với nó như vậy, họ cho rằng nói như thế dễ hiểu hơn.
Thứ hai là do trẻ nghe không chuẩn nên phát âm bị méo tiếng.
Thứ ba là do vốn từ của trẻ còn nghèo nên trẻ phải nghĩ ra một số từ để tiện giao tiếp.
Khi được giáo dục đúng đắn về ngôn ngữ, thì “ngôn ngữ tự kỉ trung tâm” của đứa trẻ sẽ nhanh chóng biến mất. Ngược lại, nếu những ngôn ngữ xung quanh khuyến khích “ngôn ngữ tự kỉ trung tâm” nó có thể tồn tại khá lâu.
Trong cuộc sống và hoạt động trẻ thường bắt gặp những sự vật và hiện tượng lạ lùng, đầy hấp dẫn khiến trẻ muốn nói lại những điều đầy thích thú và ngạc nhiên ấy cho những người xung quanh. Để mong có sự đồng cảm với mình, trẻ phải tìm cách diễn đạt ý nghĩa của mình sa ch người khác hiểu được, điều đó đòi hỏi trẻ phải nắm được một ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ.
Lúc đầu, trẻ thường dùng câu một từ. Chẳng hạn khi trẻ nói “măm” có nghĩa là muốn nói “mẹ cho con ăn cơm”. Sau đó trẻ dùng câu hai từ để chuyển tải những thông điệp khác nhau trong những khung cảnh khác nhau.
Ví dụ: Lois Bloom nói rằng trẻ có thể nói “Tất mẹ” hai lần trong ngày khi trẻ tự đi tất của mẹ vào chân và khi mẹ đi tất cho trẻ. Trường hợp đầu “tất mẹ” có nghĩa là “tất của mẹ”, còn trong trường hợp thứ ha, câu này có nghĩa “tất mẹ đi cho trẻ”.
Chún ta có thể tóm tắt các kiểu câu mà trẻ thường dùng để biểu thị các hành động như sau:
Bảng II.1. Ngữ nghĩa chung (các quan hệ ngữ nghĩa).
Quan hệ ngữ nghĩa
Ví dụ
Tác nhân + hành động
Mẹ đi, bố ngồi
Hành động + đối tượng
Lái xe, ăn nho
Hành động + địa điểm
Vào nhà, ngồi ghế
Tác nhân + đối tượng
Tất mẹ, sách bé
Vật thể + địa điểm
Bát giường (bát rên giường)
Chủ sở hữu, vật sở hữu
Bố cháu, mẹ cháu
Vật thể + tính từ
Hộp đèn, chó to
Đại từ chỉ định + vật thể
Chuông này, xe này
Thán từ + vật thể
ô mẹ ! ô xe!
Lặp lại
Sữa nữa
Vô nhân xưng
Hết kẹo
Đến 3 tuổi, ngôn ngữ tích cực của trẻ phát triển mạnh mẽ, trẻ rất thích nói và có bé nói luôn mồn suốt ngày. Nhờ đó việc sử dụng các hình thức ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ đạt tới một bước tiến bộ đáng kẻ. Trẻ nói thạo các câu đơn giản như: “Con ngồi vào lòng mẹ”, “các bạn di lung tung ra đường”, “sắp mất điện rồi”.
Cuối 3 tuổi, trẻ nói được những câu khá phức tạp như: “Tại anh đánh con nên con khóc”, “Ai mà bẩn thì không được đi chơi ngoài phố”, “con đã rửa chân nhưng vẫn còn đất”.
Nói đúng ngữ pháp tiếng mẹ đẻ là thể hiện trẻ đã đạt tới một trình độ cao trong sự phát triển ngôn ngữ. Về thực chất thì ngôn ngữ đã trở thành một phương tiện để giao tiếp, để tiếp thu kinh nghiệm xã hội, để tư duy, tìm hiểu thế giới xung quanh và là phương tiện để phát triển các chức năng tâm lí khác. Những quá trình tâm lí của trẻ như tri giác, tư duy, trí nhớ… được cải tổ dưới ảnh hưởng của ngôn ngữ. Đồng thời sự phát triển ngôn ngữ của trẻ cũng chịu ảnh hưởng của các quá trình tâm lí đó.
Nhờ sự phát triển trí tuệ mà sự lĩnh hội ý nghĩa của các từ cũng biến đổi. Chẳng hạn, đầu tuổi ấu nhi, trẻ hiểu từ “cái xẻng” còn chưa hoàn toàn đúng, đó là một đồ vật có hình dáng, màu sắc, độ lớn nào đó. Sau đó đứa trẻ hành động với cái xẻng, nhờ người lớn giúp đỡ, trẻ không những biết gọi tên “cái xẻng”; mà còn nắm được rõ ràng hơn chức năng và phương thức sử dụng nó. Do đó, hành động tri giác “cái xẻng” được rx ràng hơn, chức năng của xẻng trẻ nắm vững hơn, và việc lĩnh hội từ “cái xẻng” cũng có nội dung sâu sắc hơn. Trong suốt thời kì ấu nhi, nghĩa của các từ được giến đổi. Đây là một trong những mặt quan trọng nhất của sự phát triển trí tuệ của trẻ.ư
Một công trình nghiên cứu của G.L. Rôzêngacti-Pupcô cho thấy; khi gọi đúng tên đồ vật là trẻ đã xác định được sự thống nhất giữa ác đồ vật đó trong 75% trường hợp. Còn khi không gọi đúng tên hay hoàn toàn không biết tên đồ vật, thì trẻ chỉ thấy được sự đồng nhất trong 10% trường hợp. Khi gọi tên đồ vật thì trẻ em có thể khái quát các đồ vật cùng loại hay hình ảnh có màu khác nhau trong 45% trường hợp. Còn nếu không dùng tên hay dùng không đúng thì trẻ không khái quát được trường hợp nào. Khi khái quát các sự vật cùng loại làm bằng các vật liệu khác nhau hay các vật khác nhau làm bằng cùng một thứ vật liệu, chỉ số ta thu được là 25% và 0%. Còn khi khái quát các sự vật cùng loại hay các hình ảnh của các vật có kích thước khác nhau hoặc khi khái quát các vật khác nhau có cùng kích thước, chỉ số đó là 75% và 0%. (N.Đ. Lêvitốp - 1972).
2.4. Thời kì mẫu giáo (3- 6 tuổi)
Trong suốt lưa tuổi mẫu giáo, ngôn ngữ của trẻ được tiếp tục phát triển mạnh: ngữ âm được hoàn thiện dần, vốn từ được mở rộng, trẻ sử dụng tương đối đúng ngữ pháp tiếng mẹ đẻ.
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo diễn ra tỏng mối quan hệ với sự phức tạp hoá hoạt động của trẻ và sự biến đổi các quan hệ với những người xung quanh, đặc biệt trong giao tiếp.
Trẻ mẫu giáo có nhiều khả năng thu thập tri thức phong phú và đa dạng, có tính tự chủ cao hơn tuổi ấu nhi. Người lớn đề ra cho trẻ yêu cầu mới, dạy trẻ làm những nhiệm vụ nhất định, tổ chức cho trẻ nhiều hoạt động hơn (như trò chơi đóng vai theo chủ đề, trò chơi xây dựng, vẽ, nặn, hát, múa, đọc thơ, kể chuyện…). Trẻ còn được tham gia vào các hình thức lao động đơn giản và hình thức học tập tuy còn ở dạng sơ khai. Hơn nữa, việc phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo còn liên quan chặt chẽ với sự phát triển tư duy, trực quan hành động sang kiểu tư duy trực quan hình tượng, kiểu tư duy bắt đầu có lập luận trong óc.
Tất cả những cái đó kích thích trẻ vươn tới nắm các phương diện ngôn ngữ ngày càng phong phú, chính xác, chuyển sang một bước mới trong sự phát triển ngôn ngữ.
Từ vựng của trẻ mẫu giáo tăng lên rất nhanh (từ 300 - 400 từ ở lứa tuổi vườn trẻ tăng lên khoảng 3000 - 4000 từ ở lứa tuổi mẫu giáo). Cấu trúc ngữ pháp trong ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo được hoàn thiện dần, phát âm cũng chính xác dần.
Nếu ở tuổi vườn trẻ, ngôn ngữ của trẻ gắn chặt với điều các em tri giác và hành động thì ở tuổi mẫu giáo, ngôn ngữ mang tính chất khái quát hơn.
Đặc biệt, cuối tuổi mẫu giáo thì trẻ có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo trong sinh hoạt hàng ngày; và ngôn ngữ thực sự trở thành cơ sở để cải tổ các quá trình tâm lí, giúp cho đời sống tinh thần của trẻ có một chất lượng mới.
Một trong những thành tựu lớn lao nhất của giáo dục mầm non (tức là giáo dục trẻ em trước tuổi đi học) là làm cho trẻ sử dụng một cách thành thạo tiếng mẹ đẻ trong đời sống hàng ngày. Tiếng mẹ đẻ là phương tiện quan trọng nhất để lĩnh hội nền văn hoá dân tộc, để giao tiếp với những xung quanh, để tư duy, để tiếp thu khoa học.
Muốn tiếp thu được các kiến thức ở tiểu học, thì ngay ở trường mẫu giáo, trẻ phải hoàn thành tốt việc phát triển tiếng mẹ đẻ. Nếu một đứa trẻ 5 - 6 tuổi mà nói năng ấp éng, phát âm ngượng nghịu, vốn từ nghèo nàn tới mức không đủ để diễn đạt những điều mình muốn nói, không sử dụng được ngữ pháp để nói mạch lạc cho mọi người hiểu được mình thì có thể biết em bé đó vào loại chậm phát triển (Nguyễn Ánh Tuyết, 2001).
Lứa tuổi mẫu giáo là thời kỳ bộc lộ tính nhạy cảm cao nhất đối với các hiện tượng ngôn ngữ. Điều đó khiến cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ đạt tốc độ nhanh; và đến cuối tuổi mẫu giáo thì hầu hết trẻ em dều biết sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo trong sinh hoạt hàng ngày. Sự hoàn thiện tiếng mẹ đẻ ở trẻ mẫu giáo theo các hướng sau:
2.4.1. Nắm vững ngôn ngữ và ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ
Ở tuổi mẫu giáo, do việc giao tiếp bằng ngôn ngữ được mở rộng trong những năm trước đây, tai âm vị được rèn luyện thường xuyên để tiếp nhận các ngữ âm khi nghe người lớn nói. Mặt khác, cơ quan phát âm đã trưởng thành đến mức trẻ có thể phát ra những âm tương đối chuẩn, kể cả những âm khó của tiếng mẹ đẻ (như uềnh, oàng, khúc khuỷu…). Chỉ trong trường hợp bộ máy phát âm của trẻ bị tổn thương, hay do chịu ảnh hưởng lời nói ngọng của người lớn trong địa phương, thì trẻ mẫu giáo mới phạm nhiều lỗi trong việc nắm ngữ âm của tiếng mẹ đẻ.
Trẻ mẫu giáo lớn cũng đã biứt sử dụng ngữ điệu một cách phù hợp với nội dung của câu chuyện mà trẻ kể. Trẻ thường dùng ngữ điệu êm ái để biểu thị tình cảm yêu thương trìu mến. Ngược lại, khi giận gữ, trẻ lại dùng ngữ điệu thô và mạmh. Khả năng này được thể hiện khá rõ khi trẻ kể những câu chuyện mà mình thích cho người khác nghe.
2.4.2. Phát triển vốn từ và cơ cấu ngữ pháp
Vốn từ của trẻ mẫu giáo tích luỹ được khá phong phú không chỉ về danh từ mà cả về đọng từ, đại từ, tính từ, liên từ… Trẻ nắm được những từ trong tiếng mẹ đẻ đủ để diễn đạt các mặt trong đời sống hàng ngày. Bản thân việc tăng thành phần từ ngữ sẽ không có ý nghĩa to lớn nếu trẻ không đồng thời nắm kỹ năng kết hợp các từ trong câu theo quy tắc ngữ pháp.
So với tuổi vườn trẻ, nói chung vốn từ ngữ của trẻ mẫu giáo tăng lên ba lần. Và sự tăng vốn từ ngữ phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện sống và giáo dục. Nếu điều kiện sống và giáo dục tốt, thì trẻ ở cuối tuổi mẫu giáo đã có thể sử dụng ngữ pháp tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo, mặc dù quá trình đó diễn ra một cách không có ý thức, khác với quá trình học ngữ pháp một cách có ý thức ở trường phổ thông sau này.
Sự lĩnh hội ngôn ngữ được quyết định bởi tính tích cực cao của bản thân, đứa trẻ đôi với ngôn ngữ. Tính tích cực này thể hiện trong cách cấu tạo từ và biến đổi từ mà trẻ xây dựng theo những mẫu có sẵn.
Bên cạnh việc hướng tới ý nghĩa của các từ, hướng tới thực tại được biểu thị bằng các từ, trẻ mẫu giáo còn tỏ ra rất quan tâm, điển hình thức âm thanh của các từ, bất kể ý nghĩa của các từ đó như thế nào. Các em thường chủ tâm cải biến các từ “sáng tạo” những từ mới. Chẳng hạn bè Hoàng Anh (5 tuổi) đã nói “vịt ngã lộn phèp”, hay bé Vàng Anh (6 tuổi) đã dùng từ ngữ rất mới lạ để nói về màu đỏ như “đỏ choen choét”.
Tính tích cực của trẻ đói với ngôn ngữ thường chỉ dồn vào hình thức thơ ca,nhưng ở đây chưa thể gọi là những sáng tác thơ ca.
Một bài thơ đầu tiên của bé Thuý Giang làm lúc gần 6 tuổi:
Cái vườn nho nhỏ
Cô giáo dến chơi
Cô đưa võng đỏ
Ru chú mặt trời
(Bài “cái vườn”)
Bài mưa” của bé Ngô Thị Bích Hiền làm lúc 5 tuổi:
Mưa mưa mưa
Rơi rơi rơi
Từng hạt một
Lộp bộp bộp
Trên mái nhà
Thành chùm hoa
Dưới hồ nước
Ướt ướt ướt
Tên lá cây
Lay lay lay
Cánh cửa sổ
Sạch đường phố
Mát đôi chân
Trời tạnh dần
Yêu mưa lắm
Trong khi sử dụng ngôn ngữ,trẻ băt đầu tìm hiểu nghĩa của từ và nguồn gốc của nó.Mot trẻ mãu giao đã giải thích cho bạn hiểu:con cua bò thi gọi là ”bê” vì nó hay kêu bê bê.
2.4.3. Sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc.
Ngôn ngữ mạch lạc thể hiện một trình độ phát triển tương đối cao không những về phương diện ngôn ngữ mà cả phương diện tư duy nữa.
Ở tuổi mẫu giáo, trước đây trẻ sử dụng ngôn ngữ tình huống là chủ yếu. Ngôn ngữ này là những câu hỏ nảy ra liên quan với hoạt động hoặc khi tìm hiểu những đối tượng (hiện tượng mới), là những câu trả lời cho các câu hỏi, và cuối cùng, là những yêu cầu nào đó.
Những người đang nói chuyện với nhau thì hoàn toàn hiểu rõ ngôn ngữ tình huống, nhưng thường những người ngoài cuộc, không nắm được tình huống, thì không hiểu nổi. “tính tình huống” có thể được diễn đạt trong ngôn ngữ trẻ em bằng những hình thức rất đa dạng. Chẳng hạn, một trường hợp điển hình đối với ngôn ngữ tình huống là bỏ chủ ngữ. Trong phần lớn trường hợp, chủ ngữ được thay bằng đại từ. Ngôn ngữ chứa đầy các từ “nó”, “bà ấy”, “chúng nó”, và dựa theo ngữ cảnh thì không thể nào xác định được các đại từ ấy thuộc về ai( hay thuộc về cái gì). Ngôn ngữ cũng chứa nhiều trạng từ và những câu khuôn sáo, song những từ này hoàn toàn không giúp xác định rõ hơn nội dung của câu nói. Chẳng hạn, các em dùng từ “ở đấy” hoàn toàn theo hình thức chứ không phải theo nội dung.
Bé nói: “ở đây, trên phố đằng xa có treo cờ, ở đấy có nước, ở đấy ướt át, ở đấy, mẹ đi với em, ở đấy ướt át, họ muốn về nhà mà vẫn cứ mứa. Vì nó đòi ăn, có khách”. (Nội dung câu chuyện mà em bé này kể lại: bé và em trai cùng mẹ đi xem biểu tình, nhưng trời bắt đầu mưa. Mẹ cùng với các con quay về nhà và mẹ giải thích với bé rằng ở nhà có khách đợi, mả em
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NNH 39.DOC