LỜI CẢM ƠN . ii
DANH MỤC HÌNH ẢNH.vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU. vii
LỜI MỞ ĐẦU .1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC
DOANH .5
1.1 Cơ sở lý luận về thuế thu nhập doanh nghiệp và quản lý thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.5
1.2 Thuế thu nhập doanh nghiệp .6
1.2.1 Khái niệm thuế Thuế thu nhập doanh nghiệp .6
1.2.2 Đặc điểm của thuế Thu nhập doanh nghiệp.6
1.2.3 Vai trò của Thuế thu nhập doanh nghiệp .7
1.2.4 Nội dung cơ bản của Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp hiện hành ở nước ta
Việt Nam.7
1.3 Quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh .10
1.3.1 Tổng quan về doanh nghiệp ngoài quốc doanh .10
1.3.2 Quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh .13
1.3.3 Các tiêu chí đánh giá công tác quản lý thuế Thuế thu nhập doanh nghiệp.14
1.4 Các nhân tố tác động đến công tác quản lý thu thuế Thuế thu nhập doanh nghiệp
đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh .21
1.4.1 Các nhân tố chủ quan .21
1.4.2 Các nhân tố khách quan .22
1.5 Bài học kinh nghiệm đối với Cục thuế tỉnh Lạng Sơn về quản lý thu thuế Thuế
thu nhập doanh nghiệp ngoài quốc doanh .23
1.5.1 Tổng hợp bài học kinh nghiệm từ các nước trên thế giới về công tác quản lý
thu thuế Thuế thu nhập doanh nghiệp ngoài quốc doanh.23
1.5.2 Kinh nghiệm về kiểm tra sổ sách kế toán và các giao dịch điện tử của người
nộp thuế .28
124 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 19/02/2022 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iên của hoá đơn, cán bộ thuế khi xuống kiểm tra rất khó để đối chiếu, so sánh
trực tiếp mà thường phải kết hợp với báo cáo lưu chuyển tiền tệ của DN để tìm ra dấu
hiệu DN khai man hoá đơn đầu ra. Có một số DN lợi dụng sự phức tạp của số liệu kế
toán để cố tình làm sai lệch các tính toán, thực hiện các thủ thuật khi chuyển số liệu
giữa các báo cáo để trục lợi về thuế.
53
Ví dụ: Công ty TNHH đầu tư và phát triển Phú Lộc đã cộng sai số liệu trên báo cáo tài
chính năm 2017 vào quyết toán thuế làm giảm DTTT 20.822.000 đồng.
- Hạch toán DTTT sai thời kỳ: Doanh thu của DN được tạo ra ở năm nay nhưng lại
hạch toán vào năm tài chính kế tiếp. Lý do của việc hạch toán sai này không phải do
năng lực kế toán hạn chế mà do các DN muốn giảm số thuế phải nộp trong năm hiện
tại, chiếm dụng một phần vốn của nhà nước, giúp tạm thời giảm áp lực về vốn khi DN
đang khó khăn về tài chính. Bản chất đây là hành vi trì hoãn việc nộp thuế nhưng cũng
là một cách thức trục lợi bất chính của DN, gây ra những khó khăn nhất định cho công
tác quản lý.
Ví dụ: Công ty TNHH thương mại Thịnh Vượng đã chuyển doanh thu bán đồ gia dụng
năm 2016 sang năm 2017 với số tiền là 37.200.000 đồng. Với hành vi này, trong năm
2016 công ty đã chiếm dụng tạm thời một khoản thuế của NSNN là 37.200.000 x 25%
= 9.300.000 đồng. Không những vậy, sang năm 2017, khi được áp mức thuế suất 20%
thì công ty này đã trốn lậu được một khoản thuế là 1.860.000 đồng.
- Treo trên tài khoản: công ty nhận tiền hàng trả trước của người đã giao hàng cho
khách và số tiền đó đã đủ điều kiện ghi nhận doanh thu nhưng vẫn để mua, đến cuối
năm ở tài khoản người mua trả tiền trước mà không chuyển sang tài khoản doanh thu.
Cũng có trường hợp DN ký gửi hàng cho đại lý bán đã được đại lý báo lại hàng đã
được tiêu thụ hoặc đã được đại lý thanh toán ngay khi giao nhận hàng nhưng không
ghi nhận doanh thu ngay mà vẫn để ở tài khoản hàng gửi bán.
Ngoài ra có một số DN có doanh thu bằng ngoại tệ chọn tỷ giá thấp hơn tỷ giá giao
dịch thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng khi quy đổi ngoại tệ sang đồng Việt
Nam.
Ngoài nguyên nhân do các hành vi cố ý trên, chỉ tiêu DTTT đôi khi còn bị kế toán DN
tính sai do năng lực, hiểu biết hạn chế. Ví dụ: Công ty TNHH cơ giới xây dựng và
thương mại Minh Việt không hạch toán lãi tiền gửi vào doanh thu tài chính mà hạch
toán vào thu nhập khác làm DTTT giảm 4.802.625 đồng. Sau khi kiểm tra phát hiện,
cán bộ thuế đã đề nghị DN chuyển lại khoản lãi trên vào DTTT và giảm trừ tương ứng
vào thu nhập khác. Những lỗi như vậy tuy không gây thất thu thuế cho ngân sách
54
nhưng cũng gây khó khăn nhất định cho công tác quản lý và càng chứng tỏ năng lực
hạch toán kế toán-thuế của một số kế toán các DN trên địa bàn còn khá hạn chế.
2.1.6.4 Thực trạng quản lý chi phí được trừ
Cùng với doanh thu, chi phí là một trong những căn cứ quan trọng hàng đầu để xác
định số thuế DN phải nộp. Công tác kiểm tra tại các DN NQD cho thấy hiện tượng
khai tăng CPĐT rất phổ biến. Một số ít có nguyên nhân từ việc trình độ kế toán DN
còn hạn chế nên chưa nắm rõ các điều kiện để một chi phí được xếp vào khoản được
trừ hoặc chưa cập nhật kịp thời những quy định mới về CPĐT trong các thông tư, còn
lại đa phần DN cố tình tìm cách gian lận: khai tăng CPĐT, chuyển kỳ ghi nhận CPĐT
để trục lợi.
Công tác quản lý CPĐT tại Cục Thuế vẫn còn một số bất cập, khó khăn.
Thứ nhất, DN thường chỉ có DTTT đến từ một vài nguồn chủ yếu, liên quan mật thiết
với lĩnh vực đăng ký kinh doanh của DN nhưng với CPĐT, các khoản chi phí là vô
cùng đa dạng, phức tạp, phát sinh liên tục và rất khó dự báo. Đặc điểm này cộng với
việc số lượng DN NQD lớn và không ngừng tăng lên trong khi đội ngũ cán bộ trực
tiếp quản DN còn mỏng khiến cho công tác quản lý CPĐT chưa thực sự được sâu sát.
Việc kiểm tra, đánh giá, phân tích mức độ sai phạm chưa thường xuyên, liên tục.
Thứ hai, ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của DN còn hạn chế, việc nhiều quy định về
cách xác định CPĐT chưa thực sự rõ ràng tạo điều kiện cho DN lách luật với thủ đoạn
tinh vi. Tình trạng khai khống, khai sai CPĐT còn diễn ra phổ biến ở nhiều DN.
Qua quá trình tìm hiểu thực tế tại chi cục và cụ thể là nghiên cứu các tài liệu ở đội
kiểm tra, nhận thấy các khoản chi phí mà DN hạch toán sai vào CPĐT thường không
đáp ứng một trong các điều kiện xác định CPĐT.
- Chi phí không thực sự phát sinh, DN khai khống vào CPĐT. Trường hợp này thường
xảy ra với một số hành vi cụ thể như:
+ TSCĐ đã khấu hao hết giá trị nhưng DN vẫn tiếp tục tính chi phí khấu hao. Cũng có
một số DN khai khống nguyên giá ngay từ đầu để được gian lận chi phí khấu hao sau
này.
55
+ Lợi dụng quy định về quản lý lãi vay chưa chặt chẽ, một số DN lập hợp đồng vay
khống, áp dụng mức lãi suất cao hơn nhiều lãi suất thị trường tại thời điểm vay hoặc
kê khai không chính xác thời điểm ký hợp đồng vay để lợi dụng sự chênh lệch về lãi
suất giữa thời điểm ký hợp đồng và thời điểm kê khai chi phí.
+ DN lợi dụng trình độ hiểu biết còn hạn chế của người lao động, ký kết các hợp đồng
lao động không thể hiện rõ ràng khoản về lương, thưởng, bảo hiểm. Nhiều DN thông
đồng với người lao động hay một số ít còn bắt ép người lao động ký vào các chứng từ
với số lương thực nhận ít hơn hẳn so với con số trên sổ sách, giấy tờ. Điều này thường
xuyên xảy ra ở những DN sử dụng lao động phổ thông, lao động thời vụ.
Ví dụ, kết quả kiểm tra tại công ty TNHH đầu tư và phát triển Phú Lộc cho thấy: công
ty đã hạch toán tiền lương của nhân viên bán hàng vào chi phí bán hàng và hạch toán
tiền lương của nhân viên sản xuất vào giá thành sản phẩm con số vượt quá so với số
thực trả (ghi trong hợp đồng lao động) lần lượt là: 78.750.000 đồng và 152.500.000
đồng. Đây chủ yếu là các nhân viên thời vụ được DN thuê vào mùa cao điểm, hợp
đồng lao động chỉ kéo dài khoảng 2-3 tháng.
+ Một cách thức mà DN thường dùng để khai khống chi phí nguyên nhiên vật liệu,
hàng hoá đầu vào là sử dụng hoá đơn khống, hoá đơn giả, hóa đơn của DN bỏ trốn
hoặc hạch toán sai lệch giá trị hoá đơn.
Năm 2017, phòng kiểm tra trực thuộc Cục Thuế tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện vụ việc
mua bán hóa đơn trái phép nghiêm trọng với tổng giá trị trên hóa đơn lên đến gần 8 tỷ
đồng. Công ty CP thương mại và sản xuất nội thất Vạn Lợi đã mua 16 hóa đơn GTGT
của hai công ty đã bỏ địa chỉ kinh doanh để kê khai chi phí đầu vào.
- Chi phí không phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, không liên quan
đến DTTT. Qua kiểm tra Cục Thuế đã phát hiện một số DN vi phạm như:
+ Công ty thương mại và vận tải Đức Duy đã tính cả khoản phạt nộp chậm bảo hiểm
xã hội trị giá 3.606.694 đồng vào CPĐT.
56
+ Năm 2016, Công ty CP Thành Đạt đã hạch toán vào CPĐT 17 hóa đơn tiền vé máy
bay, chi phí vận chuyển,... không phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh với số tiền
147.760.000 đồng.
Nhìn chung, tiêu chí phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN là một tiêu
chí khá phức tạp, đôi khi nặng về cảm tính. Tuỳ vào đặc điểm kinh doanh của DN, một
số chi phí với DN này là đáp ứng được tiêu chí nhưng với DN khác thì không. Điều
này đòi hỏi cán bộ quản lý ngoài kiến thức chuyên môn về thuế vững vàng thì cũng
cần có nhiều kinh nghiệm, am hiểu đặc trưng ngành nghề của DN.
- Chi phí không có đủ hoá đơn, chứng từ hợp pháp theo luật định
Mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật về thuế đã quy định cụ thể các yêu cầu về hoá
đơn, chứng từ; Phòng Hành chính quản trị tài vụ ấn chỉ và phòng tuyên truyền tại Cục
Thuế cũng đã liên tục trợ giúp DN trong cách sử dụng, kê khai, quyết toán hoá đơn
nhưng còn nhiều DN vi phạm điều kiện về hoá đơn khi xác định CPĐT. Đại diện có
trường hợp như công ty TNHH thủy lực Yến Linh đã hạch toán vào giá vốn ba hoá
đơn mua vào của DN khác tổng trị giá 49.572.816 đồng. Tuy nhiên, hoá đơn TNDN
này là không hợp lệ vì thiếu chữ ký người mua, người bán.
- Khoản chi phí vượt định mức do DN tự xây dựng hay vượt mức quy định hiện hành
của Bộ Tài chính.
Theo quy định, các DN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất phải tự xây dựng định mức
chi phí cho mình và được xét duyệt từ trước. Nhưng khi chi nguyên vật liệu, vật tư
vượt định mức, vượt quyết toán DN vẫn cố tình tính phần vượt đó vào CPĐT.
Ví dụ, sau khi cán bộ Cục Thuế xuống kiểm tra, công ty TNHH xây dựng Hoàng
Phương đã phải giảm CPĐT của năm 2018 xuống 215.680.000 đồng. Cán bộ phòng
kiểm tra đã phát hiện ra khi nhận thầu đoạn đường Phai Vệ - Lê Đại Hành, DN đã
hạch toán tiền xi măng vào giá vốn vượt so với quyết toán tiền xi măng mà DN được
cấp giao thầu duyệt.
57
Ngoài những sai phạm phổ biến trong xác định CPĐT như trên, một số DN NQD còn
hạch toán sai thời kỳ của chi phí hay thực hiện những tính toán, những kết chuyển sai
liên quan đến chi phí...
2.1.6.5 Thực trạng quản lý thu nhập chịu thuế khác
Thu nhập khác là những khoản thu nhập không phải từ hoạt động kinh doanh chính
của doanh nghiệp mà đó là những khoản thu nhập từ hoạt động đầu tư tài chính hay
những khoản thu bất thường của doanh nghiệp như: lãi từ khoản chênh lệch do mua
bán chứng khoán, lãi từ hoạt động cho vay vốn hay từ hoạt động liên doanh liên kết,
các khoản kinh doanh bất động sản, các khoản thu từ thanh lí nhượng bán tài sản cố
định DN thường không khai báo khoản thu nhập này hoặc hạch toán chung vào
doanh thu chính. Công tác quản lí thu nhập khác cần bao quát hết các khoản thu nhập
phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh mà cơ sở kinh doanh nhận được trong kì
tính thuế chưa được tính vào doanh thu tính thuế. Cán bộ thuế cần nắm được thực tế
tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, kết hợp với công tác kiểm tra các tài liệu kê
khai để xác định đúng và đầy đủ các thu nhập chịu thuế khác để đưa vào tính thuế thu
nhập doanh nghiệp.
Ví dụ, công ty TNHH thương mại và sản xuất Thiên Hà đã bị đoàn kiểm tra phát hiện
năm 2018. Đây là số tiền khuyến mãi, tiền hỗ trợ công ty này được hưởng từ nhà
cungcấp thực phẩm và nước giải khát.
Rõ ràng những sai phạm khi xác định căn cứ tính thuế này cũng gây thất thu thuế
TNDN không kém gì các sai phạm với DTTT hay CPĐT. Hơn nữa trong bối cảnh các
DN ngày càng linh hoạt trong làm ăn kinh tế, các hoạt động chuyển nhượng vốn,
chứng khoán, bất động sản, liên doanh, liên kết... diễn ra thường xuyên thì các khoản
thu nhập khác ngày càng lớn. Việc tăng cường quản lý thu nhập khác cần được đề cao
hơn nữa.
Trên đây là một vài nét khái quát về thực trạng quản lý các căn cứ tính thuế chính như
DTTT, CPĐT, thu nhập chịu thuế khác. Với các căn cứ tính thuế còn lại như thuế suất,
thu nhập miễn thuế, lỗ kết chuyển, phần trích lập quỹ KH&CN thì các sai phạm xảy ra
với tần suất thấp hơn. Tuy nhiên công tác quản lý các căn cứ này vẫn được Cục Thuế
58
đề cao cả trong quá trình rà soát hồ sơ tại chi cục và kiểm tra tại trụ sở DN. Ví dụ,
công ty TNHH Phát Triển Xây Dựng và Thương Mại tự khai chỉ tiêu lỗ kết chuyển
trong kỳ tính thuế 2018 là 359.538.624 đồng. Tuy nhiên qua kiểm tra, cán bộ đã phát
hiện công ty đã chuyển hết lỗ vào các năm trước.
Mặc dù Cục Thuế đã tiến hành nhiều biện pháp để tăng cường quản lý căn cứ tính
thuế, những sai phạm như trên vẫn liên tục được phát hiện cho thấy DN NQD luôn tận
dụng mọi cách thức để trốn, lậu thuế. Vì vậy, công tác kiểm tra phải được tiến hành
thường xuyên, toàn diện, không bỏ sót một khả năng gian lận nào của DN. Đồng thời,
cần xử lý quyết liệt, nghiêm minh các hành vi sai phạm.
2.1.7 Thực trạng quản lí ưu đãi Thuế thu nhập doanh nghiệp
Trọng tâm của công tác này là xác định đúng trường hợp và điều kiện được miễn giảm
thuế của doanh nghiệp. Do đó cần chú ý một số trường hợp sau:
- Quản lí số đối tượng nằm trong diện được miễn giảm thuế. Kiểm tra nắm rõ thời
điểm thành lập,thời gian hoạt động, loại hình kinh doanh,phương thức hoạt độngcủa
doanh nghiệp.
- Đối chiếu ngành nghề kinh doanh, địa bàn kinh doanh, số lượng lao động ghi trong
chứng nhận đăng kí kinh doanh với các qui định trong luật thuế thu nhập doanh nghiệp
để xác đinh thuế suất và thời hạn miễn giảm thuế. Kiểm tra số năm được miễn giảm
thuế, mức giảm thuế.
Cục thuế đã thực hiện tốt công tác quản lý chế độ miễn giảm: có sự kết hợp giữa các
bộ phận trong việc kiểm tra tiến hành miễn giảm thuế bao gồm phòng kiểm tra, phòng
nghiệp vụ, phòng kê khai. Công tác kiểm tra, đối chiếu giữa qui định miễn giảm thuế
với thực tế việc miễn giảm để phát hiện ra những trường hợp vi phạm được tăng
cường. Kiểm tra các hồ sơ miễn giảm thuế TNDN, thực hiện các thủ tục miễn giảm
thuế, trình lãnh đạo Cục thuế ra quyết định, đối với các hồ sơ miễn thuế, giảm thuế
TNDN không thuộc thẩm quyền của Cục thuế đã được trình cho cơ quan thuế cấp trên
giải quyết theo qui định.
Trong những năm qua Cục thuế thực hiện việc miễn thuế TNDN cho các doanh nghiệp
mới thành lập, các doanh nghiệp thuộc các ngành khuyến khích sản xuất kinh doanh
59
theo qui định của pháp luật. Nhìn chung, có khá ít DN NQD làm hồ sơ đề nghị được
ưu đãi miễn, giảm về thuế TNDN tại Cục Thuế. Dù vậy trong thực tế vẫn có khả năng
có DN thuộc diện được hưởng miễn giảm thuế TNDN, tuy nhiên bản thân DN chưa
biết đến hoặc chưa nắm chắc chính sách ưu đãi của nhà nước nên không làm thủ tục
miễn giảm. Để đảm bảo đầy đủ quyền lợi của DN, khuyến khích các DN NQD đầu tư
vào các lĩnh vực phù hợp với định hướng phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, công
tác tuyên truyền hỗ trợ về chính sách ưu đãi thuế TNDN của Cục Thuế cần được chú
trọng hơn.
2.1.8 Công tác quản lý thanh tra, kiểm tra Thuế thu nhập doanh nghiệp
Tồn tại và nguyên nhân của các vấn đề về thanh tra, kiểm tra việc thu và nộp thuế của
doanh nghiệp NQD tại Cục Thuế tỉnh Lạng Sơn:
(*)Tồn tại
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác kiểm tra thuế tại Cục Thuế tỉnh Lạng
Sơn còn có những hạn chế như chưa ngăn chặn và đẩy lùi được các hành vi gian lận
của Người nộp thuế, chưa bao quát hết các hành vi gian lận mới phát sinh, chưa mang
tính răn đe cao mà nặng về số thuế truy thu. Sự tồn tại, hạn chế này thể hiện ở từng
khâu của quy trình như sau:
a. Khâu lập kế hoạch kiểm tra chất lượng chưa cao:
Công tác kiểm tra chưa thực hiện trên cơ sở nắm đầy đủ các thông tin về đối tượng
nộp thuế. Việc phân tích các dấu hiệu để thực hiện kiểm tra chưa được quan tâm đúng
mức, chưa dựa trên cơ sở đánh giá mức độ vi phạm, mức độ gian lận của đối tượng
nộp thuế để lập kế hoạch kiểm tra nên vừa lãng phí nguồn nhân lực, vừa tốn kém cho
cơ quan thuế.
Chưa có các quy định cụ thể phân loại thời gian bao nhiêu lâu sẽ thực hiện công tác
kiểm tra đối với đối tượng nộp thuế nên phần lớn chưa đúng đối tượng, chưa xác định
đúng phạm vi gian lận, có khi còn bỏ sót đối tượng cần kiểm tra.
b. Khâu thực hiện kiểm tra:
Tỷ lệ số đối tượng nộp thuế được kiểm tra hàng năm thấp
60
Khi lập kế hoạch có nhiều trường hợp năm nào cũng được kiểm tra, còn có những
trường hợp chưa kịp tiến hành kiểm tra thì đối tượng nộp thuế đã giải thể, phá sản
hoặc bỏ trốn để trốn tránh nghĩa vụ thuế, thậm chí còn chiếm đoạt ngân sách nhà nước
thông qua hoàn thuế.
Từ Bảng 2.4 nhận thấy, tình hình vi phạm pháp luật thuế đã phát hiện qua kiểm tra
luôn chiếm khoảng 90% số đối tượng nộp thuế bị kiểm tra. Do vậy, các đối tượng nộp
thuế chậm được kiểm tra thì sẽ làm cho các vi phạm bị kéo dài và gây ra hậu quả lớn.
Kiểm tra tại trụ sở cơ quan thuế mới thực hiện bước phân tích thông tin
Phần lớn nguồn lực vẫn tập trung cho kiểm tra tại trụ sở Người nộp thuế, nhưng hiệu
quả chưa cao. Kiểm tra tại trụ sở cơ quan thuế còn mang tính hình thức, chưa tìm ra
được những gian lận, sai sót lớn, chưa đánh giá được các rủi ro tiềm ẩn về thuế của
Người nộp thuế.
Các thủ tục cần thiết phải thực hiện trong kiểm tra thuế, mặc dù đã được bổ sung, song
vẫn chưa được quy định đầy đủ trong các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý thuế
. Đó là các quy định về cách thức và thời hạn yêu cầu người nộp thuế cung cấp thông
tin trước khi tiến hành kiểm tra (có nhất thiết phải bằng văn bản không, trong thời hạn
bao lâu); thời hạn tạm dừng kiểm tra thuế trong quá trình kiểm tra thuế tại trụ sở người
nộp thuế; thời hạn bãi bỏ quyết định kiểm tra trong những trường hợp được bãi bỏ
quyết định kiểm tra thuế theo quy định của pháp luật; quy định về trình tự, thủ tục
kiểm tra lại các kết luận kiểm tra thuế.
c. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa được quan tâm đúng mức
Việc xử lý các vi phạm về thuế chưa thực sự khách quan còn khiếu kiện là do có
những tồn tại: Khi thẩm tra vụ việc thiếu căn cứ pháp lý, nắm bắt chưa đầy đủ thực tế.
Vận dụng các văn bản để xử lý còn chưa đầy đủ, thiếu toàn diện. Vẫn còn tình trạng cơ
quan thuế chưa thẩm tra, kết luận chính xác hoặc mới có dấu hiệu vi phạm đã thông
báo rộng rãi các biện pháp xử lý chưa phù hợp gây phản ứng không đáng có của doanh
nghiệp.
d. Khâu giám sát sau kiểm tra:
61
Cục Thuế tỉnh Lạng Sơn chưa quyết liệt và chưa tìm ra giải pháp hữu hiệu trong việc
đôn đốc thu hồi nợ thuế sau kiểm tra; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận
chức năng trong nội bộ như kiểm tra, kê khai, kế toán thuế, quản lý nợ nên số thuế
thực nộp vào ngân sách nhà nước sau kiểm tra đạt tỷ lệ thấp. Tỷ lệ số thuế còn nợ đọng
chưa thu được vào ngân sách nhà nước còn cao (hơn 50%).
e. Công tác kiểm tra theo chuyên đề còn mang tính hình thức, chưa đổi mới, sáng tạo
nên hiệu quả đạt được chưa cao
Cục Thuế tỉnh Lạng Sơn đã triển khai các đề án kiểm tra chống thất thu, tuy nhiên các
đề án còn mang tính thụ động, chủ yếu là do sự chỉ đạo của Tổng cục Thuế và UBND
tỉnh Lạng Sơn. Trong quá trình triển khai, thực hiện các đề án chống thất thu còn nặng
về hình thức, chưa đổi mới, sáng tạo và tập trung vào những vấn đề “nổi cộm” nên kết
quả thu được chưa cao. Khi kiểm tra tại các doanh nghiệp, cơ quan Thuế thiếu cơ sở
dữ liệu thông tin (phần lớn các thông tin được lưu trữ tại cơ quan thuế là từ hồ sơ kê
khai thuế của DN mà chưa có sự hỗ trợ cung cấp từ các cơ quan quản lý nhà nước
khác như công an, quản lý thị trường, hải quan, ngân hàng); việc phân ngành kinh tế
hiện nay còn nhiều vướng mắc, sự phối hợp giữa các bộ phận chuyên môn và đội kiểm
tra trong việc trao đổi thông tin về người nộp thuế còn lúng túng cũng ảnh hưởng đến
chất lượng cuộc kiểm tra.
(*)Nguyên nhân
a. Nguyên nhân từ phía Nhà nước trong việc ban hành luật pháp
Nội dung các sắc thuế còn phức tạp chưa đồng bộ, chưa bao quát hết đối tượng chịu
thuế, đối tượng nộp thuế do khi xây dựng chính sách thuế chưa nhận thức hết phạm vi
điều chỉnh của từng sắc thuế, chưa lường trước hết các nguồn thu sẽ phát sinh trong
quá trình phát triển nền kinh tế thị trường.
Các giải pháp quản lý kinh tế, xã hội chưa được cải cách đồng bộ để hỗ trợ công tác
quản lý thu thuế như: Quản lý đất đai, quản lý thanh toán, không dùng tiền mặt, quản
lý xuất nhập khẩu, quản lý xuất nhập cảnh, quản lý đăng ký kinh doanh... đã là những
yếu tố bất lợi trong việc nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra thuế. Đặc biệt trong các
doanh nghiệp tư nhân tại thành phố Lạng Sơn, phương thức thanh toán chủ yếu vẫn là
62
tiền mặt. Điều này có thể gây thất thu cho ngân sách nhà nước.
Một số quy định trong các văn bản pháp luật về các sắc thuế cụ thể còn chưa rõ ràng,
chưa minh bạch và có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, gây khó khăn cho hoạt động
thực thi pháp luật. Ví dụ: Khoản chi không được trừ tại Điểm 2.18, Khoản 2, Điều 6,
Thông tư 78/2014/TT-BTC được quy định như sau “Phần chi trả tiền vay vốn tương
ứng với phần vốn điều lệ (đối với DN tư nhân là vốn đầu tư) đã đăng ký còn thiếu theo
tiến độ góp vốn ghi trong điều lệ của DN kể cả trường hợp DN đã đi vào sản xuất,
kinh doanh”.
Như vậy, để loại bỏ chi phí lãi vay trong trường hợp các thành viên góp vốn vào DN
chưa góp đủ vốn điều lệ theo tiến độ góp vốn thì cần sử dụng một lãi suất nào đó để
tính toán. Tuy nhiên, một DN có thể vay nhiều khoản vay từ nhiều ngân hàng khác
nhau với các kỳ hạn khác nhau và đương nhiên những khoản vay này sẽ có các lãi suất
khác nhau.
Vậy vấn đề đặt ra là: Sử dụng lãi suất nào để loại bỏ chi phí lãi vay trong trường hợp
này? Vấn đề này chưa được hướng dẫn cụ thể cho nên trong thực tế khi thanh tra, kiểm
tra thuế sẽ rất khó thống nhất cách xử lý hoặc xử lý tùy thích. Có thể tìm thấy không ít
ví dụ tương tự như trên trong văn bản pháp luật về thuế hiện hành. Đặc biệt, một hiện
tượng khá phổ biến là việc sử dụng các câu ghép và câu phức trong diễn đạt các quy
định pháp luật thuế dẫn đến những cách hiểu khác nhau. Những ý khác nhau trong các
câu ghép và câu phức này thường nằm liên tục trong một đoạn văn và cách nhau bởi
rất nhiều dấu chấm phẩy hoặc dấy phẩy làm cho ý nghĩa của cụm từ bổ nghĩa sau cùng
không rõ là dùng cho cụm từ gần nhất hay dùng cho cả đoạn văn. Điển hình cho rắc rối
này là trường hợp quy định về đối tượng không chịu thuế đối với hoạt động cho vay
vốn quy định tại Thông tư 129/2008/TT-BTC đã làm dấy lên cuộc tranh cãi dài ngày
giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp về việc doanh nghiệp (không phải tổ chức tín
dụng) cho nhau vay vốn thì có thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng không. Cụ thể
là, Khoản 8 Mục II Phần A Thông tư 129/2008/TT-BTC quy định “Dịch vụ cấp tín
dụng gồm các hình thức: cho vay; chiết khấu và tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng
và các giấy tờ có giá khác; bảo lãnh; cho thuê tài chính và các hình thức cấp tín dụng
khác theo quy định của pháp luật do các tổ chức tài chính, tín dụng tại Việt Nam cung
63
ứng”. Khi đó, có thể hiểu cụm từ “do các tổ chức tài chính, tín dụng tại Việt Nam cung
ứng” chỉ áp dụng đối với “các hình thức cấp tín dụng khác” mà cũng có thể hiểu áp
dụng đối với cả đoạn văn trên. Tất nhiên, rắc rối này đã được giải quyết, song những
trường hợp tương tự như vậy còn ở một số văn bản pháp luật thuế cần được khắc phục
triệt để.
b. Nguyên nhân về phía cơ quan thuế
Hạn chế về thẩm quyền
Theo quy định pháp luật hiện hành về thanh tra thuế, cơ quan thuế đã được trao một số
quyền quan trọng để đảm bảo hiệu quả thanh tra thuế như quyền khám nơi cất giấu tài
liệu, tang vật liên quan đến trốn thuế, gian lận thuế (Điều 94 Luật Quản lý thuế); các
quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép (Điều 90 Luật Quản lý thuế và Điều 69 Thông tư
156/2013/TT-BTC), niêm phong tài liệu, kiểm kê tài sản (Khoản 3 và 4 Điều 69
Thông tư 156/2013/TT-BTC). Tuy nhiên, quyền kiểm kê tài sản chỉ được thực hiện
trong thanh tra thuế tại trụ sở DN. Điều này hàm ý rằng, việc kê khai tài sản đã được
báo trước vì khi có quyết định thanh tra, người nộp thuế có thể biết rằng họ có khả
năng bị kiểm kê tài sản. Tức là, theo quy định pháp luật hiện hành, cơ quan thuế không
có quyền kiểm kê đột xuất tài sản của người nộp thuế khi phát hiện có dấu hiệu trốn
thuế, gian lận thuế. Điều này đã phần nào làm hạn chế khả năng chứng minh hành vi
trốn thuế của người nộp thuế, đặc biệt là trường hợp trốn thuế qua hành vi bán hàng
không phản ánh vào sổ sách kế toán.
Theo quy định pháp luật hiện hành, cơ quan thuế không có quyền kiểm kê đột xuất tài
sản của người nộp thuế khi phát hiện có dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế. Điều này đã
phần nào làm hạn chế khả năng chứng minh hành vi trốn thuế của người nộp thuế, đặc
biệt là trường hợp trốn thuế qua hành vi bán hàng không phản ánh vào sổ sách kế toán.
Cơ quan thuế nói chung và Chi cục thuế thành phố Lạng Sơn nói riêng chưa được giao
chức năng khởi tố điều tra các vi phạm pháp luật về thuế mà đều phải chuyển qua cơ
quan công an. Trong khi đó, cơ quan công an kinh tế tại thành phố Lạng Sơn với lực
lượng mỏng và không có hệ thống thông tin về thuế, không có chuyên môn quản lý
thuế dẫn đến việc điều tra diễn ra chậm và hiệu quả còn hạn chế.
64
Tin học hoá công tác kiểm tra chưa bắt kịp yêu cầu quản lý
Do quy trình quản lý thuế hiện hành chưa được hoàn thiện nên thông tin đầu vào chưa
được chuẩn hoá, còn hiện tượng coi nhẹ việc nắm bắt thông tin về tình hình hoạt động
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nên công tác xây dựng cơ sở dữ liệu đầy đủ về
đối tượng nộp thuế tại Cục Thuế tỉnh Lạng Sơn còn gặp nhiều khó khăn. Điều này dẫn
đến việc xây dựng kế hoạch kiểm tra thuế không sát với tình hình thực tế, không đánh
giá và phân tích nguồn thu của các doanh nghiệp, còn xảy ra hiện tượng trùng lặp về nội
dung kiểm tra thuế.
Sự phối hợp với các cơ quan liên quan chưa đồng bộ
Công tác phối hợp thu thuế còn có những hạn chế như: Việc phối hợp còn lỏng lẻo,
trong nhiều trường hợp các đơn vị liên quan không hiểu rõ về chính sách, chế độ thuế
dẫn đến sự kết hợp chưa thật sự đạt được hiệu quả; số thuế thu được còn hạn chế.
Thêm vào đó, mới chỉ hạn chế ở một vài cơ quan chức năng quen thuộc (Phòng Cảnh
sát Điều tra tội phạm về quản lý kinh tế và chức vụ - Công an tỉnh Lạng Sơn, Kiểm tra
giao thông, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Lạng Sơn) mà chưa mở rộng sang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_tang_cuong_quan_ly_thue_thu_nhap_doanh_nghiep_cac_doa.pdf