Đề tài Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ (nghiên cứu trên địa bàn các xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu)

MỤC LỤC

 

PHẦN MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: 7

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 7

1. Lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu 7

1.1. Quan điểm Macxít 7

1.2. Lý thuyết xã hội học sức khỏe - bệnh tật theo quan điểm K.Marl - Engels 7

1.3. Lý thuyết hành động xã hội 9

2. Khái niệm công cụ 10

3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 12

4. Tổng quan địa bàn nghiên cứu 15

4.1. Nguồn gốc dân tộc La Hủ 15

4.2. Phân bố dân tộc La Hủ 16

4.3. Điều kiện tự nhiên nơi cư trú của dân tộc La Hủ 16

4.3.1. Vị trí địa lý 16

4.3.2. Khí hậu thời tiết 17

4.3.3. Địa hình, đất đai vùng dân tộc La Hủ cư trú 17

CHƯƠNG II: 18

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 18

1. Vấn đề kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở 18

1.1. Thực trạng hoạt động của các trạm y tế 18

1.2. Số lượng cán bộ y tế tại các xã 20

1.3. Nơi khám bệnh 23

2. Thực trạng chăm sóc bà mẹ – trẻ em 25

2.1. Về nơi sinh đẻ 26

2.2. Tình hình thuốc uống và tiêm phòng của trẻ em 28

2.3. Tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng 30

3. Vệ sinh môi trường 31

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 36

1. Kết luận 36

2. Khuyến nghị 36

TÀI LIỆU THAM KHẢO 39

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ DÂN TỘC LA HỦ 40

 

 

doc45 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9700 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ (nghiên cứu trên địa bàn các xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2. Khái niệm công cụ * Khái niệm sức khỏe Sức khỏe là tài sản quý giá nhất của mỗi con người chúng ta và được coi là giá trị chung của nhân loại. Khái niệm sức khỏe trong đời sống hàng ngày được hiểu như là: Sức khỏe là không ốm đau bệnh tật, không phải đến bệnh viện. Người có sức khỏe là người có cơ thể cường tráng, cơ thể hoạt động bình thường có khả năng lao động, làm việc và hoạt động với năng suất chất lượng cao. Tổ chức Y tế thế giới WHO (World Healthy Organization) đã đưa ra khái niệm sức khỏe như sau: “ Sức khỏe là trạng thái sảng khoái về mặt thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ là không có bệnh hay tật, không yếu đuối mà là ở trạng thái có thể chất tốt, trí tuệ phát triển và xã hội lành mạnh”. Năm 1978, Hội nghị quốc tế của 134 nước và 67 tổ chức quốc tế ở Alma – Ata đưa ra một tuyên ngôn quan trọng kêu gọi đẩy mạnh sức khỏe cho nhân dân và cũng cho rằng sức khỏe liên quan đến đến cả về thể chất, tinh thần và xã hội. Như vậy, sức khỏe là trạng thái hoàn chỉnh về thể chất, tâm thần và xã hội chứ không chỉ là không có bệnh và thương tật.Sức khỏe là tài sản riêng của mỗi cá thể đồng thời cũng là tài sản quý giá chung của cả cộng đồng. Tất cả mọi người trên hành tinh này đều có mơ ước sống khỏe mạnh để cống hiến tối đa cho bản thân, gia đình và xã hội. Bảo vệ sức khỏe là quyền lợi đồng thời cũng là nghĩa vụ cao cả của mọi người, mọi ngành trong toàn xã hội. * Chăm sóc sức khỏe ban đầu Khái niệm chăm sóc sức khỏe Theo tác giả Hoàng Đình Cầu trong cuốn: “Quản lý và chăm sóc sức khỏe ban đầu”, NXB Y học Hà Nội năm 1995. Chăm sóc sức khỏe: Là việc làm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt (nhu cầu đầy đủ dinh dưỡng, được vui chơi giải trí …), để đảm bảo trạng thái thỏa mãn về thể chất, tinh thần, xã hội của mỗi thành viên trong xã hội. Khái niệm chăm sóc sức khỏe ban đầu Khái niệm chăm sóc sức khỏe ban đầu được Đại hội sức khỏe thế giới Alma – Ata định nghĩa như sau: “ Chăm sóc sức khỏe ban đầu là những chăm sóc thiết yếu, xây dựng trên những phương pháp và kỹ thuật thực hành có cơ sở khoa học và chấp nhận về mặt xã hội. Có thể phổ biến rộng rãi cho cá nhân và gia đình của cộng đồng xã hội ở nước đó có thể chịu đựng được ở mỗi giai đoạn phát triển của họ và theo một tinh thần tự nguyện, tự giác”. CSSKBĐ có 8 nội dung sau: - Giáo dục sức khỏe - Dinh dưỡng hợp lý - Cung cấp nước sạch và thanh khiết môi trường - Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em – kế hoạch hóa gia đình - Phòng và chống các dịch bệnh đang lưu hành ở địa phương - Tiêm chủng mở rộng (chủ yếu 6 bệnh lây nhiễm ở trẻ em) - Điều trị bệnh thông thường và thương tích tại nhà - Đảm bảo thuốc thiết yếu và trang bị chủ yếu Ở Việt Nam, để phù hợp với điều kiện thực tế thì ngoài 8 nội dung trên còn có thêm 2 nội dung sau: - Quản lý sức khỏe - Kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở Ở đề tài này chúng ta tìm hiểu cụ thể thực trạng CSSKBĐ cho dân tộc La Hủ, là sự mô tả thực trạng CSSKBĐ về các nội dung sau: Thực trạng kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở thể hiện qua: hoạt động của các trạm y tế tại địa bàn các xã, số lượng cán bộ y tế tại các xã, nơi chữa bệnh.Thực trạng chăm sóc sức khỏe bà mẹ – trẻ em thể hiện qua các chỉ báo về: Nơi sinh đẻ; tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, tỷ lệ trẻ được uống và tiêm phòng. Các yếu tố về vệ sinh môi trường, … để mang lại cuộc sống khỏe mạnh cho đồng bào dân tộc. 3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Vấn đề chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng luôn được sự quan tâm của tất cả mọi người. Đại hội sức khỏe thế giới ở Alma – Ata tổ chức năm 1978, đã đưa ra 8 nội dung CSSKBĐ cho cộng đồng có liên quan đến vấn đề: CSSK bà mẹ – trẻ em và vệ sinh, phòng chống các dịch bệnh đã nêu trên. Ở Việt Nam Đảng và Nhà nước cũng ban hành nhiều chủ trương về chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Việc CSSKBĐ cho nhân dân,chúng ta cứ nghĩ thuộc lĩnh vực nghiên cứu của ngành y tế. Nhưng nghiên cứu về CSSKBĐ cho nhân dân đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội. Ngành xã hội học cũng có những nghiên cứu về CSSKBĐ cho nhân dân như trong tạp chí xã hội học có chuyên đề “Nghiên cứu xã hội học về sức khỏe”, tác giả James Allman có những bài viết quan trọng về “chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Việt Nam”, trên tạp chí xã hội học số 2 năm 1993. Nguyễn Hồng Sơn nghiên cứu “Vai trò của hệ thống y tế cơ sở trong CSSKBĐ cộng đồng nhân dân huyện Mê Linh – tỉnh Vĩnh Phúc”, khóa luận tốt nghiệp K38 chuyên ngành xã hội học. Tác giả đề cập đến hệ thống y tế cơ sở y trong chăm sóc sức khỏe cho người dân nông thôn. Bùi Thị Hồng Thùy nghiên cứu “ảnh hưởng của hoạt động y tế cơ sở trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng nông thôn trong những năm gần đây”, khóa luận tốt nghiệp K41 chuyên ngành xã hội học. Cả hai nghiên cứu trên đều xoay quanh những vấn đề hệ thống y tế cơ sở: Thực trạng chăm sóc sức khỏe cho người dân nông thôn của hệ thống y tế cơ sở như thế nào, có đề cập đến đội ngũ cán bộ y tế xã, cùng trang thiết bị của trạm y tế ra sao. Hệ thống y tế này đóng vai trò như thế nào trong chăm sóc CSSKBĐ cho cộng đồng. “Phụ nữ, sức khỏe và môi trường” (Trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và phát triển), do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2001 đã tập trung vào mấy vấn đề chính sau đây: Một là mô tả điều kiện và môi trường làm việc trong mối quan hệ với sức khỏe lao động nữ. Hai là nghiên cứu sự hiểu biết, nhận thức của lao động nữ và người sử dụng lao động về tác động tiêu cực môi trường làm việc không đảm bảo vệ sinh đối với sức khỏe. Ba là điều tra thái độ của lao động nữ và hành vi phòng ngừa về mặt sức khỏe của việc sử dụng thiết bị an toàn trong thời gian làm việc. Bốn là phân tích tác động của các yếu tố tâm lý – xã hội và văn hóa đến việc sử dụng thiết bị an toàn bảo vệ sức khỏe lao động nữ. Năm là làm rõ vai trò của người sử dụng lao động và người lao động, cả nam giới và nữ giới trong việc bảo vệ môi trường làm việc. Trong bài viết “Về ứng xử của gia đình nông thôn trong phòng và chữa bệnh qua các khảo sát xã hội học gần đây” trích trong cuốn sách “Những nghiên cứu chọn lọc về xã hội học nông thôn”, do nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 2004. Tác giả Trịnh Hòa Bình nêu khá rõ về tình hình chăm sóc sức khỏe của gia đình nông thôn hiện nay. Tác giả cho rằng cách xử lý và lựa chọn loại hình dịch vụ y tế của gia đình nông thôn, trong những lúc ốm đau không chỉ phản ánh khả năng thực tế của gia đình trong việc chăm sóc sức khỏe, mà còn thể hiện trình độ “văn hóa y tế”. Trong điều kiện “văn hóa y tế” thấp thì nhu cầu chăm sóc sức khỏe cũng thấp và cách ứng xử của gia đình cũng thật đơn giản. Ngược lại trong điều kiện “văn hóa y tế” cao thì nhu cầu chữa trị cũng cao và sự lựa chọn các hình thức phục vụ y tế hợp lý, ngay cả trong điều kiện gia đình có những hạn hẹp về vật chất. Các tạp chí khoa học xã hội có nhiều bài viết liên quan đến vấn đề chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng như: Bài viết của tác giả Đoàn Kim Thắng “Những vấn đề xã hội của mô hình nhà y tế thôn bản trong CSSKBĐ” (tạp chí Khoa học về Phụ Nữ số 5 năm 2003). Bài viết đề cập đến những vấn đề: Thực trạng chăm sóc tại một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam còn lạc hậu theo tập tục, người dân không có điều kiện tiếp cận với y tế. Thứ hai là những khó khăn của trạm y tế về trình đọcủa y bác sĩ còn kém, ngân sách hạn chế, điều kiện địa lý còn cách xã cộng đồng. Chính những khó khăn đó cần thiết có một loại hình y tế cơ sở tuyến thôn bản phục vụ CSSKBĐ cho cộng đồng, là cầu nối trạm y tế với người dân xã. Nhân viên y tế thôn bản là mạng lưới cộng tác viên, giúp cho y tế cơ sở triển khai các chương trình y tế, vệ sinh phòng chống bệnh dịch, CSSKBĐ cho người dân có ý nghĩa đối với địa hình phức tạp, khó có điều kiện tiếp cân nhanh với trạm y tế xã và tuyến trên. Cần xây dựng mô hình nha y tế thôn bản, tuy nhiên còn gặp nhiều khó khăn, cần sự vươn lên của chính các dân tộc và cộng đồng. Cuốn “Mức sống trong thời kỳ bùng nổ kinh tế Việt Nam”, nhà xuất bản Thống kê Hà Nội xuất bản năm 2004, do Dominique Haughton, Jonathan Haughton và Nguyễn Phong biên soạn, các tác giả đã tập trung vào chủ đề chăm sóc sức khỏe và y tế bắt đầu bằng việc đánh giá tình trạng sức khỏe của dân cư. Mục tiêu là cung cấp những thông tin chính xác và phù hợp cho các nhà hoạch định chính sách y tế, cùng một số khuyến nghị nhằm cải thiện tình trạng sức khỏe dân cư trên góc độ cá nhân và cộng đồng. Hay như trong : Dự thảo báo cáo tổng hợp “Dự án điều tra cơ bản dân tộc La Hủ” – năm 2006, của KS, CN Vy Xuân Hoa – Phó vụ trưởng Vụ chính sách dân tộc , thuộc ủy ban dân tộc miền núi. Dự án đã tiến hành điều tra 454 hộ đồng bào dân tộc La Hủ trên địa bàn 5 xã thuộc huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu: xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Dự án điều tra về: Kinh tế; văn hóa, y tế và giáo dục; chính sách và thực hiện chính sách. Có thể nói hầu hết các tác giả đã đi vào phân tích và nêu lên được các vấn đề liên quan đến CSSKBĐ cho cộng đồng, chỉ ra được vai trò của hệ thống y tế cơ sở, những yếu tố tiêu cực, tích cực ảnh hưởng đến CSSKBĐ cho nhân dân. Tuy nhiên các tác giả vẫn chưa đi sâu vào tìm hiểu thực trạng CSSKBĐ cho một dân tộc thiểu số cụ thể nào ? Với những cuốn sách, công trình nghiên cứu đó là nền tảng gợi mở cho công trình nghiên cứu của tôi với cái nhìn hẹp hơn, với đối tượng nghiên cứu là về dân tộc thiểu số La Hủ ở địa bàn huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Vì những lý do trên tôi tiến hành công trình nghiên cứu: “Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ” (nghiên cứu trên địa bàn các xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu). 4. Tổng quan địa bàn nghiên cứu 4.1. Nguồn gốc dân tộc La Hủ Người La Hủ ở Việt Nam sinh sống duy nhất ở các xã Pa ủ, Pa Vệ Sủ, Ka Lăng, Bum Tở, Nậm Khao và xã Mường Tè của huyện Mường Tè. Người La Hủ có các tên gọi khác nhau như: Xá Lá Vàng, Khù Sung, Cò Sung, Khạ Quy, Xá Quỷ, Xá Toong Lương, Xá Pươi. Dân tộc La Hủ chia làm 3 nhóm : - La Hủ Sủ. - La Hủ Na – La Hủ Đen. - La Hủ Pung – La Hủ Trắng. Tiếng nói của người La Hủ thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng – Miến. Người La Hủ định cư ở một vùng rộng lớn thuộc khu vực biên giới tiếp giáp giữa Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào - Thái Lan và Mianma. Người La Hủ sống tập trung thành khu vực riêng, ít xen kẽ với các dân tộc khác. Mường Tè là huyện biên giới tỉnh Lai Châu, có 5 xã có đường biên giới giáp Trung Quốc và 2 xã tiếp giáp với Lào. Với sự hoạch định biên giới quốc gia thời cận hiện đại, các dân tộc sống ở vùng biên giới, tiếp giáp với nhiều nước, trở thành những tộc người cư trú không biên giới. Khác với nhiều dân tộc thiểu số ở nước ta là phân bố xen kẽ với các dân tộc khác ở nhiều nơi khác nhau, người La Hủ chỉ sống tập trung duy nhất ở huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Họ cư trú trên các sườn núi, mỗi bản trước đây chỉ có bốn, năm nóc nhà, giao thông đi lại rất khó khăn. Hiện nay nhiều bản của người La Hủ đã có từ 20 đến 60 hộ gia đình. Theo số liệu Tổng điều tra dân số qua các năm: - Năm 1960 dân tộc La Hủ (Khù Sung) có 2.477 người, - Năm 1979 dân tộc La Hủ có 4.270 người. - Năm 1989 dân tộc La Hủ có 5.319 người. - Năm 1999 dân tộc La Hủ có 6.874 người. - Theo thống kê hiện nay (tháng 7/2006) dân tộc La Hủ có 1.526 hộ với 7.962 nhân khẩu, phân bố tập trung ở 43 bản thuộc 6 xã phía Bắc của huyện Mường Tè. Trong các xã này đều có các dân tộc khác sống xen kẽ như Thái, Hà Nhì, Kinh, Sila, Hoa,v.v... Địa bàn cư trú của người La Hủ nói riêng và các dân tộc nói ngôn ngữ Tạng – Miến nói chung là trên các sườn núi cao, biên giới, nơi gần các khe lạch, sông suối, những nơi có nguồn nước dùng sinh hoạt hằng ngày. 4.2. Phân bố dân tộc La Hủ Cho đến thời điểm điều tra (tháng 7 năm 2006) dân tộc La Hủ có 1.526 hộ, 7.962 khẩu. Đồng bào dân tộc La Hủ sinh sống tập trung chủ yếu ở 43 bản, 6 xã phía Bắc của huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, cụ thể: + Xã Ka Lăng : 6 bản, 194 hộ, 1.095 khẩu. + Xã Pa ủ : 12 bản, 394 hộ, 2.230 khẩu. + Xã Pa Vệ Sủ : 14 bản, 413hộ, 1.731 khẩu. + Xã Bum Tở : 8 bản, 436 hộ, 2.533 khẩu. + Xã Nậm Khao: 2 bản, 69 hộ, 258 khẩu. + Xã Mường Tè: 1 bản, 20 hộ, 115 khẩu. 4.3. Điều kiện tự nhiên nơi cư trú của dân tộc La Hủ 4.3.1. Vị trí địa lý Các bản dân tộc La Hủ sinh sống nằm ở độ cao từ 700 - 1.200m. Có toạ độ địa lý vào khoảng: 22023’-22031’ vĩ Bắc; 102043’-102051’ độ kinh Đông. Phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Đông giáp xã Hum Bum, phía Nam giáp các xã nội địa trong huyện, phía Tây giáp các xã nội địa trong huyện. Vùng dân tộc La Hủ cư trú nằm cách xa trung tâm huyện, tỉnh lỵ. 4.3.2. Khí hậu thời tiết Khí hậu nhiệt đới gió mùa - nóng ẩm, lượng mưa bình quân 2.500 - 3.000 mm/năm, mùa mưa tập trung vào tháng 7 và tháng 8, thường gây ra lũ ống và lũ quét, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, khí hậu lạnh, nhiệt độ khoảng 5- 10 0c. Độ ẩm cao, trung bình năm W% = 80-86%. Số giờ nắng trung bình chiếm 1.500-1.600h/năm. Thuỷ văn: Trên địa bàn dân tộc La Hủ cư trú có một số hệ thống suối chính chảy qua: - Xã Ka Lăng: Suối Nậm Lằn, Là Si. - Xã Bum Tở: Suối Nậm Pục, Nậm Xả, Huổi Củng, Nậm Cấu. - Xã Pa Vệ Sủ: Suối Nậm Sì Lường và các khe suối nhỏ khác. - Xã Pa ủ: Suối Nậm Củm, Nậm Hản, Nậm Phìn và một số khe suối nhỏ khác. - Xã Nậm Khao: Suối Nậm Kha ứ, Nậm Phìn và một số khe suối nhỏ khác 4.3.3. Địa hình, đất đai vùng dân tộc La Hủ cư trú Địa hình bị chia cắt mạnh bởi các khe suối, nhiều núi cao hiểm trở, độ dốc lớn, độ cao trung bình từ 700 - 1.200 m, đỉnh cao nhất 3.076 m. Tổng diện tích tự nhiên vùng dân tộc La Hủ 85.360,85 ha. Trong đó: + Đất nông nghiệp : 1.390,22 ha. + Đất lâm nghiệp : 26.757,29 ha. + Đất chuyên dùng: 215,49 ha. + Đất ở : 10,85 ha. + Đất chưa sử dụng: 56.987 ha. Chủ yếu là các loại đất feralit đỏ vàng thuận lợi cho việc trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày và lâu năm. CHƯƠNG II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Nghiên cứu “Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ” (nghiên cứu trên địa bàn các xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu). Nhằm mô tả thực trạng về : Vấn đề kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở ;. Chăm sóc sức khỏe bà mẹ – trẻ em. Vệ sinh môi trường của đồng bào dân tộc La Hủ được thể hiện qua các chỉ báo cụ thể. 1. Vấn đề kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở Qua số liệu phân tích của tài liệu (1) ta thấy : Thực trạng kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở thể hiện qua: hoạt động của các trạm y tế tại địa bàn các xã, số lượng cán bộ y tế tại các xã, nơi chữa bệnh. 1.1. Thực trạng hoạt động của các trạm y tế Trạm y tế luôn có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với công tác CSSKBĐ cho nhân dân, điều nà y được khẳng định trong các văn bản quy định hiện hành của Đảng và Nhà nước. Năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 135/1998/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu vùng xa. Chương trình này chủ yếu đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở, trong đó ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình về y tế và giáo dục. Quyết định 186/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã nêu rõ cần phải nâng cấp các trạm y tế xã, đảm bảo 100% các xã có trạm y tế xã. Vậy thực trạng hoạt động của các trạm y tế xã trên địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc La Hủ hiện nay như thê nào ? Phần nào được thể hiện qua các số liệu sau : Bảng 1 : Tình trạng hoạt động của các trạm y tế TT Xã Hoạt động Tỷ lệ Không hoạt động Tỷ lệ Không thường xuyên Tỷ lệ 1 Bum Tở 3 3,0 2 Pa Vệ Sử 19 18,8 9 8,9 3 Pa ủ 0,0 4 Ka Lăng 11 11,0 6 6,0 5 Nậm Khao 2 2,0 0,0 6 Tổng 35 7,7 6 1,3 9 2,0 Hay tình trạng hoạt động của trạm y tế thôn còn được thể hiện qua tỷ lệ (%) ở biểu sau : Biểu 1 : Tỷ lệ không có trạm y tế thôn Qua các số liệu trên ta thấy : Tỷ lệ số xã có trạm y tế hoạt động có mức chênh lệch quá lớn : Xã Pa Vệ Sử có số lượng trạm y tế cao nhất với 19 trạm, chiếm 48,8% nhưng lại có tới 9 trạm không hoạt động thường xuyên.Trong khi xã Pa ủ lại không có trạm y tế nào ? Tiếp đến là xã Ka Lăng có 11 trạm y tế chiếm 11% trong đó có 6 trạm không hoạt động, xã Bum Tở có 3 trạm y tế chiếm 3%, xã Nậm Khao có 2 trạm y tế chiếm 2%. Thực trạng hoạt động của các trạm y tế còn quá thấp, làm thế nào nâng cao được chất lượng CSSKBĐ cho đồng bào dân tộc ? Nguyên nhân do đâu xảy ra tình trạng này: Do địa bàn cư trú của dân tộc La Hủ là núi non hiểm trở, điều kiện tự nhiên quá khó khăn phức tạp, các cơ quan chức năng không thể giúp đỡ họ xây dựng cac trạm y tế ? Hay do chính bản thân đồng bào dân tộc La Hủ có thói quen du canh du cư, không có địa bàn cư trú nhất định nên không thể xây dựng các trạm y tế xã được ? Ảnh 1 : Trạm y tế xã Pa Vệ Sử 1.2. Số lượng cán bộ y tế tại các xã Thực trạng kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở, còn được xem xét qua số lượng cán bộ y tế thôn, bản: Bảng 2: Cán bộ y tế trong làng TT Xã Số hộ Không có Tỷ lệ 1 cán bộ Tỷ lệ 2 cán bộ Tỷ lệ 1 Bum Tở 100 99 99,0 2 Pa Vệ Sử 101 49 48,5 50 49,5 3 Pa ủ 103 100 97,1 4 Ka Lăng 100 1 1,0 96 96,0 5 Nậm Khao 50 50 100,0 6 Tổng 454 50 11,0 395 87,0 0 0 Biểu 2 : Cán bộ y tế trong làng Theo số liệu trên ta thấy, có 87% người dân nhận định có 01 cán bộ y tế trong làng, riêng xã Nậm Khao đảm bảo 100% có cán bộ y tế. Xã Pa Vệ Sủ có đến 48,5% nhận định không có cán bộ y tế nào. Xã Bum Tở có tới 99% cho biết có 1 cán bộ y tế trong làng. Xã Ka Lăng 96% người trả lời khẳng định có 1 cán bộ y tế. Trên đây tôi sử dụng số liệu trong tài liệu của một dự án nghiên cứu cấp Nhà nước, đảm bảo về nguồn số liệu là chính xác hợp lí. Nhưng qua số liệu về tình trạng hoạt động của các trạm y tế xã ( đã nêu ở phần trên ) và số liệu về cán bộ y tế trong làng có sự khác biệt khá rõ : - Xã Pa ủ không có trạm y tế xã nào thì trong100 người được hỏi có tới 96 người trả lời là có 1 cán bộ y tế xã, chiếm 96%. Không có trạm y tế nào thì cán bộ y tế hoạt động như thế nào? ở địa bàn xã Pa ủ có phải cán bộ y tế hoạt động “ du canh du cư” theo các hộ gia đình không, họ sẽ đến khám và chữa bệnh tại nhà cho người dân khi họ bị bệnh ? Nếu số liệu phản ánh ở trên là đúng thì đây là một thực tế rất đáng khích lệ, cần được phát huy và có những trợ cấp cho phù hợp – xứng đáng với cán bộ ở địa bàn này. Hay chính những cán bộ y tế trong làng bản là người dân tộc La Hủ, họ thích nghi nhanh để có cách phục vụ đồng bào mình nhanh hơn. - Xã Pa Vệ Sử có số lượng trạm y tế cao nhất với 19 trạm, chiếm 48,8% nhưng có 49 người trả lời là không có cán bộ y tế trong làng chiếm 48,5%. - Xã Nậm Khao chỉ có 2 trạm y tế hoạt động nhưng người dân ở đây cho biết ở xã mình 100% có cán bộ y tế. Thực trạng về cán bộ y tế tại xã Pa Vệ Sử là đúng hay sai, theo số liệu điều tra thì đáng lí xã nào có số trạm y tế nhiều thì sẽ được tạo điều kiện có nhiều cán bộ y tế, nếu không thì các trạm y tế được xây dựng lên nhiều sẽ không phát huy được tác dụng, gây những lãng phí không cần thiết trong chi phí xây dựng, mà vẫn không đáp ứng được nhu cầu CSSKBĐ cho đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, qua số liệu này ta cũng phần nào giải thích được vì sao xã Pa Vệ Sử có 19 trạm y tế xã mà có tới 9 trạm không hoạt động thường xuyên. Đây đang là một vấn đề cần xem xét lại trong hoạt động chính sách để nhằm cải thiện và nâng cao việc CSSKBĐ cho dân tộc thiểu số La Hủ. Theo lời cán bộ phụ trách điều tra dự án về dân tộc La Hủ cho biết : “ Nói thẳng ra tôi thấy cũng thấy thật khổ sở cho đồng bào dân tộc La Hủ, địa bàn cư trú ngoằn ngèo, toàn thấy đồi với núi, thi thoảng mới nhìn thấy bóng người. Các trạm y tế cũng thấy vắng vẻ lắm, các cán bộ y tế bảo : thi thoảng mới có người đến khám thôi, mà cũng phải nói mãi họ mới chịu uống thuốc. Nhiều khi nhà dân có người ốm phải leo qua quả đồi trật hết cả chân mới đên được nhà bệnh nhân .” (Phỏng vấn sâu số 2, nam 35 tuổi ) 1.3. Nơi khám bệnh Số liệu về trạm y tế và cán bộ y tế xã cũng đã phần nào phản ánh được thực trạng về nơi khám chữa bệnh của đồng bào dân tộc nơi đây. Nó cũng thể hiện được niềm tin của người dân La Hủ vào mạng lưới y tế cơ sở - đã và đang được nhà nước và các cấp chính quyền quan tâm Bảng 3: Tỷ lệ khám chữa bệnh Xã Số hộ Trạm Tỷ lệ TT Y tế Tỷ lệ Bviện tỉnh Tỷ lệ T.Lang Tỷ lệ Bum Tở 100 90 90,0 14 14 Pa Vệ Sử 101 98 97,0 3 3,0 Pa ủ 103 5 4,9 96 93,2 Ka Lăng 100 90 90,0 2 2,0 Nậm Khao 50 50 100,0 Tổng 454 333 73,3 14 3,1 0 0 101 22,2 Bảng 3 được thể hiện thông qua số liệu ở bảng trên : Biểu 3: Tỷ lệ về nơi chữa bệnh Qua bảng và biểu trên cho ta thấy :Tỷ lệ đồng bào La Hủ đến khám chữa bệnh tại các trạm y tế xã là ngang nhau, đều từ 90% - 100%. - Xã Pa ủ là xã có tỷ lệ người được hỏi đến thầy lang khám chữa bệnh nhiều nhất: hỏi 103 hộ thì có tới 96 người trả lời là đến thầy lang (93,2%). Chỉ có 5 người được hỏi trả lời là đến trạm y tế xã (4,9%), số lượng người đến trạm y tế xã là quá thấp. Số liệu về tỷ lệ khám chữa bệnh của người dân La Hủ ở xã Pa ủ phản ánh thực trạng CSSKBĐ cho nhân địa phương tại xã này còn rất nhiều hạn chế. Khi người dân bị bệnh họ không tìm đến bác sĩ mà lại nhờ các thầy lang, họ không tin tưởng vào khả năng khám chữa bệnh của các cán bộ, thái độ khám chữa bệnh của cán bộ y tế xã không nhiệt tình gây, gây khó dễ cho đồng bào ; hay do không có trạm y tế nào ở xã (theo số liệu ở trên) nên người dân vẫn phải làm theo cách truyền thống như từ khi chưa có cán bộ y tế. - Xã Pa Vệ Sử có 97% số hộ được hỏi trả lời là đến trạm y tế xã, có 3% là tìm đến thầy lang. - Xã Ka Lăng có 90% chọn đến trạm y tế xã, 3% đến thầy lang. Số liệu ở hai xã Pa Vệ Sử, Ka Lăng phản ánh thực trạng chăm sóc khá tốt của đội ngũ cán bộ y tế đối với đồng bào, chỉ còn một số lượng nhỏ người dân tìm đến thầy lang. - Xã Nậm Khao có 100% số người được hỏi trả lời là đến trạm y tế xã để khám và chữa bệnh. - Xã Bum Tở trong 100 người được hỏi có 90 người chọn cách là đến trạm y tế xã khám chữa bệnh, có 14 người đến trung tâm y tế huyện - đây là xã có tỷ lệ người được hỏi đên trung tâm y tế huyện cao nhất. Cũng là một trong hai xã được hỏi không có ai đến thầy lang - Đây là một dấu hiệu đáng mừng, phản ánh phần nào sự tiến bộ trong nhận thức của đồng bào dân tộc La Hủ. Họ hiểu được tầm quan trọng trong việc chăm lo sức khỏe cho chính bản thân mình, họ đang dần dần có niềm tin vào sự tiến bộ cua khoa học mà ở đây là lĩnh vực y tế. Số liệu này cũng phần nào phản ánh sự tiến bộ trong tư tưởng của người dân, họ không con tin mê muội vào các thày lang nữa.  “ Chúng tôi hỏi mấy chị phụ nữ ở nhà họ, họ cười và bảo : Hồi ngày xưa khi chưa có các bác sĩ áo trắng về bản, khi mà nhà chúng tôi có ai ốm thì khổ lắm, suốt ngày phải nhờ cậy các thầy lang lên rừng tìm lá thuốc thôi. Nhưng giờ thì nhàn lắm, đến trạm y tế xã chỉ uống mấy viên thuốc nghỉ ngơi một ít là đỡ ngay .” (Trích phỏng vấn sâu số 2, nam 35 tuổi ) 2. Thực trạng chăm sóc bà mẹ – trẻ em CSSKBM-TE là những việc làm giúp các bà mẹ và trẻ nhỏ nâng cao sự phát triển về thể chất, phòng tránh bệnh tật, giảm nguy cơ tử vong. Thực trạng CSSKBM-TE của dân tộc la Hủ được thể hiên qua các chỉ báo về : nơi sinh ; tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng ; tỷ lệ trẻ em được uống và tiêm phòng. Hoạt động CSSKBM-TE là vấn đề quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam và nhiều lần trong các kỳ Đại hội, Đảng ta đã quan tâm đến vấn đề này. Bác Hồ đã nói “ vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người ”. Hiện tại tỷ lệ tử vong bà mẹ, trẻ em và suy dinh dưỡng trẻ em ở nước ta còn cao. Hàng năm nước ta “có khoảng 2500 phụ nữ tử vong ” (2 ; 23), do hậu quả trực tiếp của biến chứng liên quan đến thai nghén. Đồng thời “hàng vạn phụ nữ phải chịu biến chứng bệnh tật kéo dài, 52,3% số phụ nữ có thai bị thiếu máu, số trẻ sơ sinh bị chết hàng năm lên đến 90000, hàng vạn trẻ bị tàn tật do chăm sóc kém, do không được chăm sóc trong khi mẹ mang thai hoặc khi sinh đẻ trang thiết bị quá kém ”(4). Cho đến năm 2005 thì “ tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi là 3,5%. Trong đó tỷ lệ tử vong trẻ em dưới một tuổi là 2,1%. Tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng giảm dưới 25% ” (5). Trong chương trình chiến lược quốc gia chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001 – 2010 có đưa ra các chỉ tiêu có liên quan đến CSSKBM-TE như sau : - Tỷ suất chết mẹ giảm xuống còn 70/100000 trẻ đẻ sống - Tỷ lệ chết trẻ dưới 1 tuổi hạ xuống dưới 25 trẻ đẻ sống - Tỷ lệ trẻ em chết dưới 5 tuổi xuống dưới 32 - Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống dưới 20% (3). Trước thực trạng cùng mục tiêu phấn đấu trong chiến lược quốc gia về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân như vậy thì mỗi người dân chúng ta phải có trách nhiệm, nghĩa vụ nâng cao tình trạng sức khỏe của mình, đặc biệt phải quan tâm CSSKBM-TE . Điều đó đòi hỏi mỗi địa phương trong cả nước phải nâng cao hoạt động CSSKBĐ cho bà mẹ, trẻ em, việcc CSSKBM-TE của đồng bào dân tộc La Hủ cũng không nằm ngoài quy luật trên. Thực trạng CSSKBM-TE của đồng bào dân tộc La Hủ trên địa bàn huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu còn nhiều hạn chế, nó thể hiện qua : 2.1. Về nơi sinh đẻ Qua số liệu phân tích của tài liệu (1) cho ta biết thực trạng về nơi sinh đẻ của phụ nữ La Hủ. Bảng 4 : Nơi sinh đẻ của phụ nữ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ (nghiên cứu trên địa bàn các xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huy.doc
Tài liệu liên quan