MỤC LỤC
CHƯƠNG I:
Cơ sở lý luận về tổ chức sản xuất và mô hình kinh tế trang trại trong nông
nghiệp ở Việt Nam.1
1.Khái niệm và các hình thức tổ chức sản xuất.2
2.Tổ chức sản xuất và vai trò tổ chức sản xuất.6
CHƯƠNG II :
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRONG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY.13
I-/ Tình hình chung về phát triển kinh tế trang trại ở nước ta. 13
1. Chủ trang trại .13
2. Các yếu tố sản xuất trang trại.14
II-/Kết quả và hiệu quả sản xuất của trang trại.20
CHƯƠNG III :
CÁC CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở NƯỚC TA THỜI KỲ 2001-2005.31
I-/ Một số quan điểm và phương hướng chung về phát triển kinh tế trang trại thời kỳ 2001-2005.31
II-/ Các chính sách chủ yếu nhằm phát triển linh tế trang trại ở việt nam thời kỳ 2001-2005.33
1. chính sách vốn tín dụng.33
2. chính sách thuế. .34
3. chính sách thị trường.34
KẾT LUẬN.36
TÀI LIỆU THAM KHẢO.37
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5503 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng phát triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t, nhiều lao động, thâm canh cao gắn với chế biến và thương mại, dịch vụ, làm ra nông sản có giá trị kinh tế lớn.
Ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với những hộ nông dân có vốn, kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp hàng hoá và những hộ không có đất sản xuất nông nghiệp mà có nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong nông nghiệp.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát huy kinh tế tự chủ của hộ nông dân, phát triển kinh tế trang trại đi đôi với chuyển đổi hợp tác xã cũ, mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất - kinh doanh giữa các hộ nông dân, các trang trại, các nông, lâm trường quốc doanh, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tạo động lực và sức mạnh tổng hợp cho nông nghiệp, nông thôn phát triển.
Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học - công nghệ chế biến, tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại phát triển bền vững.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước để các trang trại phát triển lành mạnh, có hiệu quả.
Với các chính sách nêu trên, chúng ta đang dần tiến tới một bộ chính sách thực sự hoàn chỉnh để khuyến khích kinh tế trang trại phát triển. Điều này cũng đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là chấp nhận và khuyến khích kinh tế trang trại phát triển như là một tất yếu trong quá trình đi lên của nền kinh tế đất nước.
Chương II
Thực trạng phát triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp Việt Nam hiện nay
I-/ Tình hình chung về phát triển kinh tế trang trại ở nước ta
Thực tế, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, kinh tế hộ nông dân đã phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh mới trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của hộ nông dân đã hình thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động với trình độ công nghệ và quản lý cao hơn, nhằm mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá và nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Hiện nay, hình thức kinh tế trang trại đang tăng nhanh về số lượng với nhiều thành phần kinh tế tham gia, nhưng chủ yếu vẫn là trang trại hộ gia đình nông dân và một tỷ lệ đáng kể của gia đình cán bộ, công nhân, viên chức, bộ đội, công an đã nghỉ hưu. Hầu hết các trang trại có quy mô đất đai tương đối nhỏ, nguồn gốc đất đai đa dạng sử dụng lao động gia đình là chủ yếu; một số trang trại có thuê thuê lao động thời vụ và thường xuyên.
Hầu hết vốn đầu tư là vốn tự có và vốn vay của cộng đồng, vốn vay của các tổ chức tín dụng chỉ chiếm tỷ trọng thấp. Phần lớn trang trại đã phát huy được lợi thế của vùng, lấy ngắn nuôi dài có hiệu quả.
Sự phát triển của kinh tế trang trại đã góp phần khai thác thêm nguồn lực vốn trong dân mở mang thêm diện tích đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá, nhất là ở các vùng trung du, miền núi và ven biển; tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo; tăng thêm nông sản hàng hoá, một số trang trại đã góp phần sản xuất và cung ứng giống tốt, làm dịch vụ, kỹ thuật tiêu thụ sản phẩm cho nông dân trong vùng.
Cụ thể, theo số liệu điều tra thực tế 3044 trang trại do trường ĐH Kinh tế Quốc dân thực hiện ở 15 tỉnh, thành phố trọng điểm trong cả nước, làm nổi bật nên thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta như sau:
1-/ Chủ trang trại.
Có sự khác biệt rất lớn về nguồn gốc xuất thân, giới tính của chủ trang trại giữa các vùng, các miền trong cả nước. Nếu tựu chung lại thì có tới 91,85% chủ trang trại là nam giới, trong khi đó chỉ có 8,15% là nữ chủ trang trại.
Nguồn gốc xuất thân của chủ trang trại cũng rất đa dạng, trong đó số chủ trang trại là nông dân chiếm tới 62,35%, riêng Khánh Hoà tỷ lệ này là 83,75; Ninh Thuận là 81,25%. Cán bộ chủ chốt cấp xã chiếm 8,84%, riêng Yên Bái tỷ lệ này là 17%. Số chủ trang trại là bộ đội, công an trở về địa phương chiếm 8,11%. Chủ trang trại là công chức chiếm 4,73%. Công nhân đang làm việc chiếm 3,42% và chủ trang trại khác chiếm 3,19%.
Số chủ trang trại là Đảng viên chiếm 24,08%. Trong đó Yên Bái tỷ lệ này là 52%, Nghệ An 37,04%. Số chủ trang trại là đoàn viên thanh niên chiếm 2,92%. Trong đó Sơn La chiếm 6,5% và ở Nghệ An tỷ lệ này là 6,3%.
2-/ Các yếu tố sản xuất của trang trại.
2.1. Đất đai của trang trại
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu trong hoạt động sản xuất nông, lâm và thuỷ sản. Để phát triển kinh tế trang trại trước hết phải dựa vào đất đai, nhất là những cây trồng, vật nuôi cần một lượng diện tích đất đủ lớn để sản xuất ra một lượng sản phẩm hàng hoá nhất định. Vì thế kinh tế trang trại cần được phát triển ở vùng trung du, miền núi và ven biển nơi mà quỹ đất có khả năng khai phá và sử dụng còn lớn. Thực tế có sự chênh lệch đáng kể trong quỹ đất của trang trại giữa các tỉnh. Trong khi bình quân chung một trang trại có 6,63ha thì ở Nghệ An tỷ lệ này là 12,69ha. Yên Bái 10,17ha nhưng ở Đồng Nai chỉ có 2,753ha, Sơn La 3,27ha. Nhóm trang trại lâm nghiệp có quy mô đất là 20,29ha, trang trại kinh doanh cây lâu năm có 6,10ha, trang trại chăn nuôi có 1,48ha. Chủ trang trại nông dân có quy mô 6,27ha, chủ trang trại khác có quy mô lớn hơn 8,66ha.
Nguồn gốc đất đai của trang trại cũng rất đa dạng, trong đó phần đất được giao chiếm đại bộ phận, tính bình quân phần đất này là 71,83%, tỷ trọng đất chưa được giao chiếm 28,17%, trong đó diện tích nhận thầu của HTX chiếm 31,46%, nhận chuyển nhượng đất 19,27%, nhận thầu của nông - lâm trường chiếm 18,9%, tự khai hoang chiếm 17,99%, nhận khoán chủ dự án 9,59%. Cá biệt có các trang trại ở Thanh Hoá và Hà Nội tỷ lệ đất chưa được giao chiếm trên 50% trong đó chủ yếu nhận thầu của HTX trên 72%. ở Nghệ An, tỷ trọng đất chưa được giao chiếm 21,48% nhưng ở đây các trang trại phần lớn nhận thầu đất đai của các nông, lâm trường và chủ dự án (chiếm 76,13%) với nhiều hình thức rất khác nhau.
Cơ cấu quỹ đất của các trang trại bao gồm đất nông nghiệp chiếm 58,81%, đất lâm nghiệm chiếm 28,73% đất nuôi trồng thuỷ sản chiếm 11,49% và đất thổ cư 0,97%. Cơ cấu đất đai tuỳ thuộc vào điều kiện từng địa phương, từng hướng kinh doanh sản xuất, từng nhóm chủ trang trại. Gialai, Đăklăk tỷ trọng đất nông nghiệp chiếm cao từ 92-95%, trong khi đó các trang trại Yên Bái đất nông nghiệp chiếm 30,8%, đất lâm nghiệp chiếm 67,64%. Nghệ An đất nông nghiệp chiếm 23,98%, đất lâm nghiệp chiếm 64,46%. Các trang trại kinh doanh cây lâu năm đất nông nghiệp chiếm trên 80%, nhóm trang trại lâm nghiệp, tỷ trọng đất lâm nghiệp chiếm 90%. Nhóm trang trại thuỷ sản, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản chiếm 80,3%.
Nghiên cứu biểu số 1 sau đây ta sẽ thấy rõ được điều này.
Biểu 1: Nguồn đất bình quân năm
(Chung 15 tỉnh)
Đơn vị: ha
Tiêu chí
Đất nông nghiệp
Đất lâm nghiệp
Mặt nước nuôi thuỷ sản
Tổng số
I- Đất đã được giao
2,9218
1,4781
0,3229
4,7229
II - Đất chưa được giao
0,9828
0,4292
0,4398
1,8518
1- Đất nhận thầu của HTX
0,1713
0,0265
0,3847
0,5826
2- Thuê của tư nhân
0,0192
0,0013
0,0018
0,0223
3- Nhận chuyển nhượng
0,3294
0,0136
0,0139
0,3569
4- Nhận cầm cố
0,0034
0,0011
0,0000
0,0045
5 - Tự khai hoang
0,2644
0,0607
0,0080
0,3332
- Đất, bồi
0,0743
0,0024
0,0071
0,0838
- Đất trống, đồi trọc
0,1549
0,0338
0,0003
0,01890
- Rừng
0,0328
0,0240
0,0001
0,0569
- Khác
0,0024
0,0005
0,0005
0,0034
6 - Thầu của nông, lâm trường
0,1596
0,1661
0,0250
0,3501
7 - Nhận khoán của chủ dự án
0,0284
0,1485
0,0008
0,1777
8- Nguồn khác
0,0071
0,0113
0,0056
0,0240
Tổng nguồn đất
3,9046
1,9073
0,7627
6,5747
2.2. Vốn và nguồn vốn của trang trại.
Vốn là yếu tố quan trọng, để phát triển kinh tế trang trại đòi hỏi phải có vốn, trong đó các chủ trang trại cần phải tích tụ một lượng vốn tự có nhất định, đó là một trong những điều kiện tiên quyết, nếu không có điều kiện này sẽ không thể hình thành trang trại một cách thuận lợi. Quy mô vốn bình quân một trang trại tương đối lớn, đạt 291,43 triệu đồng những lại có sự chênh lệch lớn giữa các địa phương.
Biểu 2 - Nguồn vốn bình quân trang trại thời điểm điều tra
Đơn vị: triệu đồng
Số TT
Nguồn vốn
Chung 15 tỉnh
Sơn La
Yên Bái
Quảng Ninh
Hà Nội
Thanh Hoá
Nghệ An
Gia Lai
Đắc Lắc
Lâm Đồng
Khánh Hoà
Ninh Thuận
Bình Dương
Đồng Nai
Long An
Cà Mau
I
Tổng số vốn
291,43
111,24
95,90
112,67
164,60
120,36
113,66
372,75
619,52
552,96
360,57
348,62
489,68
209,74
159,70
151,00
Vốn tự có
265,18
88,71
85,02
102,04
125,66
97,10
99,66
344,19
595,75
513,22
334,14
304,33
439,71
189,41
141,30
136,82
Vốn vay
22,13
20,25
7,26
9,12
25,70
19,70
13,74
25,89
21,03
37,17
23,18
36,64
37,09
18,32
16,43
10,93
- Vay ngân hàng
10,63
5,93
2,72
3,51
10,63
5,36
3,81
16,79
13,95
23,42
6,37
27,05
15,65
5,39
11,30
6,66
- Vay đầu tư ứng trước
2,26
10,82
0,17
0,00
0,46
7,55
1,55
0,08
1,40
0,32
2,54
0,08
1,71
3,12
0,11
0,08
- Vay theo dự án
1,50
1,33
2,71
3,37
1,53
1,37
2,20
2,23
0,68
0,03
3,28
0,64
2,43
0,19
0,85
0,00
- Vay khác
7,73
2,18
1,65
2,24
13,08
5,43
6,18
6,79
4,99
13,40
11,00
8,88
17,29
9,63
4,17
4,20
3
Vốn khác
4,12
2,28
3,62
1,51
13,24
3,56
0,26
2,67
2,73
2,57
3,25
7,65
12,88
2,00
1,96
3,25
Cơ cấu theo %
II
Tổng nguồn vốn
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
1
Vốn tự có
90,99
79,75
88,66
90,57
76,34
80,67
87,68
92,34
96,16
92,81
92,67
87,3
89,8
90,31
88,48
90,61
2
Vốn vay
7,59
18,21
7,57
8,1
15,61
16,37
12,09
6,95
3,29
6,72
6,43
10,51
7,57
8,74
10,29
7,24
- Vay ngân hàng
48,05
29,26
37,55
38,47
41,38
27,19
27,71
64,86
66,34
63,02
27,47
73,83
42,2
29,41
68,76
60,92
- Vay đầu tư ứng trước
10,23
53,44
2,27
0,00
1,77
38,30
11,29
0,32
6,67
0,85
10,95
0,20
4,61
17,02
0,68
0,70
- Vay theo dự án
6,78
6,55
37,37
36,97
5,94
6,96
16,00
8,60
3,25
0,07
14,13
1,74
6,56
1,04
5,16
0,00
- Vay khác
34,94
10,76
22,81
24,56
50,88
27,55
45,00
26,22
23,74
36,06
47,45
24,22
46,63
52,54
25,39
38,38
3
Vốn khác
1,41
2,05
3,78
1,34
8,04
2,96
0,23
0,72
0,44
0,47
0,90
2,19
2,63
0,95
1,23
2,15
Nhìn vào biểu 2 ta thấy rằng quy mô vốn bình quân một trang trại ở mỗi tỉnh không đều nhau. Cao nhất là các trang trại Đăklăk đạt 619,50 triệu, thấp nhất là Yên Bái đạt 96,38 triệu đồng. Nhóm trang trại chăn nuôi lợn và trồng cây lâu năm theo thống kê điều tra có quy mô trên 300 triệu đồng.
Nguồn vốn chủ yếu dựa vào vốn tự có là chính, bình quân các trang trại vốn tự có chiếm 91,3%. Vốn vay chiếm 8,93% trong đó vốn vay trực tiếp từ ngân hàng chiếm 48,08%, vốn đầu tư ứng trước chiếm 10,19% vay theo dự án 6,7%, vay khác chiếm 34,99%.
Nguồn vốn vay của các trang trại rất đa dạng, phần lớn các tỉnh phía Nam các trang trại dựa vào vốn vay trực tiếp từ ngân hàng chiếm tỷ trọng cao như Gia Lai chiếm 65,57%, Đăklăk chiếm 66,34%, Ninh Thuận 73,83%, Long An là 68,76%... một số tỉnh khác lại dựa vào đầu tư ứng trước như Sơn La chiếm 53,17% vốn vay, Yên Bái dựa vào vay dự án chiếm 37,37%, Hà Nội dựa vào vốn vay khác chiếm 52,56%. Tuỳ thuộc vào điều kiện sản xuất của từng địa phương từng hướng kinh doanh chính mà cơ cấu giá trị sản xuất và tài sản chủ yếu có sự khác nhau giữa các trang trại. Trang trại ở Gia Lai, Đắc Lắc tỷ trọng giá trị vườn cây lâu năm chiếm trên 84%, giá trị tài sản cố định có nguồn gốc kỹ thuật chiếm 10,41%. Trang trại ở Đồng Nai giá trị tài sản có nguồn gốc kỹ thuật chiếm cao 28,37%, giá trị đàn vật nuôi cơ bản chiếm 11,08%.
2.3. Lao động của trang trại
Bảng 3 - Phân tổ số trang trại điều tra theo quy mô lao động trong độ tuổi và lao động làm thuê
Đơn vị: trang trại
Số TT
Tiêu thức phân tổ
Chia theo Tỉnh
Chung 15 tỉnh
Sơn La
Yên Bái
Quảng Ninh
Hà Nội
Thanh Hoá
Nghệ An
Gia Lai
Đắc Lắc
Lâm Đồng
Khánh Hoà
Ninh Thuận
Bình Dương
Đồng Nai
Long An
Cà Mau
Tổng số
200
300
80
134
268
270
304
298
280
80
80
300
290
80
80
3.044
I
Phân tổ theo số lao động trong độ tuổi
Từ 2 LĐ trở xuống
101
169
32
168
181
170
139
153
38
28
162
164
38
23
23
1.636
Từ 3-4 lao động
77
103
41
86
75
95
121
95
31
33
106
92
24
37
37
1.055
Từ 5-6 lao động
17
20
7
14
13
34
33
25
10
17
27
27
13
18
14
299
Từ 7 LĐ trở lên
5
8
0
0
1
5
5
7
1
2
5
7
5
2
2
54
II
Phân tổ theo số lao động làm thuê thường xuyên
Số trang trại thuê LĐ thường xuyên
13
34
13
64
143
106
169
228
145
26
34
128
46
24
11
1.184
Chia ra:
- Thuê từ 1-2 LĐ
9
25
9
38
79
90
123
156
99
18
32
78
35
18
8
817
- Thuê từ 3-4 LĐ
4
5
1
12
41
9
27
47
35
5
1
23
8
4
2
224
- Thuê từ 5 LĐ trở lên
0
4
3
14
23
7
19
25
11
3
1
27
3
2
1
143
III
Phân tổ theo số ngày công lao động thuê theo thời vụ
Số trang trại thuê LĐ thời vụ
133
203
31
85
264
246
278
270
257
67
68
228
116
79
78
2.403
Chia ra:
- Thuê dưới 500 công
128
173
31
70
143
212
232
202
202
67
63
173
96
64
74
1.930
- Thuê từ 500-990
3
23
0
11
75
22
39
55
44
0
3
29
14
12
4
334
- Thuê từ 1000 công
2
7
0
4
46
12
7
13
11
0
2
26
6
3
0
139
Đại bộ phận các chủ trang trại là nam giới và dân tộc kinh. Trình độ văn hoá của chủ trang trại có trình độ cấp II trở lên chiếm 80,7%, trong đó các chủ trang trại ở Hà Nội, Thanh Hoá, Nghệ An chiếm tỷ lệ từ 91,8 đến 96,7%. Các chủ trang trại có trình độ chuyên môn từ sơ cấp đến đại học có 949 người, chiếm 31,8%, trong đó số có trình độ đại học chỉ chiếm 5,6%. Số lao động trong độ tuổi bình quân 1 trang trại là 2,86 người lao động trên độ tuổi là 0,41 người, lao động dưới độ tuổi là 0,84 người.
Qua số liệu ở biểu 3 cho thấy số lao động làm thuê ở các trang trại chưa nhiều, bình quân một trang trại thuê 0,98 lao động thường xuyên, trong đó các trang trại ở Đắc Lắc thuê gần 2 lao động, ở Hà Nội, Thanh Hoá thuê gần 1,5 lao động.
Trong số 3044 trang trại điều tra có 1184 trang trại thuê lao động thường xuyên (chiếm 38,90%) trong đó các trang trại ở Lâm Đồng chiếm 51,79%, ở Đắc Lắc là 76,51%.
Phân tổ các trang trại thuê lao động thường xuyên từ 1-2 lao động chiếm 69,01%, trong đó tỷ lệ này ở các trang trại Nghệ An là 90%, Gia Lai chiếm 72,79%. Số lao động thuê từ 3-4 lao động thường xuyên chiếm 18,92%, riêng các trang trại ở Lâm Đồng chiếm 24,14%, Thanh Hoá là 28,68%.
Số trang trại thuê thường xuyên từ 5 lao động trở lên chiếm 12,08%, trong đó các trang trại ở Hà Nội chiếm 21,88%, Bình Dương 21,10%. Có 2403 trang trại thuê lao động theo thời vụ, chiếm 78,95% tổng số trang trại điều tra, trong đó có 80,32% các trang trại thuê hàng năm dưới 500 ngày công.
Số trang trại từ 1000 ngày công trở lên rất ít, chỉ có 139 trang trại.
II-/ Kết quả và hiệu quả sản xuất của trang trại.
Kinh tế trang trại nước ta mới phát triển và đã phát triển tương đối mạnh trong những năm gần đây, nhưng phần lớn trang trại đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản đối với các vườn cây lâu năm, rừng trồng nguyên liệu, nhất là các trang trại bước đầu đã đem lại kết quả rõ rệt. Điều này thể hiện trên nhiều mặt, tuy nhiên chúng ta chỉ xem xét trên một số mặt chủ yếu sau đây:
1. Tổng doanh thu của trang trại.
Biểu 6: Tổng thu bình quân một trang trại năm 1998
Đơn vị: triệu đồng
Trang trại ở các tỉnh
Tổng thu
Trong đó
Trồng trọt
Chăn nuôi
Thuỷ sản
Lâm nghiệp
Bình quân chung
105,426
60,880
28,776
14,526
1,246
Trong đó:
Sơn La
46,05
41,07
4,21
0,48
0,29
Yên Bái
33,25
16,10
10,02
2,28
4,85
Quảng Ninh
24,48
12,00
4,73
6,86
0,89
Hà Nội
129,74
18,48
52,05
58,64
0,57
Thanh Hoá
101,94
51,03
6,23
43,23
1,45
Nghệ An
38,58
20,65
8,96
5,81
3,16
Gia Lai
104,33
98,57
5,72
0,03
0,0
Đắc Lắc
162,92
160,97
1,76
0,20
0,0
Lâm Đồng
150,83
130,23
20,45
0,154
0,0
Khánh Hoà
164,67
35,91
1,52
127,24
0,0
Ninh Thuận
148,25
35,66
20,33
91,99
0,28
Bình Dương
57,79
41,85
13,11
2,79
0,04
Đồng Nai
224,94
23,60
198,63
0,27
2,41
Long An
110,86
95,65
11,15
2,34
1,75
Cà Mau
70,98
30,19
1,17
38,99
0,03
Nghiên cứu biểu 6 ta thấy rằng mức tổng thu trung bình một trang trại là 105,426 triệu đồng. Trong đó trồng trọt 60,880 triệu, chăn nuôi 28,776 triệu, thuỷ sản 14,526 triệu và lâm nghiệp 1,246 triệu. Mức tổng thu giữa các tỉnh có sự chênh lệch rất lớn, tới 9 lần, cụ thể Đồng Nai đạt 224,94 triệu, trong khi đó Quảng Ninh chỉ đạt 24,48 triệu. Nhìn chung mức tổng thu của các trang trại ở các tỉnh phía Bắc và khu 4 cũ thấp do có vốn đầu tư thấp, chủ yếu dựa vào trồng trọt và đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản. Ngược lại các trang trại ở Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ đạt mức doanh thu khá cao.
Các trang trại có hướng kinh doanh chăn nuôi lợn, gia cầm, thuỷ sản có quy mô doanh thu lớn, cao hơn nhiều so với mức bình quân chung. Chủ trang trại nông dân và chủ trang trại khác có mức tổng thu cao hơn mức trung bình chung, đạt 110 đến 139 triệu đồng.
2. Giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại.
Sản xuất hàng hoá là đặc trưng cơ bản và bản chất của kinh tế trang trại, để đánh giá trình độ phát triển kinh tế hàng hoá có thể sử dụng hai chỉ tiêu đó là quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá và tỷ suất giá trị sản phẩm hàng hoá.
Giá trị sản phẩm hàng hoá bình quân một trang trại điều tra là 91,449 triệu đồng, trong đó các trang trại ở các tỉnh có quy mô nhỏ đạt từ 18-27 triệu đồng như Quảng Ninh, Yên Bái, Nghệ An. Ngược lại các tỉnh như Đắc Lắc, Lâm Đồng, Khánh Hoà, Ninh Thuận đạt quy mô từ 132 triệu đồng trở lên. Các sản phẩm hàng hoá của trang trại điều tra, chủ yếu là nông sản và thuỷ sản. Chưa có lâm sản vì đại đa số rừng trồng đang trong thời gian chăm sóc và tu bổ. Tất cả những điều này được thể hiện rất rõ ở biểu 7.
Quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại giữa các vùng có sự chênh lệch khá lớn. Trong khi các trang trại vùng núi phía Bắc quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá còn nhỏ, phần lớn đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản thì ở vùng Duyên Hải miền Trung chủ yếu kinh doanh thuỷ sản có quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá lớn. Nhóm trang trại lâm nghiệp quy mô giá trị sản phẩm mới đạt 19,322 triệu đồng, trong đó ngành chính là lâm nghiệp chưa có sản phẩm hàng hoá, giá trị sản phẩm hàng hoá trên là kết quả của mô hình lâm nông kết hợp, lấy ngắn nuôi dài.
Biểu 7: Quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại
Đơn vị: triệu đồng
Trang trại ở các tỉnh
Giá trị hàng hoá
Trong đó
Trồng trọt
Chăn nuôi
Thuỷ sản
Bình quân chung
91,449
53,048
24,403
13,998
Trong đó:
Sơn La
40,816
36,407
3,981
0,428
Yên Bái
21,916
12,882
7,037
1,997
Quảng Ninh
18,056
7,396
4,128
6,533
Hà Nội
117,551
15,132
15,479
56,941
Thanh Hoá
90,766
45,322
6,946
38,498
Nghệ An
28,103
16,613
6,358
5,231
Gia Lai
82,892
78,321
4,540
0,030
Đắc Lắc
141,867
140,355
1,383
0,129
Lâm Đồng
132,744
114,165
18,472
0,107
Khánh Hoà
163,126
34,988
1,384
126,754
Ninh Thuận
139,766
33,298
14,481
91,988
Bình Dương
57,187
41,335
11,793
4,059
Đồng Nai
189,192
20,816
168,128
0,248
Long An
103,177
91,403
9,478
2,296
Cà Mau
67,159
28,334
1,407
37,418
3. Thu nhập và đời sống của trang trại.
Thu nhập trang trại là phần thu nhập sau khi lấy tổng thu trừ đi phần chi phí vật chất, tiền công thuê lao động và chi phí khác.
Biểu 8: Quy mô thu nhập của các trang trại
Đơn vị: Triệu đồng
Trang trại ở các tỉnh
Tổng thu nhập
Trong đó
Trồng trọt
Chăn nuôi
Thuỷ sản
Lâm nghiệp
Bình quân chung
46,112
29,359
8,726
7,493
0,534
Trong đó:
Sơn La
29,512
26,707
2,226
0,333
0,206
Yên Bái
21,425
10,384
6,332
1,494
3,244
Quảng Ninh
13,310
7,791
2,073
3,275
0,474
Hà Nội
43,231
5,667
11,517
26,883
-0,836
Thanh Hoá
54,260
27,618
2,626
23,237
0,778
Nghệ An
18,076
9,061
5,376
2,985
0,653
Gia Lai
43,109
40,651
2,435
0,018
0,005
Đắc Lắc
79,262
78,455
0,836
0,127
-0,156
Lâm Đồng
71,303
66,416
4,797
0,097
-0,007
Khánh Hoà
93,380
25,745
0,927
66,709
0,0
Ninh Thuận
78,986
19,740
11,953
47,652
0,0
Bình Dương
18,927
13,981
4,373
0,716
-0,14
Đồng Nai
62,932
8,304
53,092
0,149
1,416
Long An
46,128
41,248
2,792
1,613
0,415
Cà Mau
45,726
22,590
0,975
22,472
-0,310
Các kết quả tính toán cho thấy thu nhập trang trại bình quân là 43,47% tổng thu. Một số tỉnh có mức thu nhập thấp như Yên Bái, Nghệ An, Quảng Ninh từ 13-20 triệu đồng, ở các tỉnh như Đắc Lắc, Ninh Thuận, Khánh Hoà có mức thu nhập rất cao từ 75-91 triệu đồng. Nhóm chủ trang trại là nông dân có mức thu nhập 48,463 triệu đồng. Nhóm trang trại có hướng kinh doanh gia cầm, chăn nuôi lợn, thuỷ sản có mức thu nhập rất cao từ 49-88 triệu đồng/năm.
Biểu 9: Mức thu nhập bình quân lao động trong độ tuổi và nhân khẩu của các trang trại điều tra
Đơn vị: 1.000.000đ
Chỉ tiêu
Trang trại ở các tỉnh
Thu nhập của 1 lao động
TN của một nhân khẩu
BQ 1 năm
BQ 1 tháng
BQ 1 năm
BQ 1 tháng
Bình quân chung
16,120
1,343
7,920
0,660
Trong đó:
Sơn La
9,772
0,814
4,611
0,384
Yên Bái
7,762
0,640
4,012
0,334
Quảng Ninh
4,452
0,371
2,874
0,239
Hà Nội
14,315
1,193
7,817
0,651
Thanh Hoá
21,113
1,759
9,974
0,831
Nghệ An
7,230
0,602
3,347
0,279
Gia Lai
15,233
1,269
7,185
0,599
Đắc Lắc
26,073
2,173
11,055
0,921
Lâm Đồng
25,285
2,107
11,211
0,934
Khánh Hoà
30,220
2,518
15,434
1,286
Ninh Thuận
22,632
1,886
11,220
0,935
Bình Dương
7,113
0,593
4,009
0,334
Đồng Nai
22,004
1,834
11,099
0,925
Long An
13,978
1,165
7,818
0,652
Cà Mau
12,737
1,061
7,672
0,639
Nếu ta tính thu nhập trang trại tính bình quân cho 1 lao động thì mức đó là 16,120 triệu đồng/năm tức 1,343 triệu đồng/tháng. ở chỉ tiêu này mức độ chênh lệch giữa các tỉnh cũng rất lớn, như ở Đắc Lắc, Lâm Đồng, Khánh Hoà các trang trại đạt từ 24 đến 29 triệu đồng/năm tức 2,033 đến 2,643 triệu đồng/tháng. Trong khi đó một số tỉnh như Quảng Ninh, Nghệ An mức này chỉ có 4,340 đến 6,971 triệu đồng/năm, tức là 0,362 đến 0,573 triệu đồng/tháng. Nếu ta tính cho nhân khẩu thì mức thu nhập là 7,513 triệu đồng/năm tức 0,626 triệu đồng/tháng.
Do mức thu nhập của các trang trại tương đối cao cho nên mức chi tiêu cho đời sống cũng lớn, bao gồm cả đời sống vật chất và tinh thần.
Mức chi tiêu về ăn uống bình quân năm 1998 của trang trại là 13,294 triệu đồng. Trong đó một số tỉnh có thu nhập cao như Đắc Lắc, Lâm Đồng, Khánh Hoà có mức chi từ 18 đến 22 triệu đồng cho việc ăn uống.
Các trang trại ở vùng núi phía Bắc, khu 4 cũ, mức chi tiêu ăn uống thấp, chỉ bằng khoảng 1/2 mức chi tiêu ở các trang trại Tây Nguyên. Không những chỉ có đời sống vật chất được nâng cao mà đời sống tinh thần của các trang trại cũng ngày càng được đầy đủ hơn. Từ tài liệu điều tra cho chúng ta thấy giá trị tài sản sinh hoạt bình quân một trang trại là 83,938 triệu đồng. Trong đó Đắc Lắc đạt bình quân 160,76 triệu đồng, Yên Bái chỉ đạt 33,62 triệu. Diện tích nhà ở cũng ngày một khang trang và kiên cố, bình quân chung mỗi trang trại có 84,38m2 nhà ở, trong đó tỷ lệ nhà mái bằng chiếm 24,4%, nhà mái ngói tường xây chiếm 63,54%. Các phương tiện phục vụ đời sống cũng ngày một nâng cao, xe gắn máy bình quân một trang trại có 0,886 cái, ti vi màu 0,778 cái, điện thoại 0,186 cái...
- Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Sự phát triển kinh tế trang trại hiện nay trong nông nghiệp nước ta đòi hỏi một lượng lao động khá lớn. Ngoài số lao động của bản thân trang trại, hàng năm các trang trại còn thuê thêm lao động thường xuyên và lao động thời vụ. Trong tổng số 3044 trang trại được điều tra đã tạo thêm việc làm cho 6079 lao động, trong đó có 2983 lao động được thuê thường xuyên và 3096 lao động làm thuê theo thời vụ quy đổi. Theo tài liệu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tính chung cho cả nước, kinh tế trang trại đã tạo ra việc làm cho hơn 60 vạn lao động với mức tiền công thoả đáng. Bình quân mức tiền công hàng tháng đạt 434,29 ngàn đồng, trong đó Đắc Lắc và Bình Dương có mức tiền công từ 521 đến 527 ngàn đồng, thấp nhất như các trang trại ở phía Bắc cũng đạt 272 đến 296 ngàn đồng/tháng. Nhóm trang trại chăn nuôi lợn đạt mức tiền công 538 ngàn đồng. Tiền công thuê lao động thời vụ được chủ trang trại trả 18 ngàn đồng/ngày công.
Từ kết quả phân tích thực trạng phát triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp nước ta như đã nêu ở trên, em nhận thấy rằng, trong thời gian qua kinh tế trang trại trong nông nghiệp đã đạt được những thành công bước đầu khả quan, mở ra một hướng phát triển mới cho nền nông nghiệp nước nhà. Thực tế cho thấy phát triển kinh tế trang trại là một hướng đi đúng đắn và phù hợp với quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước. Kinh tế trang trại đã tỏ ra được ưu thế và tương lai phát triển của mình so với các hình thức sản xuất khác. Kinh tế trang trại tỏ ra vượt trội về khả năng sản xuất hàng hoá, khả năng tận dụng những ưu thế của vùng và cả khả năng cho thu nhập cao.
Tuy nhiên, từ thực tế phân tích thực trạng như trên cũng mở ra cho chúng ta nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong thời gian tới.
Cụ thể chúng ta có thể rút ra một số nhận xét và đánh giá về sự phát triển của kinh tế trang trại trong nông nghiệp thời gian v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 66497.DOC