Qua phân tích tình hình chi phí sản xuất trên của các nhóm hộ thì nhóm hộ nào cũng có mức chi phí về lao động gia đình chiếm tỷ trọng rất lớn. Mà mục đích của các hộ sản xuất là làm thế nào để hiệu quả kinh tế cao nhất. Do vậy vấn đề phải đặt ra là ngoài việc tiết kiệm, sử dụng hợp lý, đúng kỹ thuật các yếu tố đầu vào như phân thuốc, điều quan trọng nhất là phải làm thế nào để giảm được công lao động. Để làm được điều này thì quá trình sản xuất cần phải được cơ giới hoá, tập trung ruộng đất để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tăng năng suất, xoá bỏ lối canh tác truyền thống. Như vậy sẽ càng thuận tiện cho việc mở rộng quy mô sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2489 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng sản xuất lúa của nông hộ ở xã Quảng Phước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất, sản lượng lúa nước ta qua 2 năm
Chỉ tiêu
ĐVT
2008
2009
2009/2008
±
%
Diện tích lúa
Nghìn ha
7400,2
7440,1
+39,9
0,5
Năng suất
tạ/ha
52,3
52,2
-0,1
0,2
Sản lượng
Nghìn tấn
38729,8
38895,5
165,7
0,4
(Nguồn: Niên giám thống kê cả nước 2009)
Qua số liệu thực tế, diện tích sản xuất lúa của nước ta qua 2 năm tăng lên . Từ 7400,2 nghìn ha (năm 2008), tănglên 7440,1 nghìn ha (năm 2009), tức tăng 39,9 nghìn ha so với năm 2009, tương ứng giảm 0,5%.Tuy vậy năng suất cũng không tăng lên qua 2 năm. Từ 52,3 ta/ha (năm 2008) xuống còn 52,2 tạ/ha (năm 2009), tức giảm 0,1 tạ/ha, tương ứng 0,2%. Sản lượng lúa vẫn tăng được ổn định khi diện tích tăng qua 2 năm. Sản lượng năm 2009 đạt 38895,5 nghìn tấn, tăn 165,7 tấn so với năm 2008, tương ứng tăng 0,4%.
Tình hình sản xuất lúa của tỉnh Thừa Thiên Huế
Những năm vừa qua tình hình sản xuất lúa của tỉnh TT Huế có những biến động theo chiều hướng tích cực.
Qua số liệu thu thập được ta thấy rằng tỉnh TT Huế sản xuất lúa ba vụ. Tuy nhiên chủ yếu là vụ ĐX và vụ HT, còn vụ Mùa chiếm diện tích không đáng kể, cụ thể là năm 2003 gieo trồng 625 ha, đạt năng suất 14,7 tạ/ha. Con số này năm 2004 là 692 ha, đạt năng suất 15,2 tạ/ha. Nếu xem xét cả năm thì có kết quả như sau: Diện tích sản xuất lúa năm 2003 là 51.414 ha, đạt năng suất 106,4 tạ/ha. Đến năm 2004, diện tích giảm còn 51.316 ha, tức giảm 98 ha, tương ứng giảm 0,2%. Tuy nhiên, năng suất lúa lại tăng lên 112 tạ/ha (2004), tức tăng 5,6 tạ/ha, tương ứng tăng 5,3%. Nguyên nhân là do thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các lại cây khác có hiệu quả kinh tế hơn. Mặc dù giảm diện tích trồng lúa nhưng do tăng năng suất lúa không những ổn định được sản lượng lúa mà còn tăng sản lượng năm 2004 lên 246.496,6 tấn, tăng so với năm 2003 là 11.920,9 tấn, tương ứng tăng 5,1%. Đây là một kết quả đạt được của tỉnh TT Huế
Bảng 2: diện tích, năng suất và sản lượng lúa của tỉnh TT Huế:
Chỉ tiêu
Năm 2003
Cả năm
Năm 2004
Cả năm
2004/2003
ĐX
HT
mùa
ĐX
HT
mùa
+/-
%
1. diện tích gieo trồng (ha)
26,647
24,142
625
51,684
26,323
24,301
692
51,316
- 368
-0,71
2. năng suất (tạ/ha)
49
42,7
14,7
106,4
50,5
46,3
15,2
112
+5,6
+5,26
3. sản lượng (tấn)
130,656
104,159
921
235,736
123,922
112,516
1,052
246,490
+10,754
+4,56
(nguồn: niên giám thống kê tỉnh TT Huế 2005)
1.2.3. Tình hình sản xuất lúa của Huyện Quảng Điền, tỉnh TT Huế
Huyện Quảng Điền là vùng đất trù phú, phì nhiêu, trải dài dọc theo bờ biển phá Tam Giang. Bên cạnh những thuận lợi phát triển nông nghiệp huyện cũng gặp không ít khó khăn. Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, thường bị thiên tai lũ lụt, hạn hán, ngập úng, sâu bệnh… đã làm cho năng suất lúa giảm rất đáng kể. Tuy nhiên, qua 5 năm tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tình hình KT-XH của huyện có bước phát triển và mở ra một số triển vọng mới.
Bảng 3: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa của huyện Quảng Điền
Chỉ tiêu
2003
Cả năm
2004
Cả năm
2004/2003
ĐX
HT
ĐX
HT
+/-
%
1. diện tích gieo trồng (ha)
4,096
3,820
7,916
4,010
3,694
7,704
-212
-2,68
2. Năng suất (tạ/ha)
53,6
46
99,6
56
50,4
106,4
+6,8
+6,83
3. Sản lượng (tấn)
21,955
17,562
39,517
22,456
18,618
41,047
+1,557
+3,94
(nguồn: Niên giám thống kê tỉnh TT Huế 2005)
Từ bảng số liệu thu thập được cho ta thấy rằng diện tích, năng suất và sản lượng qua các năm, các vụ ĐX và HT có sự biến động rõ rệt.
Về diện tích gieo trồng, cả hai năm thì vụ HT đều có diện tích gieo trồng giảm so với vụ ĐX. Năm 2003, diện tích vụ ĐX 4.096 ha, vụ HT giảm còn 3.820 ha. Đây là đường lối chủ trương của huyện. Bởi vì vụ HT là mùa hạn hán, nước mặn dễ xâm nhập vào; những vùng đất cao, vùng đất không thuận tiện cho việc tưới tiêu, nếu vẫn duy trì sản xuất lúa thì sẽ thiếu nước dẫn đến mất mùa. Do đó diện tích này sẽ chuyển sang trồng màu có hiệu quả kinh tế hơn và có một ít diện tích phải bỏ hoang.Tuy nhiên việc giảm diện tích này là một phần làm giảm sản lượng lúa. Do đó, huyện cần phải xem xét thật kỹ, xây dựng thuỷ lợi để phục vụ tưới tiêu, đặc biệt trong vụ HT để hạn chế việc giảm diện tích sản xuất lúa không cần thiết. Đối với cả năm thì diện tích gieo trồng lúa năm 2004 giảm so với năm 2003 là 212 ha tương ứng 2,7%. Điều này do nhiều nguyên nhân. Trước hết là do huyện chủ trương chuyển một số diện tích trồng lúa kém hiệu quả, những vùng đất cao ít bị ngập úng sang trồng màu, lạc, mía, hoa các loại có hiệu quả kinh tế hơn. Hai là do xây dựng các công trình thuỷ lợi, đắp đê, mở thêm đường xá giao thông phục vụ cho tưới, tiêu, chống úng cho vụ ĐX, cho đi lại và vận chuyển trong mùa màng thu hoạch. Ba là do xây dựng các công trình phát triển công nghiệp, xây dựng khu quy hoạch nhà ở vùng trung tâm của huyện Quảng Điền - Thị Trấn Sịa.
Đối với năng suất lúa, thì vụ HT cả hai năm đều giảm. Năm 2003, vụ ĐX đạt 53,6 tạ/ha, vụ HT giảm xuống còn 46 tạ/ha. Năm 2004, vụ ĐX đạt 56 tạ/ha, vụ HT giảm còn 50,4 tạ/ha. Điều này đúng như quy luật của tự nhiên, sản xuất lúa vụ HT thường gặp nắng hạn, khó khăn trong việc tưới nước, đặc biệt vào lúc lúa trổ gặp nhiệt độ quá cao lại thiếu nước thì sẽ có nhiều hạt xép dẫn đến năng suất không cao. Hơn nữa, vụ HT là vụ kế tiếp của vụ ĐX. Theo kinh nghiệm của bà con nông dân, trong vụ ĐX cây trồng đã hút nhiều chất dinh dưỡng làm cho đất bạc màu đi, mà trong vụ HT đất không được ngấm lâu, dinh dưỡng của đất chưa được bổ sung kịp thời, kết quả là cây trồng sinh trưởng không tốt và năng suất thấp. Xét cả năm, thì năng suất năm 2003 chỉ đạt 99,6 tạ/ha, năm 2004 đạt 106,4 tạ/ha. Như vậy năm 2004 tăng so với năm 2003 là 6,8 tạ/ha tương ứng tăng 6,8%. Và đã làm sản lượng tăng từ 39.526,6 tấn (2003) lên 41.073,8 tấn (2004). Sỡ dĩ có được thành tích này là kết quả của quá trình không ngừng phấn đấu, chiến lược táo bạo của huyện. Tức là, huyện đã tiếp tục phát triển theo hướng đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào thâm canh và chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Cây lúa tiếp tục thể hiện vai trò chủ lực. Với các biện pháp thâm canh đồng bộ và nâng cao chất lượng giống, đã đạt được năng suất bình quân hàng năm 49,2 tạ/ha/vụ (năm 2004 đạt 53,2 tạ). Đặc biệt là triễn khai tổ chức sản xuất giống lúa cấp 1 với 92,5 ha ở các HTX nông nghiệp, đã góp phần tăng năng suất lúa của huyện.
Đến đây, chúng ta hiểu rõ rằng, giảm diện tích trồng lúa không phải là một nhược điểm của huyện mà là quyết định đúng đắn, thực hiện đường lối chủ trương nâng cao năng suất để tăng sản lượng, ổn định được an ninh lương thực. Mặc dầu, giảm diện tích gieo trồng có ảnh hưởng đến sản lượng nhưng đây là con đường cơ bản mà huyện cần thực hiện, là con đường tích cực.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT LÚA CỦA NÔNG HỘ Ở XÃ QUẢNG PHƯỚC
2.1. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT LÚA Ở XÃ QUẢNG PHƯỚC
Những năm qua xã Quảng Phước đã thực hiện tốt chủ trương, xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi… nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp. trong đó, cây lúa vẫn giữ vị trí vai trò chủ lực.
Bảng 4: Diện tích, năng suất và sản lượng lúa cả năm của xã Quảng Phước qua 3 năm
Năm
Chỉ tiêu
ĐVT
2007
2008
2009
2009/2007
±
%
1.Diện tích lúa
Ha
464,03
456,03
441,85
-22,18
-0.5
2. Năng suất
Tạ/ha
98,99
97,81
97,99
-1,00
-0.1
3. Sản lượng
Tấn
4593,7
4459,9
4330
-263,7
-5,8
(Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm 2010 của xã Quảng Phước)
Từ bảng số liệu thu thập được, cho ta thấy rằng những năm qua tình hình biến động diện tích và năng suất lúa tại địa phương có chiều hướng trái ngược nhau. Điều này thể hiện cụ thể là, diện tích sản xuất lúa giảm mạnh qua các năm. Năm 2007 chỉ tiêu này là 464,03 ha, đến năm 2009 chỉ tiêu này còn 441,85 ha, tức đã giảm so với năm 2007 là 22,18 ha, tương ứng giảm 0,5%. Chính điều này đã làm cho sản lượng lúa giảm với số lượng không nhỏ. Sỡ dĩ diện tích giảm là do các nguyên nhân sau: một là, xã thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển một số diện tích trồng lúa sang trồng màu, lạc, mía có hiệu quả kinh tế hơn…và xây dựng các công trình cầu cống chiếm nhiều diện tích.
Đối với năng suất lúa thì ổn định. Nhìn chung năng suất lúa tại địa phương ổn định qua các năm. Năm 2007, chỉ tiêu này đạt 98,99 tạ/ha. Đến năm 2009 chỉ tiêu này là 97.81 tạ/ha so với năm 2007 là 1,00 tạ/ha, tương ứng 0.1%.Nhìn chung năng suất lúa la rất ổn định Có được thành tích này là nhờ xã đã không ngừng phấn đấu vươn lên. Ngoài ra xã đã đẩy mạnh chương trình kiên cố hoá kênh mươn, tăng tỷ lệ cơ giới hoá trong các khâu sản xuất và thu hoạch; trình độ thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật của nông dân ngày càng tăng lên do vậy những năm qua sản lượng nông nghiệp vẫn được ổn định trong điều kiện diện tích ngày càng thu hẹp.
Bên cạnh những thành tích đạt được, việc giảm diện tích đã làm cho sản lượng giảm mặc dù năng suất qua các năm ổn định. Sản lượng năm 2009 đạt 4330 tấn giảm so với năm 2007 là 263.7 tấn tương ứng giảm 5,8%. Từ thực tế này cho chúng ta thấy rằng. Nếu xã chủ động giảm những diện tích sản xuất lúa kém hiệu quả để thay thế những cây trồng khác có hiệu quả kinh tế hơn.
2.2. TÌNH HÌNH CHUNG CỦA NÔNG HỘ ĐIỀU TRA
2.2.1. Tình hình nhân khẩu, lao động và quy mô đất đai của các hộ điều tra năm 2010
Theo nguồn thông tin từ cán bộ phòng Chính sách - xã hội, UBND Xã, chuẩn nghèo được áp dụng tại địa phương như sau: Thu nhập bình quân đầu người dưới 100.000 đồng/người/tháng được xếp vào nhóm hộ nghèo đói; từ 100.000 đến 200.000 đồng/người/tháng là hộ trung bình; trên 200.000 đồng/người/tháng là hộ khá giàu. Từ đó chúng tôi có bảng phân loại dưới đây (điều tra chọn mẫu 30 hộ):
Bảng 5: Tình hình nhân khẩu, lao động và quy mô đất đai của các hộ điều tra
Chỉ tiêu
ĐVT
Nhóm hộ khá giàu
Nhóm hộ trung bình
Nhóm hộ nghèo đói
BQ chung
1.Tổng số hộ
hộ
2,00
17,00
11,00
-
2.Tổng nhân khẩu
Số nhân khẩu BQ/hộ
người
12,00
83,00
54,00
-
người
6,00
4,88
4,90
3,86
3.Tổng số lao động
Số lao động BQ/hộ
người
5,00
43,00
33,00
-
người
2,50
2,53
3,00
2,70
4.Tổng DTCT BQ/hộ
DTCT lúa BQ/hộ
Sào
33,00
95,5
45,50
Sào
16,50
5,62
4,14
5,80
(Nguồn: Số liệu điều tra 2010)
Qua bảng số liệu điều tra năm 2010 của 30 hộ thì có 2 hộ khá giàu, 17 hộ trung bình và 11 hộ nghèo đói. Nhìn chung, nhân khẩu, lao động cũng như DTCT của các nhóm hộ có sự chênh lệch đáng kể. Nhóm hộ nghèo đói và trung bình có số nhân khẩu bình quân/hộ thấp hơn nhóm hộ khá giàu. Nhóm hộ nghèo đói và trung bình lần lượt là 4,90 người/hộ và 4,88 người/hộ. Trong khi đó con số này ở hộ khá giàu là 6 người/hộ. Đối với số người lao động bình quân/hộ thì nhóm hộ nghèo có số lao động cao nhất là 3 người/hộ. Trong khi đó nhóm hộ khá giàu và trung bình lần lượt là 2,5 người/hộ và 2,53 người/hộ. Nguyên nhân là do nhóm hộ nghèo đói có số người ăn theo nhiều, hộ có số con nhỏ đông. Hộ giàu có lực lượng lao động đông, nhưng lực lượng tham gia vào sản xuất nông nghiệp ít, chủ yếu là hoạt động các ngành nghề dịch vụ, mang lại thu nhập cao. Ta có thể nói thiếu lao động là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến nghèo đói.
2.2.2 Tình hình trang bị tư liệu sản xuất của các nông hộ:
Bên cạnh lao động, vốn, đất đai thì tư liệu sản xuất là yếu tố không thể thiếu đối với bất kỳ ngành sản xuất vật chất nào. Tư liệu sản xuất nói lên trình độ sản xuất và quy mô sản xuất của một đơn vị, địa phương… hiện nay, tư liệu sản xuất của các nông hộ đã được HTX cung cấp, hỗ trợ như: trâu, bò cày kéo, máy bơm nước, máy tuốt lúa... Điều quan trọng là nông dân phải có đủ vốn để đầu tư phân, thuốc các loại, giống, đặc biệt là phí các khâu dịch vụ như phí thuỷ lợi, làm đất, phí tuốt lúa, phí thu hoạch. Tất cả điều này làm cho việc trang bị tư liệu sản xuất của các hộ nghèo rất thấp.
Vì vậy, cần phải trang bị thêm phương tiện vận chuyển phục vụ mùa màng thu hoạch. Đẩy nhanh tốc độ cơ giới hoá nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là khâu vận chuyển. Một khi được ứng dụng máy móc, kỹ thuật vào sản xuất một cách rộng rãi thì sẽ tạo điều kiện cho bà con làm kịp thời vụ, mở rộng quy mô sản xuất, tránh được thiệt hại do thiên tai gây ra.
2.3. KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT LÚA CỦA CÁC NÔNG HỘ Ở XÃ QUẢNG PHƯỚC NĂM 2010
2.3.1. Tình hình chi phí sản xuất lúa của các nông hộ
Trong sản xuất lúa tại địa phương, một công thuê là 80.000 đồng, công khoán thu hoạch là 100.000 đồng/sào. Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng thì nông dân chủ yếu lấy công làm lãi do đó các chi phí về công lao động chiếm một phần đáng kể trong tổng chi phí sản xuất. Để thấy được tình hình sử dụng các yếu tố đầu vào của các nông hộ chúng ta xem xét bảng sau:
Bảng 6: Cơ cấu chi phí sản xuất lúa bình quân một nông hộ ĐVT:1000đ/sào
Chỉ tiêu
Nhóm hộ nghèo
Nhóm hộ trung bình
Nhóm hộ giàu
BQ chung /hộ
GT
%
GT
%
GT
%
GT
%
Tổng chi phí ĐX
526.7
100.0
512.3
100.0
530.6
100.0
527.1
100.0
1. Chi phí trung gian (IC)
298
56.7
279
54.5
296
55.8
294
55.8
Phân bón
102.3
34.3
130.5
46.8
115.2
38.9
114.9
39.1
Giống
21.4
7.2
23.3
8.4
19.7
6.7
20.6
7.0
Thuốc các loại
53.3
17.9
26.3
9.4
46.1
15.6
44.6
15.2
Thuê thu hoạch
21.7
7.15
16.7
6.0
20.4
6.9
20.0
6.8
Các khâu dịch vụ
92.7
31.1
75.2
27.0
87.6
29.6
86.8
29.5
2. lao động gia đình
228.7
43.4
233.3
45.5
234.6
44.2
233.2
44..3
Tổng chi phí HT
540.7
100
521.3
100
526.5
100
528.6
100
1. chi phí trung gian (IC)
312
57.7
288
55.2
297
56.4
298.7
56.5
Phân bón
116.3
37.3
130.4
45.3
109.0
36.7
113.7
38.1
Giống
21.4
6.9
23.3
8.1
19.7
6.6
20.6
6.7
Thuốc các loại
53.3
17.1
29.6
10.3
47.9
16.1
46.2
15.5
Thuê thu hoạch
21.3
6.8
16.7
5.8
20.5
6.9
20.1
6.7
Các khâu dịch vụ
92.7
29.7
81.0
28.1
92.9
31.3
91.1
30.5
2.lao động gia đình
228.7
42.3
233.3
44.8
229.5
43.6
229.9
43.5
Qua phân tích tình hình chi phí sản xuất trên của các nhóm hộ thì nhóm hộ nào cũng có mức chi phí về lao động gia đình chiếm tỷ trọng rất lớn. Mà mục đích của các hộ sản xuất là làm thế nào để hiệu quả kinh tế cao nhất. Do vậy vấn đề phải đặt ra là ngoài việc tiết kiệm, sử dụng hợp lý, đúng kỹ thuật các yếu tố đầu vào như phân thuốc, điều quan trọng nhất là phải làm thế nào để giảm được công lao động. Để làm được điều này thì quá trình sản xuất cần phải được cơ giới hoá, tập trung ruộng đất để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tăng năng suất, xoá bỏ lối canh tác truyền thống. Như vậy sẽ càng thuận tiện cho việc mở rộng quy mô sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
2.3.2. Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả sản xuất lúa của các nông hộ:
Kết quả là chỉ tiêu nói lên giá trị được tạo ra của quá trình hoạt động sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định. Để đánh giá lợi ích mang lại cho quá trình hoạt động sản xuất đó là bao nhiêu thì căn cứ vào chỉ tiêu hiệu quả. Chỉ tiêu này là cơ sở cho việc lựa chọn phương án sản xuất tối ưu. Nó phản ánh được lượng kết quả hữu ích cuối cùng đạt được và phần hao phí vật chất, lao động bỏ ra trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Để hiểu rõ hơn về điều này chúng ta xem xét bảng sau.
Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả kinh tế của các hộ điều tra BQ 1sào/1vụ
Chỉ tiêu
ĐVT
Nhóm hộ khá giàu
Nhóm hộ trung bình
Nhóm hộ nghèo
Bình quân chung /hộ
ĐX
HT
BQ/
Vụ
ĐX
HT
BQ/
Vụ
ĐX
HT
BQ/
Vụ
ĐX
HT
BQ/Vụ
NS
Kg/sào
275
242
258.5
283
263
273
258
225
242
265
234
250
GO
1000đ
636
551
594
676
668
673
511
486
514
581
526
554
IC
1000đ
298
312
305
279
288
284
296
297
297
294
299
297
VA
1000đ
338
239
289
399
380
389
245
189
217
287
227
257
GO/IC
Lần
2.13
1.77
1.95
2.43
2.32
2.37
1.83
1.64
1.73
1.98
1.56
1.87
VA/IC
Lần
1.08
0.78
0.93
1.37
1.26
1.31
0.78
0.56
0.67
0.93
0.71
0.82
VA/LDGD
Lần
1.48
1.04
1.26
1.71
1.63
1.67
1.00
0.78
0.89
1.20
0.96
1.08
(nguồn số liệu điều tra 2010)
Qua bảng số liệu điều tra cho thấy giá trị các chỉ tiêu của các nhóm hộ có sự chênh lệch đáng kể. Trước hết, là chỉ tiêu năng suất. Nhóm hộ có năng suất lúa cao nhất là nhóm hộ khá giàu, đạt 264,76 Kg/sào, tiếp đến là nhóm hộ trung bình, đạt 253,75 Kg/sào, và thấp nhất là nhóm hộ nghèo đói, đạt 222,00.
Bảng 13: Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả kinh tế của các hộ điều tra năm 2010
(Bình quân 1 vụ) Kg/sào.
Chỉ tiêu
ĐVT
Nhóm hộ Khá Giàu
Nhóm hộ Trung Bình
Nhóm hộ Nghèo Đói
BQ chung/hộ
Năng suất
Kg/sào
264,76
253,75
222,00
249,67
GO
1000đ
267,62
552,63
451,17
553,51
IC
1000đ
296,18
314,59
275,76
298,44
VA
1000đ
331,44
238,04
175,36
255,06
GO/IC
lần
2,12
1,76
1,64
1,85
VA/IC
lần
1,12
0,76
0,64
0,85
VA/LĐGĐ
lần
1,44
1,07
0,73
1,11
(Nguồn: Số liệu điều tra 2010)
Nguyên nhân khách quan dẫn đến điều này là do các hộ này gặp thiên tai hạn hán mất mùa ( theo thông tin từ các nông hộ). Nguyên nhân chủ quan là do các hộ này còn thiếu thông tin, kỹ thuật, thiếu vốn. Một số bà con cho biết: Mặc dù lượng chi phí chúng tôi bỏ ra tương đương với chi phí của các hộ khá giàu và trung bình, nhưng do phải vay mượn để mua phân, thuốc… Điều này đã làm cho việc chậm trễ trong chăm sóc bón phân, phun thuốc…Kết quả là năng suất lúa của chúng tôi không cao. Một cách tổng quát hơn, năng suất lúa bình quân chung/hộ đạt 249,67 Kg/sào. Nguyên nhân là do năng suất lúa của các hộ nghèo đói thấp đã làm cho năng suất bình quân chung giảm đáng kể. Ngoài ra, theo lời kể của bà con là, vụ HT là vụ sản xuất trên đất xấu hơn vụ ĐX, do kế tiếp vụ ĐX mà các chất dinh dưỡng trong đất đã cung cấp cho cây lúa, lại phải làm đất vội nên chưa ngấm đất lâu, dinh dưỡng trong đất chưa kịp thời được bổ sung, cải tạo. Điều này làm cho năng suất vụ HT giảm mạnh so với vụ ĐX. Dẫn đến năng suất bình quân chung giảm. Mặc dù, có nhiều nguyên nhân làm cho năng suất lúa giảm đáng kể, song năng suất bình quân đạt 249,67 Kg/sào là một kết quả khả quan, kết quả của quá trình phấn đấu siên năng, cần cù của các hộ.
Chính vì sự chênh lệch năng suất của các nhóm hộ rõ rệt, kéo theo những thay đổi của GO cũng tương tự. Cụ thể là giá trị sản xuất bình quân của nhóm hộ khá giàu cao nhất, đạt 627,62 nghìn đồng/sào, kế tiếp là nhóm hộ trung bình, con số này đạt 552,63 nghìn đồng/sào, và thấp nhất là nhóm hộ nghèo đói, chỉ đạt 451,17 nghìn đồng/sào. Như vậy, GO của nhóm hộ nghèo đói thấp hơn nhóm hộ có GO cao nhất là 176,45 nghìn đồng/sào. Điều này ngoài nguyên nhân về năng suất thấp còn do nguyên nhân về giá. Tức là các hộ nghèo đói thường bán lúa khi vừa thu hoạch xong, để trả nợ, mà những lúc này giá lúa rất thấp, hơn nữa lại bị tư thương ép giá. Do đó mà các hộ này vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm. Chỉ tiêu này xem xét bình quân chung/hộ, đạt 553,51 nghìn đồng/sào. Nguyên nhân là do GO của nhóm hộ nghèo đói thấp đã làm cho GO bình quân chung giảm rất đáng kể. Đây là tồn tại, khó khăn của nông dân cũng như của địa phương. Do đó vấn đề đặt ra trước mắt là phải hổ trợ vốn cho các nhóm hộ sản xuất nghèo đói, đặc biệt là hổ trợ sau khi bị mất mùa để các nông hộ có điều kiện tái sản xuất.
Về mặt chi phí trung gian (IC) của các nhóm hộ, như đã phân tích ở bảng trước có sự biến động không đáng kể. IC của các nhóm hộ khá giàu, trung bình và nghèo đói lần lượt là 296,18 nghìn đồng/sào, 314,59 nghìn đồng/sào và 275,76 nghìn đồng/sào. IC bình quân chung/hộ là 298,44 nghìn đồng/sào.
Từ những sự thay đổi của GO và IC, VA có những sự biến động kéo theo là điều tất yếu xẩy ra. Kết quả này thể hiện sự thay đổi ở các nhóm hộ rất rõ nét. Giá trị tăng thêm của nhóm hộ khá giàu cao nhất, đạt 331,44 nghìn đồng/sào, kế tiếp là nhóm hộ trung bình, đạt 238,04 nghìn đồng/sào và nhóm hộ nghèo đói thấp nhất, chỉ đạt 175,36 nghìn đồng/sào. Như vậy, giá trị tăng thêm của nhóm hộ nghèo đói thấp hơn 156,08 nghìn đồng/sào so với nhóm hộ khá giàu là nhóm hộ có VA cao nhất. VA của các nhóm hộ có sự chênh lệch lớn, do IC không đáng kể mà chủ yếu là do giá trị sản xuất GO. Một cách tổng quát, chỉ tiêu giá trị tăng thêm bình quân chung/hộ đạt 255,06 nghìn đồng/sào,. Điều này chủ yếu là do các hộ nghèo đói có VA quá thấp so với nhóm hộ khá giàu và trung bình. Để giải quyết điều này ngoài các giải pháp trên, cần phải quan tâm làm thế nào để giảm chi phí trung gian trong khi giá lúa thấp mà giá cả vật tư ngày càng tăng cao, và đây cũng chính là nguyện vọng lớn lao của bà con.
Các chỉ tiêu kết quả chỉ cho biết giá trị còn lại là bao nhiêu sau khi trừ đi chi phí trung gian, chứ chưa nói được một đồng chi phí bỏ ra sẽ tạo được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất trong kỳ, một đồng chi phí bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu giá trị tăng thêm trong kỳ, cũng như một đồng chi phí về lao động gia đình thì sẽ tạo ra được bao nhiêu giá trị tăng thêm trong kỳ. Tuy nhiên, chúng là căn cứ để xác định các chỉ tiêu hiệu quả.
Trước hết là chỉ tiêu GO/IC. So sánh chỉ tiêu này giữa các nhóm hộ thì nhóm hộ khá giàu đạt được con số cao nhất là 2,12 lần, tức là một đồng chi phí trung gian bỏ ra thì tạo ra được 2,12 đồng giá trị sản xuất trong kỳ, kế tiếp là nhóm hộ trung bình đạt 1,76 lần, tức là một đồng chi phí bỏ ra thì tạo được 1,76 đồng giá trị sản xuất trong kỳ. Trong khi đó nhóm hộ nghèo đói đạt một đồng chi phí bỏ ra chỉ tạo được 1,64 đồng giá trị sản xuất. Như vậy, chỉ tiêu này giảm 0,64 lần so với nhóm hộ trung bình, tức giảm 0,48 giá trị sản xuất trên một đồng chi phí bỏ ra. Điều này cho thấy hiệu quả sản xuất của nhóm hộ nghèo đói thấp hơn so với nhóm hộ khá giàu. Chính vì hiệu quả sản xuất của nhóm hộ nghèo đói và trung bình thấp nên đã làm cho GO/IC bình quân chung trên hộ giảm đáng kể, tức chỉ thu được 1,85 đồng giá trị sản xuất trên một đồng chi phí bỏ ra.
Chỉ tiêu thứ hai cần xem xét đó là VA/IC. Nếu xét bình quân vụ cho từng nhóm hộ thì nhóm hộ khá giàu đạt chỉ tiêu này cao nhất là 1,12 lần, tức là một đồng chi phí trung gian bỏ ra tạo ra được 1,12 đồng giá trị tăng thêm, kế tiếp là nhóm hộ trung bình, một đồng chi phí bỏ ra thì thu được giá trị tăng thêm là 0,76 đồng, và thấp nhất là nhóm hộ nghèo đói chỉ thu được 0,64 đồng giá trị tăng thêm trên một đồng chi phí bỏ ra. Như vậy so với nhóm hộ khá giàu thì nhóm hộ nghèo đói có giá trị tăng thêm thấp hơn 0,48 đồng trên một đồng chi phí bỏ ra. Qua đó, cho ta thấy hiệu quả sản xuất của nhóm hộ khá giàu là cao nhất và của nhóm hộ nghèo đói là thấp nhất.
Bên cạnh chi phí trung gian (IC), chi phí về lao động gia đình chiếm tỷ trọng rất lớn khoảng 43,5% trong tổng chi phí sản xuất. Do đó ta có chỉ tiêu cần đánh giá là VA/lao động gia đình (LĐGĐ). Xét bình quân vụ của từng nhóm hộ thì con số này của nhóm hộ khá giàu cao nhất đạt 1,44 lần, tức là một đồng chi phí về lao động gia đình bỏ ra thì tạo ra được 1,67 đồng giá trị tăng thêm trong kỳ. Trong khi đó, con số này thấp nhất là ở nhóm hộ nghèo đói chỉ đạt giá trị tăng thêm là 0,73 đồng trên một đồng chi phí về lao động gia đình bỏ ra trong kỳ. Nguyên nhân chính là do VA của nhóm hộ khá giàu cao hơn nhóm hộ nghèo đói. Như vậy, hiệu quả sản xuất của nhóm hộ khá giàu cao hơn nhóm hộ nghèo đói.
Qua quá trình phân tích cho thấy trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng, người nông dân chủ yếu lấy công làm lãi. Chi phí trung gian mà các nhóm hộ sử dụng là tương đương nhau, song lại có kết quả và hiệu quả hoàn toàn khác nhau. Điều này đặt ra một vấn đề cần giải quyết là phải tuyên truyền thông tin, tập huấn kỹ thuật để giúp bà con biết bón phân, phun thuốc với số lượng bao nhiêu và khi nào cho hợp lý, chứ không phải làm theo kiểu ước chừng theo thói quen như hiện nay. Hai là phải tạo điều kiện cho nhóm hộ nghèo vay vốn với mức lãi suất nhẹ để đầu tư kịp thời cho mùa vụ. Làm được hai điều này thì mới có thể nâng cao năng suất của nhóm hộ nghèo đói lên kịp với hai nhóm hộ kia, cũng như để nâng cao năng suất bình quân chung trên hộ và toàn cả địa phương. Để cải thiện đời sống cho bà con đặc biệt là những hộ nghèo đói.
3.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT LÚA CỦA CÁC NÔNG HỘ
3.3.1. Ảnh hưởng của quy mô đất đai
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt. Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng, đất đai là nhân tố quan trọng không thể thay thế được, là điều kiện tiên quyết cho việc mở rộng quy mô sản xuất. Yếu tố này ảnh hưởng đến việc sản xuất lúa của các nông hộ như thế nào chúng ta xem xét bảng dưới đây.
Bảng 14: Ảnh hưởng của quy mô diện tích đất sản xuất lúa đến VA của các nông hộ
STT
Tổ
Phân tổ theo quy mô DTCT (m2)
Số hộ
(hộ)
Cơ cấu
(%)
DTCT BQ/hộ
(m2)
VA/sào
(1000đ)
VA/IC
(lần)
I
< 3500
14
46,00
1728,00
268,00
0,98
II
3500-7000
14
46,00
4556,00
258,00
0,79
III
≥ 7000
2
8,00
9250,00
182,00
0,64
Tổng
_
30
100,00
_
_
_
(Nguồn: Số liệu điều tra 2010)
Qua bảng số liệu phân tích cho thấy số hộ có diện tích < 3500 m2 ở tổ I chiếm tỷ lệ cao nhất là 46%. Giá trị tăng thêm ở tổ này đạt 268,00 nghìn đồng/sào, và VA/IC đạt 0,98 lần, tức là một đồng chi phí trung gian bỏ ra thì mỗi hộ ở tổ này tạo ra được 0,98 đồng/sào, là con số đạt cao nhất trong ba tổ. Nguyên nhân là các hộ ở tổ này nắm được kỹ thuật chăm sóc, bón phân, phun thuốc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất lúa.doc