BẢNG MỤC LỤC
GIỚI THIỆU CHUNG . 1
CHƯƠNG 1 . 3
HỆTHỐNG KIẾN THỨC VỀLƯU BIẾN HỌC . 3
1.1. Giới thiệu . 3
1.2. Một sốloại mô hình ứng xửlưu biến . 4
1.3. Một sốloại lưu biến kế. 5
1.3.1. Nhớt kếkiểu « bi rơi » . 6
1.3.2. Lưu biến kếPoiseuille . 7
1.3.3. Lưu biến kếCouette loại hình trụ đồng trục . 10
CHƯƠNG 2 . 13
HỆTHỐNG KIẾN THỨC VỀBÊ TÔNG TỰ ĐẦM LÈN . 13
2.1. Giới thiệu . 13
2.2. Ứng xửlưu biến của bê tông thường . 14
2.2.1. Cấu trúc kết bông của vữa xi măng . 14
2.2.2. Ứng xửnhớt – dẻo của vữa xi măng và bê tông. 16
2.2.3. Ứng xửxúc biến của vữa xi măng và bê tông . 16
2.2.4. Ứng xửchảy lỏng của vữa xi măng và bê tông . 17
2.2.5. Mô hình ứng xửlưu biến của vữa xi măng và bê tông . 17
2.3. Khái quát vềbê tông tự đầm lèn . 18
2.4. Ưu và nhược điểm của bê tông tự đầm lèn . 19
2.5. Yêu cầu cơbản đối với bê tông tự đầm lèn . 19
2.5.1. Yêu cầu về độlỏng của bê tông tự đầm lèn . 20
a) Độlỏng trong môi trường không có vật cản . 20
b) Độlỏng trong không gian có vật cản . 21
c) Môt sốphương pháp khác xác định độlỏng của bê tông tự
đầm lèn . 21
2.5.2. Yêu cầu vềsự ổn định của bê tông tự đầm lèn . 22
Trang ii
Ứng xửlưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn Cao Xuân Phong và Hoàng Thanh Liêm
2.6. Đặc điểm thành phần cấu tạo của bê tông tự đầm lèn . 23
2.6.1. Thểtích vữa lớn . 23
2.6.2. Sửdụng hàm lượng lớn các hạt mịn . 23
2.6.3. Sửdụng chất phụgia siêu dẻo . 23
2.6.4. Sửdụng chất phụgia tăng nhớt . 24
2.7. Ứng xửlưu biến của bê tông tự đầm lèn . 25
CHƯƠNG 3 . 26
MÔ HÌNH SỰCHẢY XÒE CỦA BÊ TÔNG
TỰ ĐẦM LÈN TRONG THÍ NGHIỆM ABRAMS . 26
3.1. Giới thiệu . 26
3.2. Mô hình sựchảy xòe của bê tông tự đầm lèn . 27
3.3. Kết quảvà bình luận . 29
KẾT LUẬN CHUNG . 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 33
40 trang |
Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 4214 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
án kính R1) quay đều với vận tốc góc Ω dưới tác dụng
của mô men M trong khi ống trụ bên ngoài (bán kính R2) cố định.
Trong quá trình chảy tầng, chất lỏng bị phân chia thành những lớp mỏng hình trụ
đồng trục trượt tương đối so với nhau. Do chất lỏng chảy đều (ống trụ bên trong quay
đều dưới tác dụng của mô men M không đổi), ứng suất tiếp τr trên mặt trụ bán kính r
(R1 ≤ r ≤ R2) được xác định như sau :
)1.23(
Hr2
M
2r π=τ
Ký hiệu ωr là vận tốc góc của phân tố chất lỏng cách trục quay một khoảng r. Do
ωr là hàm nghịch biến của r (ωr đạt giá trị cực đại Ω tại thành ống trong và bằng không
tại thành ống ngoài), vận tốc biến dạng trượt rγ& tại vị trí cách trục quay một khoảng r
vì vậy có thể được biểu diễn dưới dạng sau :
)1.24(
dr
dr rr
ω−=γ&
Dựa vào các PT. 1.23 và 1.24 ta có thể xác định được đồ thị lưu biến τ – γ& của
chất lỏng nếu như biết được quy luật phân bố của vận tốc góc ωr theo r. Tuy nhiên quy
luật phân bố này lại phụ thuộc vào ứng xử lưu biến của chất lỏng. Như vậy ta rơi vào
vòng luẩn quẩn : để xác định được ứng xử lưu biến của vật liệu cần phải biết trước ứng
xử lưu biến đó. Giải pháp để tháo gỡ vòng luẩn quẩn này là dùng khe hở giữa các hình
trụ rất nhỏ so với bán kính của chúng được biểu diễn dưới dạng điều kiện sau :
)1.25( 1
R
RR
1
12 <<−=α
Trong trường hợp khe hở rất hẹp (PT. 1.25 được thỏa mãn) ứng suất tiếp τr (PT.
1.23) và vận tốc biến dạng trượt rγ& (PT. 1.24) hầu như không thay đổi trong mẫu chất
lỏng và được xác định bằng giá trị trung bình của chúng tại giữa khe hở như sau :
)1.26( ⎟⎟⎠
⎞
⎜⎜⎝
⎛ +π=τ 2221 R
1
R
1
H4
M
)1.27( Ω−=γ 12
1
RR
R&
Trang 12
Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn Cao Xuân Phong và Hoàng Thanh Liêm
PT. 1.26 và 1.27 cho phép xác định đồ thị lưu biến và do đó quy luật ứng xử lưu
biến của chất lỏng nghiên cứu bằng cách thay đổi mô men M tác dụng lên hình trụ và
đo vận tốc góc Ω tương ứng hoặc ngược lại. Kết quả càng chính xác nếu như khe hở
càng hẹp (α càng nhỏ so với 1). Trong thực tế, người ta coi khe hở là hẹp khi
α ≤ 0.1 hay R2/R1 ≤ 1.1.
Khi sử dụng lưu biến kế Couette kiểu hình trụ đồng trục để xác định ứng xử lưu
biến của các dung dịch huyền phù, ngoài yêu cầu về khe hở hẹp (α ≤ 0.1) còn phải
đảm bảo yêu cầu : chiều rộng khe hở ít nhất phải bằng 10 lần đường kính của các hạt
rắn để có thể coi vật liệu là đồng nhất [12]. Đối với bê tông tự đầm lèn chúng tôi sẽ
giới thiệu trong chương sau, kích thước lớn nhất của các hạt cốt liệu khoảng 2 cm, lưu
biến kế đáp ứng những yêu cầu trên về khe hở phải có kích thước rất lớn, tối thiểu
R1 = 200 cm, R2 = 220 cm. Những lưu biến kế này không được sản xuất hoàng loạt và
có giá thành rất đắt mà không phải trung tâm thí nghiệm nào cũng có thể trang bị
được. Theo hiểu biết của chúng tôi, ở Pháp hiện nay mới chỉ có hai trung tâm thí
nghiệm được trang bị lưu biến kế có thể sử dụng được cho bê tông và những lưu biến
kế này được chính trung tâm thí nghiệm đó mà không phải do nhà máy chuyên sản
xuất lưu biến kế chế tạo.
Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn Cao Xuân Phong và Hoàng Thanh Liêm
CHƯƠNG 2
HỆ THỐNG KIẾN THỨC
VỀ BÊ TÔNG TỰ ĐẦM LÈN
2.1. Giới thiệu
Bê tông là vật liệu đá nhân tạo được sử dụng rất phổ biến trong ngành xây dựng.
Đó là hỗn hợp của các hạt cốt liệu rời như cát, sỏi, đá, … và chất kết dính : xi măng
trộn nước. Ngoài ra người ta còn có thể thêm vào bê tông một số chất phụ gia nhằm
cải thiện một vài tính chất của bê tông … Tùy theo những yêu cầu đối với bê tông
trong quá trình thi công và sử dụng mà người ta lựa chọn hàm lượng các thành phần
vật liệu một cách thích hợp. Nhìn chung, những thành phần vật liệu này được lựa chọn
dựa trên yêu cầu về cường độ của bê tông – một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất
của vật liệu. Tuy nhiên, một chỉ tiêu khác không kém phần quan trọng, có ý nghĩa
quyết định đến khả năng thi công của bê tông và có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng
công trình và cần phải được đảm bảo trong mọi trường hợp, đó là độ lỏng (fluidity)
hay tính dễ thi công (workability) của bê tông. Cường độ và độ lỏng của bê tông là hai
chỉ tiêu biến thiên theo chiều trái ngược nhau : bê tông có cường độ cao (tỉ lệ « nước /
xi măng » nhỏ) thì có độ lỏng thấp và ngược lại. Tuy nhiên, từ những năm cuối thể kỷ
trước, người ta đã chế tạo ra một loại bê tông mới có cường độ cao đồng thời có độ
lỏng rất lớn nhờ việc sử dụng chất phụ gia siêu dẻo cho phép làm tăng độ lỏng của bê
tông. Loại bê tông này thi công không cần đầm rung như bê tông thường nên được gọi
là bê tông tự đầm lèn (self – compacting concrete). Rất nhiều những công trình nghiên
cứu về những khía cạnh, chỉ tiêu khác nhau của bê tông tự đầm lèn đã và đang được
thực hiện ở nhiều nước trên thế giới mặc dù nó đã được ứng dụng rộng rãi trong xây
dựng. Ở nước ta, số lượng những nghiên cứu về bê tông tự đầm lèn – đặc biệt khi bê
tông ở trạng thái lỏng – còn rất ít. Chính điều này đã gợi ý cho chúng tôi chủ đề của
bài nghiên cứu này, tức là nghiên cứu ứng xử lưu biến của bê tông tự đầm lèn.
Bê tông tự đầm lèn cũng bao gồm những thành phần vật liệu chính như bê tông
thường, chỉ khác ở hàm lượng các thành phần vật liệu trong hỗn hợp và ở việc sử dụng
thêm một số chất phụ gia như phụ gia siêu dẻo, phụ gia tăng nhớt. Vì vậy, để cho bài
viết được mạch lạc và rõ ràng, chúng tôi sẽ trình bày ứng xử lưu biến của bê tông
Trang 14
Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn Cao Xuân Phong và Hoàng Thanh Liêm
thường trước khi trình bày về những đặc điểm, tính chất và ứng xử lưu biến của bê
tông tự đầm lèn.
2.2. Ứng xử lưu biến của bê tông thường
2.2.1. Cấu trúc kết bông của vữa xi măng
Xi măng được chế tạo bằng cách tán nghiền các hạt vật liệu « Clinker » dưới tác
dụng của những va chạm rất mạnh nhằm phân chia những hạt vật liệu này thành những
phần tử có kích thước rất nhỏ dao động trong khoảng 1 – 100 μm. Sự tán nghiền này
kèm theo sự cắt đứt các liên kết tĩnh điện của vật liệu, dẫn đến hiện tượng tồn tại đồng
thời những nơi tích điện dương và những nơi tích điện âm trên bề mặt hạt xi măng.
Nhìn chung, các hạt xi măng thường tích điện âm nhiều hơn (khoảng 3 lần) so với tích
điện dương, các điện tích âm thường tập trung ở những chỗ bằng phẳng và ngược lại,
các điện tích dương thường tập trung ở những nơi góc cạnh của hạt xi măng. Hiện
tượng này một mặt là do các hạt tích điện dương bị trung hòa một phần bởi các
electron tự do trong môi trường, mặt khác là do các hạt điện tích âm thường có kích
thước lớn hơn các hạt điện tích dương [13].
Xi măng Portland được cấu tạo chủ yếu từ 4 thành phần tinh thể : 3CaO.SiO2 (ký
hiệu C3S), 2CaO.SiO2 (ký hiệu C2S), 3CaO.Al2O3 (ký hiệu C3A) và 4CaO.Al2O3.Fe2O3
(ký hiệu C4AF), ngoài ra còn một số thành phần khác chiếm tỉ lệ nhỏ như CaO,
CaCO3, MgO, K2SO4… Khi xi măng được trộn với nước, các thành phần này ngay lập
tức bị điện ly, dung dịch nhanh chóng đạt tới trạng thái bão hòa bởi các điện tích Ca2+,
Na+, K+, SO42-, OH-, H9O4+, H7O4-…Chính vì vậy, trong vữa xi măng và bê tông, ngoài
những tương tác không mang điện luôn luôn tồn tại giữa các nguyên tử và phân tử (lực
hút Van der Waals, lực đẩy Born) còn có tương tác tĩnh điện giữa các điện tích và các
hạt xi măng mà chúng tôi sẽ trình bày dưới đây.
Tương tác tĩnh điện trong dung dịch chứa các ion và các hạt rắn tích điện được mô
tả đầu tiên bởi Gouy-Chapmann [14]. Theo tác giả, các ion trong dung dịch, dưới tác
dụng của lực hút tĩnh điện, đến bám vào bề mặt các hạt rắn tạo thành một lớp điện tích
có chiều dày 500 Å được gọi là lớp khuyếch tán Gouy-Chapmann. Mật độ điện tích
trong lớp khuyếch tán thay đổi theo hàm số mũ với khoảng cách từ điểm đang xét đến
bề mặt hạt rắn để tiến tới mật độ điện tích trung bình trong dung dịch. Đối với hạt xi
măng phần lớn tích điện âm, lớp khuyếch tán vì vậy chủ yếu tích điện dương.
Trang 15
Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn Cao Xuân Phong và Hoàng Thanh Liêm
Một lý thuyết khác mới hơn được vận
dụng trong nhiều nghiên cứu về sau là lý
thuyết của Stern. Theo tác giả, các ion
trong dung dịch đến bám vào bề mặt hạt
rắn tạo thành hai lớp điện tích. Lớp bên
trong được gọi là lớp Stern bao gồm các
điện tích mang dấu ngược với dấu điện
tích của hạt rắn. Lớp điện tích này có
chiều dày nhỏ, liên kết rất chặt chẽ và
cùng di chuyển với các hạt rắn khi chúng
chuyển động trong dung dịch. Ngoài lớp
Stern là lớp khuyếch tán chủ yếu chứa các
ion mang điện tích cùng dấu với điện tích
trên bề mặt hạt rắn. Chiều dày lớp
khuyếch tán dao động trong khoảng 10 –
1000 Å, càng nhỏ khi mật độ điện tích
càng lớn. Đối với hạt xi măng phần lớn
tích điện âm, cấu trúc các lớp điện tích
bao quanh hạt xi măng được mô tả như trên H. 2.1 trong đó lớp Stern chủ yếu tích điện
dương và lớp khuyếch tán dày khoảng 10 Å [15] chủ yếu tích điện âm.
Mặc dù lý thuyết Gouy-Chapmann và
Stern đưa ra những cấu trúc điện tích khác
nhau bao quanh các hạt rắn tích điện, cả
hai lý thuyết đều chỉ ra rằng các lớp
khuyếch tán bao quanh các hạt rắn đẩy
nhau do tích điện cùng dấu với nhau.
Trong trường hợp hạt xi măng tồn tại
đồng thời những nơi tích điện âm (những
nơi bằng phẳng) và những nơi tích điện
dương (những nơi góc cạnh), lớp khuyếch
tán vì vậy cũng tồn tại đồng thời những
vùng tích điện trái dấu nhau và do đó
trong vữa xi măng cũng tồn tại đồng thời
lực hút và lực đẩy tĩnh điện giữa các lớp
khuyếch tán bao quanh các hạt xi măng.
Rất nhiều nghiên cứu [14, 16]đã chỉ ra rằng tổng hợp những tương tác này tạo nên cấu
trúc kết bông của vữa xi măng trong đó các hạt xi măng hút nhau tạo thành những
H. 2.1. Mô tả sự phân bố điện tích bao
quanh hạt xi măng theo lý thuyết Stern.
H. 2.2. Mô tả cấu trúc kết bông
của vữa xi măng.
Trang 16
Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn Cao Xuân Phong và Hoàng Thanh Liêm
chùm hạt riêng rẽ hoặc được ghép nối với nhau như mô tả như trên H. 2.2. Theo
Legrand [14], do các hạt xi măng tích điện âm ở những nơi bằng phẳng và tích điện
dương ở những nơi góc cạnh, liên kết giữa các hạt xi măng vì vậy có dạng liên kết
điểm, có thể liên kết thông qua các lớp khuyếch tán hoặc liên kết trực tiếp. Những liên
kết này ổn định và bền vững do còn được tăng cường bởi lực hút Van der Waals. Lân
cận những điểm liên kết này, lực đẩy tĩnh điện giữa các lớp khuyếch tán có xu hướng
mở các góc liên kết giữa các hạt xi măng nếu như các môi trường xung quanh không
ngăn chặn. Điều này tạo ra sự ổn định cho cấu trúc kết bông của xi măng.
2.2.2. Ứng xử nhớt – dẻo của vữa xi măng và bê tông
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, vữa xi măng có cấu trúc kết bông do sự hút
nhau của các hạt xi măng. Để vữa xi măng có thể chảy được, cần phải tác động lên
chúng một ứng suất τ đủ lớn nhằm phá vỡ liên kết giữa các hạt xi măng. Điều này làm
cho vữa xi măng và bê tông có ứng xử nhớt – dẻo, tức là tồn tại ngưỡng chảy τ0 mà
ứng suất τ tác dụng lên vật liệu cần phải vượt qua để vật liệu bắt đầu chảy được.
Theo Legrand [17], ngưỡng chảy τ0 của vữa xi măng và bê tông tăng theo hàm số
mũ với nồng độ xi măng. Xi măng có độ mịn càng lớn, ngưỡng chảy τ0 càng cao. Điều
này có thể được giải thích như sau : sự tăng nồng độ hoặc độ mịn của xi măng tương
ứng với sự tăng số hạt xi măng trong cùng một thể tích, làm tăng số lượng liên kết
giữa các hạt xi măng và do đó làm tăng ngưỡng chảy của vữa xi măng và bê tông.
Khi vữa xi măng và bê tông chịu các chấn động rung trong quá trình đầm lèn, các
hạt xi măng dao động xung quanh vị trí ban đầu của chúng một cách lộn xộn dẫn đến
liên kết giữa các hạt xi măng bị phá vỡ. Điều này làm giảm thậm chí làm triệt tiêu
ngưỡng chảy của vữa xi măng và bê tông [17].
2.2.3. Ứng xử xúc biến của vữa xi măng và bê tông
Khi vữa xi măng và bê tông chịu tác động của ứng suất τ vượt quá ngưỡng chảy τ0,
cấu trúc kết bông của xi măng ngay lập tức bị phá vỡ tuy nhiên không hoàn toàn thành
những hạt riêng rẽ mà thành những chùm hạt nhỏ hơn. Trong quá trình chuyển động,
các chùm hạt tiếp tục bị phân tách do ma sát, do chấn động va chạm hoặc do tương tác
tĩnh điện với các hạt hoặc các chùm hạt lân cận. Đồng thời, những chùm hạt mới cũng
được hình thành từ những hạt xi măng riêng rẽ với các chùm hạt xung quanh. Tuy
nhiên, quá trình phân tách các chùm hạt xảy ra mạnh hơn so với quá trình hình thành
và do đó số lượng cũng như kích thước của các chùm hạt giảm dần theo thời gian.
Điều này được thể hiện bởi sự giảm độ nhớt μ của vật liệu theo thời gian trong khi ứng
Trang 17
Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn Cao Xuân Phong và Hoàng Thanh Liêm
suất τ hoặc vận tốc biến dạng trượt γ& không đổi [17]. Trong lưu biến học, người ta gọi
hiện tượng này là hiện tượng xúc biến (thixotropy) và đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu thực nghiệm cũng như lý thuyết về hiện tượng này của vữa xi măng và bê
tông.
2.2.4. Ứng xử chảy lỏng của vữa xi măng và bê tông
Cấu trúc kết bông không chỉ là nguồn gốc của ứng xử nhớt dẻo, ứng xử xúc biến
mà còn là nguồn gốc của ứng xử chảy lỏng của vữa xi măng và bê tông. Điều này
được thể hiện bởi sự giảm độ nhớt μ của vật liệu khi ứng suất τ hoặc vận tốc biến dạng
trượt γ& tăng lên. Hiện tượng này có thể được giải thích từ sự phân tách các chùm hạt
ngày càng nhỏ dần với sự tăng của ứng suất τ hoặc vận tốc biến dạng trượt γ& : ứng
suất tiếp τ hoặc vận tốc biến dạng trượt γ& càng lớn, số lượng và kích thước các chùm
hạt càng nhỏ và do đó độ nhớt μ của vữa xi măng và bê tông càng nhỏ [17, 18].
2.2.5. Mô hình ứng xử lưu biến của vữa xi măng và bê tông
Như chúng tôi đã giới thiệu ở trên, vữa xi măng và bê tông là những vật liệu nhớt
– dẻo tồn tại ngưỡng chảy τ0 và chúng có thể có ứng xử lưu biến phi tuyến kiểu chảy
lỏng hoặc kiểu chảy đặc tùy thuộc vào thành phần hỗn hợp bê tông. Trong số nhiều mô
hình lưu biến xét đến sự tồn tại ngưỡng chảy của vật liệu, mô hình lưu biến Herschel –
Bulkley (PT. 1.4) đặc trưng bởi ba thông số τ0, K, n đã được đánh giá là mô hình lưu
biến thích hợp nhất trong việc mô tả ứng xử lưu biến của vữa xi măng và bê tông do
mô hình này cho phép xét đến ứng xử phi tuyến của vật liệu một cách thích hợp [8,
10]. Những mô hình lưu biến khác như mô hình De Kee [8] hoặc mô hình Atzeni [10]
cũng đã được thừa nhận là thích hợp trong việc mô tả ứng xử lưu biến của vữa xi măng
và bê tông tuy nhiên chúng tương đối phức tạp và do đó rất ít đươc sử dụng so với mô
hình Herschel – Bulkley [8 – 11].
Một mô hình lưu biến khác cũng rất hay được sử dụng để mô tả ứng xử lưu biến
của vữa xi măng và bê tông là mô hình lưu biến Bingham (PT. 1.3). Mô hình này đặc
trưng bởi hai thông số thực chất là trường hợp đặc biệt của mô hình lưu biến Herschel
– Bulkley (khi n = 1). Mô hình Bingham không cho phép mô tả ứng xử lưu biến phi
tuyến của vật liệu, tuy nhiên, nhờ sự đơn giản, nó đã được sử dụng trong rất nhiều
công trình nghiên cứu về ứng xử lưu biến của vữa xi măng và bê tông [3 – 6].
Trang 18
Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn Cao Xuân Phong và Hoàng Thanh Liêm
2.3. Khái quát về bê tông tự đầm lèn
Bê tông tự đầm lèn là loại bê tông rất lỏng, đồng nhất và ổn định (không phân
tách), thi công không cần bất cứ tác động cơ học nào (sự đầm lèn và lấp đầy ván khuôn
của bê tông được thực hiện dưới tác dụng duy nhất của trọng lực) và có chất lượng tối
thiểu tương đương với chất lượng của bê tông thường được đầm lèn bởi tác động cơ
học.
Bê tông tự đầm lèn được phát minh bởi các nhà khoa học vật liệu xây dựng Nhật
Bản vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng bê
tông sử dụng trong những công trình quy mô lớn với cốt thép dày đặc. Nhờ những ưu
điểm nổi bật của chúng so với bê tông thường, bê tông tự đầm lèn ngày càng được ứng
dụng rộng rãi trong ngành xây dựng, không chỉ ở Nhật Bản mà còn ở các nước châu
Âu, Mỹ, Canada… đặc biệt từ những năm cuối thế kỷ trước đầu thế kỷ này. Dưới đây
chúng tôi xin đưa ra một vài ví dụ những công trình xây dựng sử dụng bê tông tự đầm
lèn.
a) b)
H. 2.3. Một số công trình sử dụng bê tông tự đầm lèn :
(a) cầu treo Akashi – Kaikyo (Nhật Bản), (b) hầm Sodra Lanken (Thụy Điển).
Công trình cầu treo Akashi – Kaikyo tại Nhật Bản (H. 2.3.a) có nhịp dài nhất thế
giới (1991 m) được thi công từ năm 1998. Cầu có hai trụ tháp cao 298m được xây
dựng bằng bê tông tự đầm lèn, nhờ đó mà thời gian thi công hai trụ tháp này đã được
rút ngắn lại 20%, từ 2.5 năm xuống còn 2 năm.
Công trình hầm Sodra Lanken lớn nhất Thụy Điển (H. 2.3.b) có chiều dài 16.6 km,
thi công trong khoảng thời gian 1998 – 2004 với tổng số vốn đầu tư 800 triệu USD.
Công trình này sử dụng 15000 m³ bê tông tự đầm lèn để thi công những vị trí chật hẹp
và những nơi có cốt thép bố trí dày đặc mà thiết bị đầm lèn không thể hoạt động được.
Trang 19
Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn Cao Xuân Phong và Hoàng Thanh Liêm
2.4. Ưu và nhược điểm của bê tông tự đầm lèn
Như chúng tôi đã giới thiệu ở trên, bê tông tự đầm lèn có khả năng tự chảy và lấp
đầy ván khuôn chỉ dưới tác dụng duy nhất của trọng lực mà không cần bất cứ tác động
cơ học nào. Điều này làm cho bê tông tự đầm lèn có những ưu điểm nổi bật so với bê
tông thường mà chúng tôi trình bày dưới đây :
+ Rút ngắn thời gian thi công do loại bỏ được công đoạn đầm rung và công đoạn
vận chuyển bê tông nhờ việc bơm bê tông từ khoảng cách xa (có thể đạt tới 1
km).
+ Cải thiện điều kiện làm việc của công nhân khỏi ảnh hưởng của tiếng ồn và sự
rung động gây ra trong quá trình đầm rung.
+ Cho phép thi công ở những vị trí chật hẹp hoặc những nơi cốt thép bố trí dày
đặc mà thiết bị đầm rung không thể hoạt động được.
+ Nâng cao chất lượng của công trình (bê tông có cường độ cao, khả năng chịu
nhiệt và dính bám với cốt thép tốt, bề mặt công trình nhẵn mịn, khả năng
chống gỉ và chống thấm tốt…).
+ Giảm bớt chi phí xây dựng công trình (khoảng 7.5% [19]) nhờ việc giảm bớt
số lượng công nhân thi công mặc dù giá thành bê tông tự đầm lèn cao hơn giá
thành bê tông thường.
Bên cạnh những ưu điểm, bê tông tự đầm lèn cũng có một số nhược điểm mà
chúng tôi giới thiệu dưới đây :
+ Chất lượng bê tông tự đầm lèn rất nhạy cảm với sự thay đổi hàm lượng các vật
liệu, quá trình nhào trộn bê tông vì vậy đòi hỏi những công nhân có kỹ thuật
cao.
+ Bê tông tự đầm lèn có độ lỏng lớn và chứa hàm lượng lớn các hạt mịn, cần
phải kiểm tra ván khuôn để tránh hiện tượng bị mất vữa do rò rỉ.
2.5. Yêu cầu cơ bản đối với bê tông tự đầm lèn
Bê tông tự đầm lèn khác với bê tông thường chủ yếu ở các tính chất ở trọng thái
lỏng. Bê tông tự đầm lèn phải có độ lỏng hay tính lưu động cao nhằm đảm bảo khả
năng tự đầm lèn và lấp đầy ván khuôn. Đồng thời, bê tông tự đầm lèn cũng phải ổn
định hay có sức kháng phân tách cao nhằm đảm bảo sự đồng nhất của vật liệu. Dưới
đây chúng tôi trình bày một số chỉ tiêu và phương pháp đánh giá độ lỏng và sự ổn định
của bê tông tự đầm lèn.
Trang 20
Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn Cao Xuân Phong và Hoàng Thanh Liêm
2.5.1. Yêu cầu về độ lỏng của bê tông tự đầm lèn
a) Độ lỏng trong môi trường không có vật cản
Độ lỏng của của bê tông tự đầm lèn trong môi trường không có vật cản được xác
định bởi thí nghiệm nón cụt Abrams (kích thước mô tả trên H. 2.4.a). Thí nghiệm
Abrams là thí nghiệm tiêu chuẩn được dùng rộng rãi trên toàn thế giới dùng để xác
định một cách nhanh chóng độ lỏng của bê tông dựa trên việc đo độ sụt của chúng
(chiều cao sụt của bê tông sau khi nhấc nón cụt Abrams, H. 2.4.b) dưới tác dụng của
trọng lượng bản thân. Độ sụt càng lớn thì bê tông càng lỏng và ngược lại.
Đối với bê tông tự đầm lèn, việc đo độ sụt không còn có ý nghĩa do bê tông bị sụt
hoàn toàn. Trong trường hợp này, độ lỏng của bê tông tự đầm lèn được xác định thông
qua đường kính chảy xòe (H. 2.4.c). Đường kính chảy xòe càng lớn thì độ lỏng của bê
tông càng cao và ngược lại. Đối với bê tông tự đầm lèn, đường kính chảy xòe thường
dao động trong khoảng 60 ÷ 70 cm, không có sự phân tách rõ rệt (nhìn thấy được) giữa
các lớp vật liệu.
H. 2.4. Xác định độ lỏng của bê tông bằng thí nghiệm Abrams :
(a) nón cụt Abrams (kích thước ghi theo cm), (b) đo độ sụt đối với bê tông thường,
(c) đo đường kính chảy xòe đối với bê tông tự đầm lèn.
Cho đến hiện nay, rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng như lý thuyết về mối
quan hệ giữa độ sụt H hoặc đường kính chảy xòe D với ngưỡng chảy τ0 của bê tông đã
được thực hiện [4, 20 – 22]. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ giới
thiệu mối quan hệ tương đối đơn giản giữa ngưỡng chảy τ0 và đường kính chảy xòe D
của bê tông được rút ra từ nghiên cứu lý thuyết của Coussot [22] và có thể được biểu
diễn dưới dạng sau :
)2.1( 52
2
0 D4
gV255
π
ρ=τ
trong đó ρg và V lần lượt là trọng lượng riêng và thể tích của mẫu bê tông.
Trang 21
Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn Cao Xuân Phong và Hoàng Thanh Liêm
b) Độ lỏng trong không gian có vật cản
Độ lỏng của bê tông trong môi
trường có vật cản được xác định bởi
thí nghiệm hộp chữ L (L – Box). Thí
nghiệm này cho phép đánh giá khả
năng tự chảy của bê tông dưới tác
dụng của trọng lượng bản thân qua
lưới cốt thép và có thể được mô tả
như sau (xem H. 2.5) : bê tông được
đổ vào trong phần đứng – sau khi
nhấc tấm chắn – sẽ chảy qua lưới cốt
thép sang phần nằm ngang của hộp
chữ L. Bê tông càng lỏng chiều cao
h của bê tông trong phần nằm ngang
càng lớn. Để đảm bảo khả năng tự
chảy của bê tông qua lưới cốt thép,
chiều cao của bê tông trong phần
nằm ngang phải thỏa mãn điều kiện
h ≥ 12 cm hay h/H ≥ 0.8 (H = 15 cm
là chiều cao phần nằm ngang của hộp chữ L).
c) Môt số phương pháp khác xác định độ lỏng của bê tông tự đầm lèn
Thí nghiệm nón cụt Abrams và thí nghiệm hộp chữ L được ứng dụng rất phổ biến
trong trong việc kiểm tra đánh giá độ lỏng của bê tông tự đầm lèn. Ngoài ra, người ta
còn có thể đánh giá độ lỏng của bê tông tự đầm lèn bằng các thí nghiệm khác như đo
thời gian chảy của bê tông trong phễu chữ V (H. 2.6.a), đo chiều cao dâng lên của bê
tông qua lưới cốt thép theo nguyên lý bình thông nhau trong hộp chữ U (H. 2.6.b). Bê
tông tự đầm lèn phải có thời gian chảy trong phễu chữ V nhỏ hơn 8 s, chiều cao dâng
lên trong ống chữ U tối thiểu 300 mm.
H. 2.5. Thí nghiệm hộp chữ L
(kích thước ghi theo mm).
Trang 22
Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn Cao Xuân Phong và Hoàng Thanh Liêm
(a) (b)
H. 2.6. Một số dụng cụ thí nghiệm khác dùng trong việc xác định độ lỏng
của bê tông tự đầm lèn (kích thước ghi theo mm) :(a) phễu chữ V, (b) hộp chữ U.
2.5.2. Yêu cầu về sự ổn định của bê tông tự đầm lèn
Bê tông tự đầm lèn ngoài yêu cầu về độ lỏng lớn còn phải đảm bảo yêu cầu về độ
ổn định, không bị lắng đọng phân tầng ở trạng thái tĩnh dưới tác dụng của trọng lực và
cũng không bị phân tách trong quá trình chuyển động : cốt liệu lớn và vữa phải cùng
di chuyển với nhau trong ván khuôn và qua lưới cốt thép.
Độ ổn định của bê tông tự đầm lèn có thể được đánh giá nhanh một cách trực quan
thông qua khoảng cách giữa mép vữa và hạt cốt liệu gần nhất khi xác định đường kính
chảy xòe của bê tông trong thí nghiệm nón cụt Abrams (H. 2.4). Khoảng cách này phải
nhỏ hơn 3 cm. tuy nhiên, điều kiện này chưa đủ để xác định được bê tông có đảm bảo
độ ổn định hay không.
Để đánh giá một cách chính xác hơn độ ổn định của bê tông tự đầm lèn, thí
nghiệm sàng bê tông thường được sử dụng. Nguyên lý dựa trên việc xác định khối
lượng của vữa xi măng lọt qua sàng (kích thước lỗ sàng 5 mm) sau khi đổ bê tông từ
độ cao khoảng 50 cm xuống sàng. Bê tông được đánh giá đảm bảo điều kiện ổn định
khi tỉ lệ phần trăm khối lượng của vữa lọt qua sàng so với khối lượng bê tông nhỏ hơn
15%.
Trang 23
Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn Cao Xuân Phong và Hoàng Thanh Liêm
2.6. Đặc điểm thành phần cấu tạo của bê tông tự đầm lèn
Bê tông tự đầm lèn phải đồng thời đảm bảo hai tính chất trái ngược nhau : độ lỏng
và sự ổn định. Để dung hòa hai tính chất này, bê tông tự đầm lèn vì vậy phải có những
đặc điểm thành phần cấu tạo riêng biệt so với bê tông thường mà chúng tôi sẽ trình bày
dưới đây.
2.6.1. Thể tích vữa lớn
Ma sát giữa các hạt cốt liệu lớn (sỏi, đá) làm giảm khả năng chảy và lấp đầy ván
khuôn của bê tông. Vì vậy bê tông tự đầm lèn phải có thể tích vữa lớn, dao động trong
khoảng 330 ÷ 400 l/m³, nhằm tách các hạt cốt liệu lớn xa nhau.
2.6.2. Sử dụng hàm lượng lớn các hạt mịn
Để đảm bảo tính dễ thi công đồng thời phải hạn chế nguy cơ phân tách (lắng đọng
và tách nước), bê
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ứng xử lưu biến và mô hình thí nghiệm chảy xòe của bê tông tự đầm lèn.pdf