Hen suyễn làm trẻ ngạt thở bất ngờ, thường
có ở trẻ khoảng giữa 1 và 3 tuổi. Hen suyễn là một
trong số những rối loạn mà bác sĩ nhi khoa hay gặp
nhất. Khoảng 5% trẻ mắc chứng này và ngày nay có xu
hướng tăng lên.
Hen suyễn xảy ra khi cơ phế quản co cứng, là
sự biểu hiện thái độ phản ứng cực độ với các kích
thích, trong đó có xúc cảm. Chứng bệnh này là một
minh chứng cho việc cần phải quan tâm đến nhiều yếu
tố đa dạng trong nguyên nhân gây bệnh và việc chăm
chữa cần phối hợp giữa tâm lí trị liệu và nhi khoa.
Mô tảCơn ngạt thở thường là về đêm, trẻ thức dậy
do cảm thấy khó thở. Để chống lại ngạt thở, trẻ phải cố
gắng nhiều. Lo hãi lớn do ngạt thở, trẻ không thể giao
tiếp với xung quanh, mọi cố gắng của trẻ tập trung vào
việc thở.
Với trẻ hen suyễn, thường thời điểm lúc
chuẩn bị đi ngủ làm trẻ kinh sợ.
Bệnh hen nặng gây ra những hậu quả nặng
nề đối với cuộc sống của trẻ và của cả gia đình.
Các cơn hen xuất hiện bất ngờ trong những
năm đầu tiên, thường mất đi khoảng giữa tuổi thơ và
mất hẳn ở tuổi thiếu niên.
307 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 1064 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Tâm bệnh học trẻ em lứa tuổi mầm non, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hín muồi về thể chất và tình cảm lại tương đương với
những trẻ cùng tuổi. Trong gia đình, cũng có sự chênh
lệch giữa mức độ trưởng thành của trẻ với mức độ đòi
hỏi và bắt buộc mà cha mẹ buộc trẻ phải tuân theo.
+ Chênh lệch trong bản thân trẻ: Cũng giống
như ở trẻ chậm tiến, nghiên cứu những khả năng khác
nhau của trẻ tài năng thấy có sự không thuần nhất về
mức độ phát triển. Trẻ có thể tài năng về mặt trí tuệ
nhưng không như thế ở những mặt khác. Nếu như nó
có thể học đọc ở 4 - 5 tuổi thì học viết lại khó khăn do
vận động vụng về. Cũng có sự chênh lệch giữa mức
lời và mức làm trong các bài tập đánh giá về trí tuệ. Kết
quả tốt hay nghiêng về phần không dùng ngôn ngữ.
Cuối cùng là chênh lệch giữa mức phát triển trí tuệ và
tâm lí tình cảm: trí tuệ thường phát triển trước, tâm lí
tình cảm phát triển giống với những trẻ cùng tuổi.
+ Những biểu hiện tâm bệnh lí: Sự chênh
lệch bên trong trẻ và về mặt xã hội có thể là nguồn gốc
của những đau khổ nhưng không thể coi là bất
thường. Tuy vậy, chênh lệch này có thể thúc đẩy sự
xuất hiện của những hành vi có tính bệnh lí. Những
triệu chứng thường gặp nhất là không ổn định tâm vận
động và học kém một cách nghịch lí. Học kém là nguy
cơ mà tất cả các nghiên cứu đều đề cập đến, hoặc là
do trẻ thiếu hứng thú, không muốn tham gia vào các
hoạt động ở trường, nhất là khi nó học ở lớp đúng độ
tuổi; hoặc là do cơ chế bệnh: có ức chế về trí tuệ, thái
độ thất bại. Những biểu hiện tâm bệnh này có thể
được hợp với một lo hãi: trẻ tài năng dễ lo âu, lo hãi về
cái chết, về ông Trời. Lo hãi có tính nhiễu tâm có thể
dẫn đến hình thành một tổ chức bệnh lí thực sự. Cũng
hay thấy xuất hiện ở trẻ những hành vi ám ảnh.
- Những việc cần làm đối nới trẻ tài năng
Trừ những trẻ có hành vi tâm bệnh cần phải
có biện pháp chữa trị thích hợp thì vấn đề cơ bản là tạo
cho trẻ những điều kiện giáo dục phù hợp. Ở một số
nước, các biện pháp được dùng có thể như sau:
+ Tạo ra những lớp chuyên biệt dành riêng
cho trẻ tài năng (Mỹ, Israel).
+ Để trẻ tài năng trong lớp cùng độ tuổi
nhưng có những chương trình dạy bổ sung thích hợp
tại lớp hoặc đưa sang chỗ khác (Israel, Anh).
+ Không có biện pháp đặc biệt nào nhưng
cho trẻ nhảy lớp (Pháp).
Mỗi cách đều có mặt ưu điểm và hạn chế
riêng. Một cách chung nhất là có phương pháp thích
hợp để thúc đẩy khả năng của trẻ, làm phong phú hơn
các nội dung giảng dạy cho trẻ.
1.4. Rối loạn biếu hiện hành vi
Phần này đề cập đến những hành vi khác
nhau nhưng có điểm chung là chúng là những hành vi
triệu chứng không trực tiếp thuộc về một tổ chức bệnh
lí riêng nào nhưng lại có liên quan đến quá trình thành
thúc của trẻ.
Một số hành vi loại này có thể không có ý
nghĩa bệnh lí nếu như nó xuất hiện bất ngờ, riêng lẻ và
không thường xuyên.
Ở trẻ tuổi mầm non, phần này đề cập đến các
hành vi sau:
a. Khóc nức
Mô tả
Khóc nức có thể xuất hiện từ lúc trẻ được 3
tháng cho tới năm thứ 3. Hay gặp nhất là từ 6 đến 18
tháng. Trẻ khóc nức nở liên tục, trong cơn khóc nức trẻ
thường mất nhận biết một lúc do giảm ô xi não. Có hai
dạng sau:
- Khóc nức là phản ứng cáu giận do không
hài lòng. Trẻ bị ngạt dẫn đến tình trạng mất nhận biết
làm da tím tái. Trẻ dễ ngã, có thể co giật. Trẻ hay có
hành vi này thường lanh lợi, bạo dạn và cương quyết.
Loại này chiếm phần lớn (80%) số trẻ khóc nức.
- Cơn khóc nức đến bất chợt sau một cảm
xúc mãnh liệt. Đứa trẻ trắng nhợt ra và ngã xuống.
Dạng này thường dẫn đến co giật, dễ bị nhầm với
động kinh. Thường có ở trẻ hay sợ hãi và nhút nhát.
Hành vi khóc nức là cách trẻ phản ứng với
một hoàn cảnh nhất định, có liên quan đến một người
cụ thể. Chứng này có thể có nguyên nhân từ điều kiện
chăm sóc giáo dục. Nếu như cha mẹ và người lớn quá
quan tâm đến việc tránh để trẻ không hài lòng sẽ
khiến trẻ càng ngày càng trở nên khó tính hơn.
Nguyên nhân
Có quan niệm nói đến nguyên nhân sinh lí
của cơn khóc nức, cho là do phản ứng thái quá của
thần kinh phó giao cảm. Tuy vậy, lí do này không giải
thích được tính phụ thuộc vào tính chất quan hệ với
người khác, tính không ổn định về triệu chứng của
khóc nức. Thật ra rối loạn này bị tác động đồng thời
của cả nguyên nhân về sinh lí lẫn tâm lí.
Phản ứng sinh lí của trẻ chứng tỏ trẻ không
thể nhận thức được trạng thái tình cảm dữ dội đang
xâm chiếm bé. Đây là một rối loạn tâm thể
(psychosomatique). Theo Fain, tình trạng này là do
thiếu hụt kích thích tương hỗ mẹ - con. Thiếu hụt này
cũng là nguyên nhân của chứng mất ngủ sớm có từ
trước khi khóc nức xuất hiện.
Chữa trị
Cần tiến hành trao đổi với cha mẹ và với trẻ,
trước hết là để họ bớt lo lắng, sau nữa là tìm ra những
xung đột trong quan hệ giữa trẻ với cha mẹ và bản chất
của những xung đột này. Trị liệu tâm lí để làm thay đổi
tính chất của quan hệ đã gây ra khóc nức có thể dùng
trong một thời gian ngắn và thường có hiệu quả. Tuy
nhiên khi sử dụng trị liệu tâm lí cần lưu ý để tránh
nhiễu tâm về sau.
b. Hung hăng
Mô tả
Hung hăng ở đây không phải là trạng thái hay
tiềm năng mà là hành vi hung tính nhằm vào đối tượng
nhất định và có thể quan sát được. Ví dụ như trẻ cấu
hoặc cắn mặt mẹ, cấu, cắn, đánh bạn một cách hung
hăng...
Nguyên nhân
Có nhiều quan điểm về nguyên nhân của
hành vi hung hăng: nguyên nhân về sinh lí học, về xã
hội học, tập tính học và phân tâm học.
Về nguyên nhân sinh lí học, có thể kể đến
nồng độ cao trong máu của một số chất như d-
amphétamines, dopamine, testostérone; vùng hung
tính trên não và tăng số lượng nhiễm sắc thể Y (hội
chứng 47 XYY).
Về mặt xã hội học, có bốn nhân tố chính gây
ra hành vi hung bạo ở người: thiếu thốn về vật chất,
nghèo khổ; sống trong môi trường hỗn loạn; sống
trong môi trường bạo lực; giảm ý chí và niềm tin.
Về tập tính học, H. Montagner và cộng sự năm
1978 nghiên cứu hành vi của các trẻ em từ 18 tháng
đến 5 tuổi đã mô tả các giai đoạn diễn tiến của hành vi
hung hăng, bắt đầu từ mặt đến tay: kêu - cắn - đẩy -
cào cấu - đánh. Tác giả cũng làm rõ tiến trình chuyển
từ trạng thái bình tĩnh sang hung hăng của trẻ từ 2 đến
4 - 5 tuổi. Đây là thời kì mỗi trẻ dần hình thành kiểu
hành vi riêng của mình như kiểu lãnh đạo, kiểu hung
hăng... và kiểu cách này phụ thuộc nhiều vào kiểu
tương tác giữa trẻ và gia đình, nhất là với mẹ.
Phân tâm học lúc đầu đề cập đến xung năng
chết, rồi huyễn tưởng hung hăng của tính hung hăng.
Với hung hăng bệnh lí, có hai giả thuyết được đưa ra:
một là, trong quá trình phát triển có sự suy giảm, thiếu
hụt sự nội chiếu về các đối tượng xấu và tốt, chúng bị
chia tách dẫn tới sự hình thành cái siêu tôi trên cơ sở
thống hợp không tốt những cấm đoán và không khoan
nhượng; sự cân bằng giữa cái ấy và cái siêu tôi bị thay
đổi và cái tôi được biểu hiện bởi những xung động
hung tính. Giả thuyết thứ hai cho rằng nếu trẻ không có
quan hệ gắn bó đầy đủ trong quá trình phát triển để
cảm thấy an toàn thì tình trạng thiếu an toàn sẽ là cơ
sở để nảy sinh hành vi hung hăng.
Chữa trị
Trước hết phải tìm hiểu nguyên nhân của tính
hung hăng. Tìm hiểu, trao đổi với cha mẹ và trò chuyện
với trẻ để làm rõ tính chất của quan hệ tương tác giữa
mẹ và trẻ cũng như những thành viên khác trong gia
đình. Có thể dùng các biện pháp tâm lí - sư phạm và
cả tâm lí trị liệu để thay đổi tính chất của quan hệ
tương tác. Cũng cần có hỗ trợ về mặt xã hội trong
trường hợp hoàn cảnh gia đình đặc biệt.
c. Bỏ trốn
Bỏ trốn là việc bỏ đi có chủ ý, bất ngờ và
không được phép trong một thời gian nhất định. Có
trốn nhà và trốn trường.
Đứa trẻ bỏ trốn để lang thang trong nhiều giờ,
thậm chí nhiều ngày mà không trở về. Đây là một hành
vi hay gặp, người ta thống kê thấy có tới 30.000 trường
hợp trốn nhà trong một năm và tần số tăng lên theo
tuổi.
Độ dài của thời gian trốn rất khác nhau, một
phần tùy vào tuổi của trẻ. Trẻ thiếu niên và thanh niên
có thể trốn đi trong một thời gian khá lâu còn trẻ nhỏ
thường quay về hoặc là tìm cách gặp công an hay một
người bất kì nào đó khi trời tối để có thể trở về.
- Những lí do trốn
Đứa trẻ thường không có bất kì mục đích gì
khi trốn nhà, lang thang chung quanh khu vực nó sống
và trốn ở những nơi như hầm, chỗ bỏ hoang...Đôi khi
trẻ lớn hơn vào trung tâm thương mại hay rạp chiếu
phim. Sau đó trẻ tìm cách làm cho cha mẹ hoặc người
quen tìm thấy.
Cũng có trường hợp trốn có mục đích. Với trẻ
được 11 - 12 tuổi, thường mục đích trốn nhà là để
tránh nơi mà nó ghét và không muốn gặp một người
nào đó (trốn gặp người trông trẻ, ông bà...). Khi trẻ lớn
hơn, nhất là vào tuổi thanh thiếu niên, trốn nhà là để
tham gia vào một hội, để chuyển chỗ...
Trốn nhà thường được cho là một phần hành
vi của nhân cách dị tính và cũng là cơ hội để những
hành vi chống đối xã hội đặc trưng hơn xuất hiện (ăn
cắp có hành vi hung bạo...). Người ta nhận thấy ở trẻ
tuổi thanh thiếu niên hay trốn đi và trốn sớm những
yếu tố sau: chia li với cha mẹ, thiếu hụt tình cảm, bị bỏ
rơi... Cũng như vậy ở trẻ nhỏ.
Ở trẻ thanh thiếu niên, bỏ trốn là yếu tố dự
báo trẻ hư sớm. Có trẻ trốn nhà như là cách để trốn
khỏi những căng thẳng mà nó không chịu nổi trong gia
đình. Có trẻ trốn nhà thể hiện một hành vi có liên quan
với một đau khổ hoặc một đòi hỏi mà người lớn từ
chối lắng nghe. Ở trường hợp này, trẻ có thời gian
chuẩn bị cho việc đi trốn hoặc đã hình đung trước việc
này.
- Nguyên nhân của bỏ trốn
+ Bỏ trốn như là hành vi trốn tránh: Phải sống
trong môi trường xung đột, đứa trẻ thử tránh căng
thẳng tâm lí làm nó lo sợ bằng việc bỏ trốn và đi lang
thang không có mục đích chính xác. Trẻ này thường lo
âu và mặc cảm có lỗi về hành động của mình và hành
vi được kết hợp với một nhiễu tâm trẻ em. Ví dụ, do
căng thẳng và thất bại ở trường, trẻ trốn trường trong
một thời gian dài. Gia đình có thể không biết vì trẻ vẫn
ra khỏi nhà và trở về đúng giờ, thậm chí còn mang
điểm và bài tập về nhà. Tuy nhiên cha mẹ cuối cùng
vẫn biết khi trẻ quá lo sợ phải nói ra hoặc do giáo viên,
bạn bè trẻ thông báo.
+ Trốn trường biểu hiện sự từ chối đi học: Trẻ
trốn học đi chơi. Nó đi lang thang hoặc trốn vào đâu đó
cho đến giờ về nhà như là vẫn đi học. Trẻ này gặp thất
bại ở trường, ít thể hiện mặc cảm có lỗi hoặc lo âu. Nó
có thể có những rối loạn hành vi kết hợp khác (ăn cắp,
nói dối, hành vi hung tính...). Nếu đó là đứa trẻ tuổi
thanh thiếu niên, người ta có thể gặp trẻ nhân cách dị
tính không chỉ trốn trường mà có cả trốn nhà có tổ
chức, tụ tập thành băng đảng, hư hỏng... Khi trẻ còn
nhỏ, việc bỏ trốn có thể bắt đầu khi trẻ ở trường, ở
trại...
+ Bỏ trốn là cách phản ứng với tình trạng bị bỏ
rơi: Đây là trường hợp hay gặp ở trẻ có cha mẹ li dị và
phải ở với cha hoặc mẹ do pháp luật quy định. Trẻ
không chấp nhận chia li với môi trường gia đình và sợ
bị vứt bỏ. Nó bỏ trốn, có khi nhiều lần, để tìm lại người
thân.
+ Bỏ trốn để đi tìm cha hoặc mẹ khi cha mẹ li
dị: Thường thấy trong hoàn cảnh cha mẹ li dị vì xung
đột và trẻ phải sống với 1 trong 2 người. Cũng có khi
trẻ trốn là do cha hoặc mẹ tạo điều kiện hoặc cho
phép để trốn tránh người kia.
+ Trốn nhà của trẻ tự kỉ hoặc thiếu hụt. Đúng
hơn là trẻ bị lạc hoặc là đi trốn, nhưng do khả năng xác
định về không gian - thời gian kém nên không tìm
được đường về. Một số trẻ loạn tâm có nhu cầu mang
tính thúc ép về trốn khỏi mọi giới hạn mà người ta áp
đặt cho nó, bao gồm cả giới hạn về địa điểm.
+ Trốn nhà khi động kinh: Bỏ đi không chủ ý,
thường kèm theo chứng quên.
- Chữa trị
Không có cách chữa trị riêng dành cho trẻ bỏ
trốn nhưng cần lưu ý đến những hoàn cảnh, thái độ
đưa đến hành vi bỏ trốn để có những điều chỉnh, tác
động thích hợp. Trấn áp trẻ khiến trẻ càng hay bỏ trốn
hơn. Những cách mà người xung quanh hay làm khi
trẻ bỏ trốn (cấm đi ra ngoài, giám sát, khóa phòng) có
nguy cơ hình thành một hành vi bệnh lí. Cũng có khi trẻ
thấy bỏ trốn là cách có thể làm thay đổi gia đình, làm
cho cha mẹ gặp nhau và làm cho trẻ xác nhận sự gắn
bó của cha mẹ.
1.5. Rối loạn cơ thắt
Thời điểm trẻ kiểm soát được cơ thắt là một
mốc quan trọng trong phát triển. Để kiểm soát cơ thắt
cần đạt được mức độ thành thục và phát triển tâm lí
nhất định, đồng thời cũng phụ thuộc vào chất lượng
quan hệ qua lại giữa mẹ và bé ngay từ năm thứ nhất.
Có thể đề cập đến ba lĩnh vực ảnh hưởng đến khả
năng kiểm soát cơ thắt của trẻ: sinh lí thần kinh, môi
trường văn hóa và quan hệ.
- Về sinh lí thần kinh
Kiểm soát được cơ thắt đánh dấu bước
chuyển từ những hành động phản xạ tự động sang
những hành động kiểm soát có chủ định. Ở trẻ nhỏ,
khi đầy nước tiểu và phân bé sẽ đi tiểu và đại tiện. Việc
kiểm soát cơ thắt có được dần dần và nhìn chung trẻ
kiểm soát được đại tiện trước tiểu tiện.
Để có được sự kiểm soát này cần nhiều yếu
tố: hoạt động thành thục của các cơ quan có liên quan,
người lớn tập cho trẻ sớm... Chúng tương tác với nhau
trong quá trình đứa trẻ phát triển. Những nghiên cứu
về hoạt động của bàng quang cho thấy các giai đoạn
sau của quá trình kiểm soát việc thải nước tiểu:
- Thải tự động ở trẻ nhỏ: cho đến khi trẻ 1 tuổi.
- Bắt đầu có ức chế thải: 1 đến 2 tuổi.
- Có khả năng ức chế thải đồng bộ: 2 đến 3
tuổi.
- Đạt khả năng ức chế gần như người lớn:
sau 3 tuổi.
Trẻ chưa thể đạt được mức độ kiểm soát thực
sự trước lứa tuổi này kể cả khi trẻ được tập luyện theo
cơ chế điều kiện hóa giúp cho trẻ có thể sớm kiểm
soát được việc bài tiết.
- Về môi trường
Môi trường văn hóa có ảnh hưởng đến khả
năng kiểm soát bài tiết của trẻ. Ở môi trường đòi hỏi
trẻ phải sớm biết kiểm soát, trẻ có thể đáạt được khả
năng này khá sớm. Trái lại, nếu áp lực ít, trẻ có thể
kiểm soát kém hơn. Ví dụ như với những cha mẹ có
quan điểm tự do trong phát triển của con em thì áp lực
về việc trẻ phải sớm sạch sẽ giảm nhiều, điều này lại
có thể gây ra những rối loạn có liên quan đến chức
năng bài tiết của trẻ.
- Về quan hệ
Sự thành thục về sinh lí thần kinh, áp lực về
văn hóa đều diễn ra trong môi trường quan hệ, trong
đó quan hệ giữa mẹ và bé được quan tâm đặc biệt.
Việc trẻ đạt được hay không sự kiểm soát cơ thắt vào 2
- 3 năm đầu tiên có liên quan đến tính chất của mối
quan hệ tay đôi giữa mẹ và bé. Nhiều nghiên cứu đã
khẳng định tầm quan trọng của lĩnh vực quan hệ khi
chỉ ra mối liên quan thuận giữa tần số rối loạn cơ thắt
với những điều kiện quan hệ không thuận lợi.
a. Đái dầm
- Khái niệm và mô tả
Đái dầm là việc bài tiết nước tiểu không tự
chủ được ở trẻ sau 3,5 - 4 tuổi, tuổi thông thường đã
đạt được khả năng này. Việc kiểm soát đi tiểu là một
quá trình phức tạp cùng với khả năng hoạt động thành
thục của bàng quang và niệu đạo khả năng cảm nhận
sự căng đầy, quyết định lựa chọn dịp thải ra và mong
muốn hành động độc lập.
Đái dầm là một rối loạn khá phức tạp, do
nhiều nguyên nhân. Nhiều trường hợp có lên quan với
những điều kiện về tình cảm và xúc cảm, nhưng cũng
có sự chi phối của những yếu tố về sinh lí và cấu tạo
cơ quan cơ thể.
Đái dầm, khoảng 10% trẻ mắc, con trai gấp
đôi con gái. Khi trẻ chưa kiểm soát được việc đi tiểu
người ta nói đến đái dầm tiên phát. Loại này thường
gặp. Nếu đái dầm đến bất chợt sau một giai đoạn dài
kiểm soát được, đó là đái dầm thứ phát. Cũng có các
dạng đái dầm ban ngày và các dạng chuyên về ban
đêm. Trong trường hợp đái dầm ban ngày, có thể có
rối loạn chức năng của bàng quang và đôi khi là do
đảo ngược nhịp ngày đêm của hoc - môn chống đái
ban ngày.
Đái dầm thường gặp ở những gia đình có rối
loạn tổ chức và mức kinh tế - xã hội không thuận lợi.
Chia li, xung đột, nằm viện kéo dài... là những điều
kiện thuận lợi cho đái dầm xuất hiện. Nhưng nó cũng
xuất hiện trong mọi môi trường và các gia đình hoàn
toàn bình thường.
Những nghiên cứu về thống kê không cho
thấy rõ mối tương quan giữa tần số xuất hiện đái dầm
với những cách thức được người lớn sử dụng để giúp
trẻ không đái dầm. Tuy vậy, một số trường hợp chỉ ra
rằng: tính chất phản ứng không phù hợp của cha mẹ
có thể góp phần làm tăng thêm những lo hãi của trẻ và
của triệu chứng.
Đái dầm về đêm thường gặp hơn cả vào lúc
giữa nửa đêm và 3 giờ sáng. Thường giấc ngủ của trẻ
đái dầm không thật sâu.
Đái dầm thường làm trẻ xấu hổ. Khi không
ngủ ở nhà, trẻ sợ bị phát hiện ra và chế giễu vì vậy
thường từ chối ngủ ở chỗ khác, từ chối đi chơi xa với
bạn. Tuy vậy một số trẻ dửng dưng với rối loạn và do
đó không cố gắng thực hiện những kế hoạch chữa trị.
Có thêm em bé hoặc cha mẹ bất hòa... có thể
làm trẻ ngừng cố gắng để không đái dầm. Nhiều mô
tả về đặc điểm tâm lí của trẻ đái dầm cho thấy trẻ ở
tình trạng không ổn định và xung động. Cũng có khi trẻ
có xu hướng trầm cảm.
- Nguyên nhân
Theo một số nghiên cứu thì 75% các trường
hợp đái dầm có rối loạn trong gia đình, kể cả khi trẻ
không sống với cha mẹ. Những nghiên cứu khác lại
khẳng định rằng có nguyên nhân về di truyền. Mặc dù
do nguyên nhân di truyền thì chắc chắn yếu tố môi
trường vẫn có ảnh hưởng đến việc xuất hiện các triệu
chứng.
Sự tác động của xúc cảm đến hoạt động của
bàng quang cũng đã được thừa nhận. Người ta nhận
thấy những xung đột về tâm lí có thể gây ra những đái
dầm bất chợt ban đêm ở một đứa trẻ đã kiểm soát
được cơ thắt. Những trò chơi của trẻ em, các câu
chuyện trẻ kể, tranh vẽ chỉ ra rằng đái dầm có thể đi
kèm với nhiễu tâm trẻ em và sẽ kéo dài nếu như điều
kiện gia đình tạo thuận lợi cho triệu chứng.
Đái dầm cũng xuất hiện khi trẻ có thoái lui.
Cảm thấy mất an toàn, cạnh tranh với anh chị em, mất
cân bằng về tâm lí - tình cảm khi lo lắng bị em bé mới
sinh chiếm mất chỗ trong quan hệ với cha mẹ và
những đặc điểm gia đình khác có thể làm kéo dài tình
trạng đái dầm.
Như vậy, có thể nói rằng những quan hệ
không thuận lợi trong gia đình là một cản trở đối với sự
phát triển bình thường của trẻ.
Về nguyên nhân sinh lí, những nghiên cứu về
sinh lí học đã chỉ ra sự rối loạn hoạt động thường
xuyên của bàng quang và sự đảo ngược nhịp ngày
đêm của tiết nước tiểu.
- Chữa trị
Có nhiều cách chữa trị và nên tiến hành dần
theo giai đoạn.
Thời gian đầu cần đánh giá những phản ứng
của trẻ với rối loạn, đánh giá sự phát triển tâm lí và
đánh giá những quan hệ trong gia đình.
Có thể dùng những biện pháp giáo dục đơn
giản và thay đổi thái độ của cha mẹ sao cho phù hợp
với mong muốn của trẻ. Đánh thức trẻ dậy đi tiểu sau
nửa đêm, giảm lượng chất lỏng sau 16h cũng có thể
có ích.
Cũng cần đảm bảo sự yên tĩnh và cảm giác
an toàn ở trẻ khi đi ngủ và khi tuổi của trẻ cho phép, đề
nghị nó ghi lại hàng ngày những thất bại và những
thành công trong kiểm soát đi tiểu.
Nếu quan sát quan hệ của gia đình và của trẻ
thấy có biểu hiện nhiễm tâm thì có thể sử dụng trị liệu
tâm lí, nhất là trong trường hợp trẻ có rối nhiễu kết hợp
với đái dầm. Tuy nhiên hiệu quả về giảm bớt triệu
chứng không chắc chắn.
Nếu những biện pháp này không có tác dụng
thì có thể dùng thuốc tuy nhiên lựa chọn thuốc phải
tính đến đặc trưng của đái dầm và không thể dùng
trong thời gian dài.
b. Ỉa đùn
- Khái niệm và mô tả
Ỉa đùn được định nghĩa là việc đi ỉa ít nhiều
không tự chủ trong những điều kiện không thích hợp,
ở trẻ trên 3 tuổi. Chứng này gặp nhiều ở trẻ trai,
khoảng 3 trai 1 gái. Tuổi trung bình mắc khoảng giữa 7
- 8 tuổi. Ỉa đùn hay được kết hợp với đái dầm và có thể
diễn ra vào ban ngày. Ỉa đùn và đái dầm có thể cùng
lúc hoặc luân phiên kế tiếp nhau.
Có ỉa đùn tiên phát hoặc thứ phát, nhưng
khác với đái dầm, ỉa đùn thứ phát nhiều hơn tiên phát.
Việc thải phân có thể một lần hoặc nhiều lần
trong ngày. Ỉa đùn thường hay đi kèm với những hoàn
cảnh như chia li với gia đình, đi học xa...
Cách thải phân cũng không như nhau. Một số
trẻ thải khi có một mình và tập trung vào việc thải gần
giống như những đứa trẻ khác thải ở nhà vệ sinh.
Những trẻ khác vừa hoạt động vừa thải. Đứa khác lại
để phân ra trên đường vào nhà vệ sinh. Tính chủ ý hay
không chủ ý của hiện tượng ỉa đùn hiện còn tranh cãi.
Một số trẻ khẳng định nó không cảm thấy gì khi thải,
những trẻ khác lại cảm nhận được bình thường nhưng
không có khả năng giữ phân lại.
Thái độ của trẻ đối với việc ỉa đùn cũng khác
nhau. Có những trẻ không biểu lộ thái độ đặc biệt nào,
chỉ khi mùi phân bốc lên thì những người xung quanh
mới biết. Nhưng thường là trẻ giấu giếm khi ỉa đùn,
quần bẩn được giấu vào một chỗ kín nào đó. Trẻ xấu
hổ với mọi người, trừ mẹ.
- Nguyên nhân
Với trẻ ỉa đùn, vấn đề quan hệ và tâm lí là
những yếu tố đầu tiên khi đề cập đến nguyên nhân.
Tuy vậy, còn có những yếu tố khác:
+ Rối loạn hoạt động sinh lí: Không thấy rõ
bất thường về cấu trúc hoặc chức năng của cơ thắt
hậu môn và trực tràng. Tuy vậy, đôi khi cũng có rối loạn
hoạt động của cơ thắt hậu môn kèm theo những kém
co dãn đáng kể của trực tràng.
+ Nhân cách của trẻ: Mặc dù không có kiểu
tâm lí điển hình nhưng trẻ ỉa đùn có những nét nhân
cách bệnh rõ ràng hơn so với trẻ đái dầm. Người ta
thấy ở trẻ ỉa đùn những đặc điểm sau:
* Trẻ thụ động và lo âu, biểu hiện hung tính
một cách chưa thành thục.
* Trẻ chống đối với những nét ám ảnh. Ỉa đùn
như là một cách không tuân theo những chuẩn mực xã
hội.
* Trẻ tính tình ngang ngược thể hiện sự thoái
lui và cắm chốt vào một kiểu hành vi đặc biệt.
+ Đặc điểm gia đình: Chủ yếu chỉ có quan hệ
giữa mẹ và bé. Người cha kín đáo và giữ gìn, thậm chí
vai trò của cha bị bỏ quên, cha ít can thiệp vào quan hệ
giữa mẹ và trẻ. Người mẹ thường lo âu, quá cảm xúc,
quá bảo vệ và che giấu lo lắng của mình bằng những
hành vi cứng rắn trong cách giáo dục kiểm soát cơ thắt
quá sớm hoặc quan tâm thái quá đến việc thải phân
của con.
Ỉa đùn bắt đầu đôi khi trùng với xuất hiện
stress: nằm viện, chia li, có em bé... Nhưng trong
những trường hợp này thì có thể giảm nhanh chóng.
Về mặt tiến triển, phần lớn ỉa đùn mất đi một
cách tự nhiên sau vài tuần hoặc vài tháng. Nếu nó tồn
tại lâu dài thì thường có tầm vóc tâm bệnh lí và bệnh lí
gia đình. Kể cả khi sẽ mất đi vào tuổi thanh thiếu niên,
trẻ ỉa đùn hay có những nét tính cách đặc trưng và
nhiễu tâm như lo âu thái quá về việc kiểm soát cơ thắt,
bủn xỉn, hoang phí, hám tiền, tỉ mẩn, do dự, có xu
hướng tích trữ...
- Chữa trị
Trước hết cần đánh giá về mặt y học để xem
có vấn đề về đại tràng hay tổn thương hậu môn hay
không vì chúng có thể là nguyên nhân của triệu chứng.
Cách chữa trị về mặt y học thường thấy là
những biện pháp chống lại khó đi ỉa, bằng thuốc uống
hay là thụt rửa.
Cũng cần có những biện pháp về vệ sinh cho
trẻ và lời khuyên về mặt giáo dục dành cho cha mẹ.
Cần tiến hành trao đổi với cha mẹ để tìm hiểu
về những năm đầu đời cửa trẻ để biết về chất lượng
các quan hệ và cách cha mẹ giúp trẻ sạch sẽ. Trong
những trường hợp mà triệu chứng mang tính phản
ứng tiếp sau những sự kiện gây lo hãi, việc chăm sóc
về nhi khoa và quan tâm của cha mẹ đến trẻ nhìn
chung sẽ lấy lại được sự phát triển bình thường cho
trẻ mà không cần tới những can thiệp khác.
Trị liệu tâm lí được chỉ định khi những lo hãi
về mất mát và chia li nổi trội, đi kèm với người mẹ
hoặc gia đình có vấn đề. Trường hợp này cần một trị
liệu tâm lí cho mẹ và trẻ. Trường hợp có tìm kiếm
khoái cảm hậu môn thì nguy cơ tiến triển theo hướng
rối loạn nhân cách là lớn. Trị liệu tâm lí cho trẻ phải đi
kèm với nâng đỡ gia đình.
1.6. Rối loạn giấc ngủ
Mô tả
Rối loạn giấc ngủ rất hay gặp ở trẻ nhỏ, nó có
tính chất bệnh lí khi biểu hiện ở mức độ cao.
Trẻ nhỏ có nhu cầu ngủ nhiều, khoảng 18
tiếng trong tháng đầu. Đến tháng thức ba, thời gian
ngủ của trẻ thay đổi và phụ thuộc vào cha mẹ. Rối loạn
giấc ngủ thường hay gặp ở 3 tháng đầu, khi trẻ phải
chấp nhận chế độ sinh hoạt do người lớn đặt ra.
Chứng mất ngủ: Mất ngủ là bình thường khi
trẻ ngủ rồi khóc thức dậy, rồi lại ngủ tiếp khi được vỗ
về. Những ở đây là trẻ mất ngủ nặng: không ngủ và
kêu khóc không ngừng, không thể vỗ về, dỗ dành
được; trẻ ngủ lại chỉ trong một thời gian ngắn, rùng
mình và gào thét trước khi mở mắt ra. Khi được bế và
đu đưa nó thôi khóc nhưng đặt nằm thì lại kêu khóc.
Cha mẹ dùng mọi cách để dỗ trẻ: đu đưa, cho đi chơi
trong đêm, cho nghe nhạc... Không dỗ được bé, cha
mẹ cáu giận và quát trẻ.
Một kiểu rối loạn giấc ngủ khác biểu hiện ở
những hành vi như đu đưa người sang hai bên, lăn
đầu qua lại, dập đầu vào nôi mà không thức giấc. Vận
động có nhịp này thường xuất hiện khi trẻ ngủ thiếp đi
và không được người lớn chú ý nhưng nó có thể biểu
hiện ở mức độ cao và đi kèm với chứng mất ngủ nặng.
Ở trẻ em trai sau 6 tháng tuổi có một dạng
mất ngủ riêng, khi bé hay thức dậy trong lúc ngủ còn
ban ngày thì hoạt động vận động nhiều và mạnh.
Chứng mất ngủ thường kết hợp với chứng
đau bụng, nôn trớ, biếng ăn.
Một kiểu mất ngủ khác ít được cha mẹ để ý là
mất ngủ mà im lặng. Bé thức nhưng rất yên lặng. Triệu
chứng này là dấu hiệu của một rối loạn nặng, có thể là
biểu hiện tiến triển của bệnh tự kỉ.
Sau 1 tuổi, mất ngủ thường do ác mộng hoặc
do những kinh hãi ban đêm, cha mẹ có thể nhận biết
được.
Mất ngủ nặng ảnh hưởng đến quan hệ giữa
cha mẹ và bé, đồng thời ảnh hưởng đến tính cân bằng
trong quan hệ gia đình.
Nguyên nhân
Có thể nói đến nguyên nhân về chất lượng
gắn bó mẹ - con ngay từ những ngày tháng đầu tiên
của trẻ. Người mẹ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_tam_benh_hoc_tre_em_lua_tuoi_mam_non.pdf