Trang
Lời cảm ơn i
Mục lục ii
Danh mục hình và sơ đồ
Danh mục bảng và đồ thị
Lời mở đầu 01
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Khái quát về cây hồ tiêu 03
1.1.1 Nguồn gốc hồ tiêu 03
1.1.2 Đặc điểm hình thái 04
1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến tiêu 05
1.1.3.1 Giống tiêu 05
1.1.3.2 Một số nọc (cây choái) sử dụng trồng tiêu và mật độ trồng tiêu 09
1.1.3.3 Đất đai 09
1.1.3.4 Các yếu tố khí hậu 10
1.1.3.5 Bón phân và kỹ thuật bón phân 10
1.1.3.6 Tưới nước – thoát nước 12
1.1.3.7 Một số yếu tố khác 12
1.1.4 Sâu bệnh hại chính trên cây hồ tiêu 13
1.1.5 Tình hình sản xuất và tiêu thụ tiêu trên thế giới và Việt Nam 18
1.1.6 Thực trạng vùng trồng hồ tiêu tại Phú Giáo, Bình Dương 21
1.1.7 Thành phẩm hóa học và giá trị sử dụng của hạt hồ tiêu 22
1.1.7.1 Thành phần hóa học của hạt tiêu 22
1.1.7.2 Giá trị sử dụng 23
1.2 Khái quát tuyến trùng 23
1.2.1 Lịch sử nghiên cứu tuyến trùng 25
1.2.2 Phân loại tuyến trùng ký sinh thực vật 26
1.2.3 Tuyến trùng ký sinh thực vật (plant-parasitic nematodes) 26
42 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khả năng kiểm soát tuyến trùng bướu rễ cây hồ tiêu của chế phẩm nemaitb ở nhà lưới và bước đầu thử nghiệm tại ấp Bầu Trư, xã An Bình, huyện Phú Giáo, Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y do tập đoàn tuyến trùng gây ra. Gốc thân, cổ rễ bị thâm đen, thối khô. Các bó mạch trong thân bị chuyển màu thâm đen. Trong điều kiện mùa khô rệp sáp gây hại trên rễ cũng gây triệu chứng héo vàng, ở nhiều địa phương còn xuất hiện con muối tham gia gây hại. Triệu chứng chết chậm biểu hiện rõ cả trong mùa khô và mùa mưa. Rõ ràng, bệnh chết chậm hay hiện tượng vàng lá chết cây từ từ là một hội chứng rất phức tạp. Đây là một hội chứng phức hợp do nhiều nguyên nhân gây ra.
- Bệnh sinh lý:
Thiếu đạm: Thường xảy ra ở giai đoạn sau thu hoạch, lá vàng, vàng cam, ngọn lá cháy, lá rụng.
Thiếu Kali: Đỉnh lá bị cháy kéo dọc theo rìa lá, lá dòn dễ gãy, phiến lá cong, dây không chết nhưng năng suất giảm.
Thiếu lân: Cây tăng trưởng chậm lại, cằn cỗi, ít đậu trái.
Thiếu Mg: Phổ biến ở giai đoạn ra hoa và lúc trái già, lá mất màu diệp lục, gân lá màu vàng, lá trưởng thành màu xanh nhạt, vàng dọc theo chiều dài gân lá, làm lá rụng.
Thiếu Ca: Thiếu nặng cây cằn cỗi, các lóng ngắn lại, lá non màu xanh nhợt, mép lá cháy xém gần phiến lá màu xanh nhạt, xuất hiện các đốm nâu ở giữa gân lá mặt trên và mặt dưới lá.
- Bệnh vi rút hại hồ tiêu:
Bệnh vi rút trên hồ tiêu được biết đến với tên gọi “tiêu điên”. Bệnh vi rút trên tiêu ở nước ta còn ít tài liệu nghiên cứu, tuy nhiên điều tra tại xã Đắc Nia – Đắc Nông trên vườn tiêu 5 năm tuổi có tới 12,6% cây biểu hiện triệu chứng hoa lá và lá nhỏ, tại xã Bình Trung, huyện Châu Đức – Bà Rịa – Vũng Tàu trên vườn cây 8 năm tuổi có tới 63,5% số cây bị bệnh vi rút.
Các tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước đều đã xác định hai loại vi rút: vi rút hoa lá dưa chuột (Cucumber mosaic virus – CMV) và virut khảm vàng trên hồ tiêu (Piper yellow mottle virus – PYMV). Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu bệnh lý học và biện pháp cụ thể nào về hai loại virut kể trên gây hại trên hồ tiêu ở nước ta.
Triệu chứng
Làm lá tiêu nhỏ, xoăn lại, vàng, đọt tiêu không phát triển, cây lùn, cằn cỗi, chậm phát triển, bệnh nặng cây sẽ chết. Cây mới bị bệnh trên lá có triệu chứng khảm hay còn gọi là hoa lá, lá nhỏ lại và cây phát triển còi cọc. Giai đoạn cuối, các đốt thân sưng lên và các đốt xít lại gần nhau, nhiều khi gây hiện tượng “nổ đốt – tháo đốt”. Bệnh gây hại làm cho vườn tiêu phát triển chậm, dần dần tàn lụi và giảm năng suất rõ rệt.
- Bệnh thán thư:
Do nấm Colletotrichum gloeosporioides gây nên.
Triệu chứng
Trên lá có những vết vằn lớn màu vàng nâu, xung quanh vết vằn có quầng đen. Nếu vết bệnh lây sang cành, bông thì làm rụng đốt, cành, hạt khô đen và lép.
- Dịch bệnh trên “choái” tiêu:
Năm 2005 và 2006 vấn đề cây vông làm choái tiêu ở Bà Rịa – Vũng Tàu bị ong gây hại. Ong gây hại trên lá, đọt và đục vỏ làm xập dây tiêu đã gây thiệt hại đáng kể cho người trồng tiêu. Có rất nhiều loại cây choái khác nhau bao gồm: Vông (Erythyrina inerana), Lồng mức (Wrightia annamenis), Gòn (Eriodendron anyracinosum), Cóc rừng (Spondias mangifera), Mít (Atocarpus integrifolia), v.v. Nhưng trong các cây làm choái này chỉ có cây ong hại và không chỉ có ở Bà Rịa – Vũng Tàu mà tại Đắc Nông cũng bị. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay chỉ có thay thế cây vông bị ong gây hại bằng các loại choái sống khác phù hợp với điều kiện địa phương là giải pháp kinh tế nhất.
1.1.5 Tình hình sản xuất và tiêu thụ tiêu trên thế giới và Việt Nam
Thế giới:
Theo tổ chức FAO, cây tiêu được trồng khắp nơi trên thế giới từ thế kỷ XIX và hiện nay có 70 quốc gia trồng tiêu.
Năm 1954: thế giới có khoảng 64.000 tấn tiêu hột.
Năm 1978: 160 ngàn tấn tiêu hột.
Năm 1983: 180.000 tấn.
- Sau 1982 sản lượng tiêu trên thế giới giảm dần do sâu bệnh (bệnh tiêu điên) và thời tiết (ít mưa làm tiêu chết vì thiếu nước và tiêu rụng nhiều) ô nhiễm môi trường cũng ảnh hưởng lớn đến việc thụ phấn của hoa. Sau 1983 giá tiêu tăng vọt, đến 1989 – 1990 các nước đổ xô trồng tiêu và diện tích trồng tiêu tăng lên. Các nước sản xuất nhiều tiêu nhất trên thế giới là Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Brazil, Madagasca, Srilanka.
- Còn ở các nước Đông Dương, từ thế kỷ XVI đã tìm thấy loại tiêu mọc hoang trong rừng, sang thế kỷ XVII thì nhập giống tiêu Ấn Độ, Indonesia có năng suất cao về trồng. Đến thế kỷ XIX, Campuchia là nước trồng tiêu nhiều nhất Đông Dương. Những năm trước dao động trong khoảng 6.000 đến 7.000 ha nhưng từ năm 1997 đến năm 1998 tăng từ 9.800 đến 11.800 ha tương ứng với năng suất từ 8.000 đến 9.000 tấn và từ 13.000 đến 14.000 tấn/ năm.
* Năng suất trung bình hiện nay trên thế giới 2 – 3kg/nọc/năm.
* Về xuất khẩu tiêu có 2 dạng:
+ Tiêu hột:
Chia làm 2 loại: tiêu đen và tiêu trắng (tiêu sọ) và chiếm hầu hết lượng tiêu xuất khẩu vào khoảng 160.000 tấn/năm.
Trung bình 100kg tiêu tươi (tiêu chùm) chế biến phơi khô được 35 kg tiêu đen còn tiêu trắng chiếm khoảng 70% so với trọng lượng tiêu đen. Như vậy 100 kg tiêu tươi thu được khoảng 25 kg tiêu trắng. Lượng tiêu hột chiếm 85% tổng sản lượng và xuất khẩu tiêu của thế giới.
+ Tiêu xanh:
Thế giới hiện nay sản xuất để xuất khẩu khoảng 2.000 tấn tiêu xanh (tiêu tươi, tiêu chùm), 4.000 tấn dầu hạt tiêu. Tốc độ tiêu thụ tăng 5-6% nhưng tốc độ sản xuất chỉ tăng 4%.
Trên thế giới có 42 nước nhập khẩu chính, nhiều nhất là Mỹ khoảng 30.000 tấn tiêu hột/năm, Đức 15.000 tấn/năm, Pháp 7.000 tấn/năm. Mức tiêu thụ bình quân trên thế giới là 300 gam/đầu người (cao nhất là Mỹ với mức tiêu thụ khoảng 500 gam/đầu người). Gần đây ở những nước Trung Đông đang tăng dần việc sử dụng tiêu.
Giá cả tiêu:
- Trước 1970 trên thế giới là 1500 USD/tấn tiêu đen.
1970 – 1980 2000 USD/tấn
1983 đến cuối 1985 4400 USD/tấn
- Cuối 1986 cao nhất là 5200 – 5400 USD/tấn.
- Sau đó giảm dần, đến năm 1994 là 2000 – 2500 USD/tấn.
Tiêu sọ cao nhất là namw giá 6000 USD/tấn, năm 1994 là 3500 – 4000 USD/tấn.
Theo các nhà trồng tiêu thế giới thì cây tiêu vẫn còn có khả năng kinh tế lớn.
Tiêu chuẩn xuất khẩu:
- Ẩm độ hạt: 15%, tốt nhất là 11%.
- Trọng lượng hạt tiêu 480 gam/1 lít hạt.
- Độ tinh khiết 90%, hạt tiêu lép < 2%.
Việt Nam:
Ở Việt Nam tiêu được du nhập và trồng đầu tiên ở Hà Tiên, Phú Quốc, Phước Tuy, Bà Rịa. Từ sau 1975 ngành trồng tiêu phát triển mạnh ở Bình Long, Phước Long (tỉnh Bình Phước). Miền Trung phát triển mạnh ở vùng Khe Sanh (Quảng Trị). Năm 1965 toàn miền Nam có khoảng 465 ha với sản lượng 605 tấn tiêu hột và do không chịu được nhiệt độ thấp nên chỉ trồng ở vĩ tuyến 17 trở vào (Quảng Trị vào). Hiện nay cây tiêu được trồng nhiều ở các vùng như Đăk Lăk, Gia Lai, Kontum, Bình Thuận, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu cho đến các tỉnh miền Tây Nam Bộ: Cần Thơ, Sóc Trăng, Kiên Giang (Phú Quốc) với khoảng 50.000 ha và sản lượng gần 100.000 tấn.
Cây tiêu Việt Nam có năng suất cao nhất là ở Phú Quốc (8 – 10 kg/nọc chết/năm), các vùng khác (Bà Rịa, Bình Long) cao nhất là 6 – 8 kg/nọc chết/năm.
Nếu so với thế giới thì năng suất trồng tiêu ở Việt Nam còn thấp vì:
Trình độ thâm canh chưa cao ( ngoài kỹ thuật, còn thiếu vốn sản xuất).
Bệnh tiêu.
Bón phân mất cân đối (chủ yếu là chỉ bón đạm).
- Các vùng có khả năng phát triển tiêu ở Việt Nam:
+ Đông Nam Bộ: tốt nhất là vùng đất đỏ bazan: Lộc Ninh, Bình Long (Bình Phước), Bà Rịa, Xuân Lộc (Long Khánh): Do đất đỏ có cơ cấu cụm, thông thoáng, dinh dưỡng cao, năng suất ở đất đỏ 2 – 3 hoặc đến 8 – 10 -12kg/nọc.
Đất xám miền Đông thường phải tưới nhiều nước hoặc chọn nơi có mực thủy cấp cao.
Miền Đông Nam Bộ là vùng trồng tiêu lớn nhất của cả nước với tổng diện tích năm 2006 là 30.500 ha.
+ Tây Nguyên: Lâm Đồng (Di Linh, Bảo Lộc, Đa Hoai), Đăk Lăk, Pleiku, Buôn Ma Thuột. Khả năng phát triển tiêu lớn nhờ đất đỏ, đất vàng đỏ nhưng hiện đang tranh chấp với cà phê, cao su. Hiện các tỉnh Tây Nguyên có 14.000 ha.
+ Miền Trung: Khe Sanh (Quảng Trị), Tiên Phước (đang tranh chấp với dâu tằm)Các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ có 1.200 ha, Bắc Trung Bộ 3.800 ha.
+ Kiên Giang: Hà Tiên (vùng khởi đầu: Tô Châu, Thạch Động), Phú Quốc nếu bón nhiều phân hữu cơ có thể đạt 10 – 15kg/nọc năm.
+ Đồng bằng sông Cửu Long: phát triển từ năm 1984 – 1985 trở lại đây, chủ yếu vườn nhà (nọc sống) mang tính chất gia đình, phải bồi mương cao trắc diện ở nơi trồng tiêu. Hiện nay, ở Đồng Bằng Sông Cửu Long có 600 ha [8].
1.1.6 Thực trạng vùng trồng hồ tiêu tại Phú Giáo, Bình Dương
Các giống tiêu: Giống tiêu được sử dụng nhiều là giống tiêu Vĩnh Linh, theo các nhà trồng tiêu đây là giống cho năng suất cao và ít tốn công chăm sóc. Ngoài ra, trong vùng cũng trồng một số giống tiêu khác như giống tiêu sẻ, giống tiêu chung, giống tiêu Lộc Ninh
Nọc trồng tiêu: nọc sống được sử dụng phổ biến là cây lồng mức do dễ tìm và cho năng suất cao. Nọc xây thường là nọc xây gạch và nọc xi măng.
Điều kiện sinh thái: Huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương nằm trong vùng Đông Nam Bộ có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Đất ở đây thuộc nhóm đất xám là một trong những loại đất thích hợp cho sự phát triển của cây tiêu. Bên cạnh đó, đất bằng (đất không có độ dốc) nên dễ chăm sóc và bón phân ít bị sửa trôi đỡ phải làm bồn.
Phân bón: Chủ yếu sử dụng phân chuồng ( phân heo, phân bò), một năm bón 2 lần. Ngoài ra, họ còn sử dụng một số phân hữu cơ khác như Komix, Tân Hồng Lam, phân NPK
Tưới tiêu: chế độ tưới từ 3-5 ngày mới tưới một lần.
Tình hình sản xuất và sản lượng tại Phú Giáo, Bình Dương:
Theo số liệu cung cấp của trạm Bảo vệ Thực vật huyện Phú Giáo [1] hiện nay, theo thống kê toàn huyện Phú Giáo có 295 ha, trong đó diện tích trồng mới là 6 ha và diện tích cho sản phẩm (diện tích tiêu kinh doanh) là 287 ha. Năng suất trên diện tích cho sản phẩm khoảng 24,64 tạ / ha. Sản lượng thu hoạch là 707,2 tấn.
Đối với xã An Bình có 173,67 ha chiếm hơn 58% diện tích của cả huyện, với diện tích trồng mới là 2 ha, còn diện tích cho sản phẩm là 169,67 ha. Năng suất đạt 24,6 tạ/ ha. Sản lượng thu hoạch 407,2 chiếm hơn 57% sản lượng của cả huyện.
Tình hình dịch bệnh:
Hiện nay, tại Phú Giáo đang có dịch bệnh chết nhanh và chết chậm, đặc biệt là bệnh chết nhanh diễn ra ở diện rộng làm cho một số vườn tiêu bị chết sạch dẫn đến giảm diện tích trồng tiêu, gây thiệt hại kinh tế và gây tâm lý lo sợi cho người trồng tiêu làm cho họ có hướng chuyển đổi cây trồng khác như cao su, cây điều, cây khoai mì. Và diện tích trồng mới để phôi phục diện tích trồng tiêu không cao.
Hình 1.3 Một số hình ảnh về bệnh chết nhanh đang diễn ra ở Phú Giáo
1.1.7 Thành phần hóa học và giá trị sử dụng của hạt hồ tiêu
1.1.7.1 Thành phần hóa học của hạt tiêu
Trong hạt tiêu có 1,2-2% tinh dầu gồm monoterpene, sesquiterpene, và hợp chất alkaloid như piperine, piperetin, chavicin. Trong đó 5-9% piperin và 2,2-6% chanvixin. Piperin và chanvixin là 2 loại ankaloit có vị cay hắc làm cho tiêu có vị cay. Trong tiêu còn có 8% chất béo, 36% tinh bột và 4% tro.
Hồ tiêu cũng rất giàu vitamin C, thậm chí còn nhiều hơn cả cà chua. Một nửa cốc hồ tiêu xanh, vàng hay đỏ sẽ cung cấp tới hơn 230% nhu cầu canxi 1 ngày/ 1 người [23].
1.1.7.2 Giá trị sử dụng
- Thường dùng hạt tiêu đã rang chín, thơm cay làm gia vị. Tiêu thơm, cay nồng và kích thích tiêu hoá, có tác dụng chữa một số bệnh.
- Hạt tiêu cũng rất giàu chất chống oxy hóa, chẳng hạn như beta carotene, giúp tăng cường hệ miễn dịch và ngăn ngừa sự hủy hoại các tế bào, gây ra các căn bệnh ung thư và tim mạch.
- Dùng nhiều trong đời sống con người: gia vị thức ăn, y học (chất cay nóng kích thích dịch vị tiêu hóa, chống lạnh, nôn mửa, tiêu chảy), hương liệu (chất chính của tiêu là piperin 9%, nó bị thủy phân sẽ tạo acid piperic và piperidin), acid piperic bị oxy hóa bởi KMnO4 thành piperonal: đây là chất thơm đặc biệt dùng làm mỹ phẩm như nước hoa
- Dùng làm chất trừ côn trùng.
- Thương mại, xuất khẩu.
Hiệu quả kinh tế đối với người trồng tiêu rất lớn vì tiêu hiện rất được giá, trung bình 3.000 – 4.000 USD/tấn tiêu đen có khi khan hiếm giá tới 6.000 USD/tấn. Vấn đề quan trọng vẫn là tìm được thị trường. Ngoài ra tiêu dễ tồn trữ, nên người dân có thể giữ lại để bán khi giá cao.
1.2 Khái quát về tuyến trùng
Tuyến trùng còn gọi là giun tròn (Nematodes) là những động vật không xương sống thuộc ngành giun tròn (Nematoda hay Nemata). Đây là một trong các nhóm động vật đa dạng và phong phú nhất trên hành tinh của chúng ta. Sự phong phú và đa dạng của tuyến trùng thể hiện cả về số lượng loài, số lượng cá thể cũng như kiểu sống, phân bố và hệ sinh thái của chúng. Về số lượng loài tuyến trùng hiện được dự đoán có tới hàng triệu loài, ngang bằng hoặc chỉ đứng sau côn trùng. Tuy nhiên, về số lượng cá thể thì tuyến trùng là nhóm động vật luôn chiếm ưu thế (trung bình cứ 10 động vật đa bào thì có 8-9 thuộc về tuyến trùng). Tuyến trùng cũng luôn luôn có mặt và chiếm ưu thế trong mọi sinh cảnh. Số lượng tuyến trùng phân bố trong một số sinh cảnh đặc trưng như sau: đất trồng 3-30 triệu/m2 ; bãi cát ven biển 1.5 triệu/m2 ; tuyến trùng kí sinh Anguina tritici trong một nang (gall) ở lúa mì trung bình 18.000 cá thể và có thể đạt tới 90.000 cá thể; tuyến trùng ký sinh gây bệnh héo chết thông Bursaphelenchus xilophilus có thể đạt tới 15-20.000 cá thể trong vài gam gỗ; tuyến trùng ký sinh gây bệnh côn trùng Steinernema viobravis có thể đạt tới 300.000 cá thể trong một xác chết của sâu đục thân ngô (Heliothis zea).
Theo thống kê có khoảng 50% tuyến trùng sống ở biển (marine nematodes); 25% tuyến trùng sống tự do (free-living nematodes) và 25% nhóm tuyến trùng ký sinh (parasitic nematodes), trong đó 15% ký sinh ở động vật (animal-parasitic nematodes) và 10% ký sinh ở thực vật (plant-parasitic nematodes)
Tuyến trùng chia thành 2 nhóm: nhóm tuyến trùng sống tự do và nhóm tuyến trùng ký sinh:
Hầu hết các nhóm tuyến trùng sống tự do, trong đó phần lớn chúng sống ở trong đất, trong các thủy vực nước ngọt, bãi biển, thềm lục địa và ngay cả đáy các đại dương. Phần lớn tuyến trùng sống tự do dinh dưỡng bằng các loại sinh vật nhỏ như vi khuẩn, nấm và tảo. Một số dinh dưỡng bằng các chất nền tạo ra do hoạt động phân giải các chất hữu cơ. Các loại tuyến trùng biển thường có kích thước lớn hơn và cơ thể có cấu tạo nguyên thủy, phức tạp hơn so với các loài tuyến trùng sống ở nước ngọt và ở đất. Ở trong đất và nước tuyến trùng đóng vai trò như một mắt xích quan trọng trong chuỗi sinh thái của các hệ sinh thái đất và thủy vực. Trong chuỗi sinh thái này tuyến trùng đóng vai trò chủ yếu trong việc phân giải các chất hữu cơ thành các thành phần cơ bản. Như vậy bằng việc chuyển hóa một phần các chất hữu cơ này mà tuyến trùng trực tiếp tiêu thụ, chúng giúp cho việc duy trì các hệ sinh thái hoạt động liên tục và nhanh chóng.
Còn tuyến trùng ký sinh là nhóm tuyến trùng đã chuyên hóa với đời sống ký sinh ở động vật và thực vật.
Tuyến trùng ký sinh ở động vật có kích thước tương đối lớn, gây nhiều bệnh hiểm nghèo cho người và động vật cho nên là những đối tượng nghiên cứu sớm hơn cả. Từ thời Hy Lạp cổ đây khoảng 2700 năm trước công nguyên được danh y Hypocrates đề cập đến giun tròn lớn ký sinh ở ruột người là Ascaris. Và ngày nay có nhiều bệnh nan giải do giun tròn ký sinh ở người như: giun móc câu, giun chỉ trong mạch bạch huyết, giun bao nang trong cơ và giun mắt (Onchocerca) ở trong mắt.
Tuyến trùng ký sinh ở thực vật là các loài ký sinh gây hại ở thực vật. Trải qua quá trình tiến hóa tuyến trùng đã thích nghi và có mặt trong hầu hết các phần của thực vật như rễ, thân, lá, hoa, quả. Nhóm này có một số đặc trưng khác với nhóm tuyến trùng ký sinh ở động vật: có kích thước hiển vi; phần miệng có cấu tạo kim hút chuyên hóa để chích vào mô thực vật và hút chất dinh dưỡng; kích thước của trứng rất lớn so với kích thước của cơ thể; đời sống của chúng có quan hệ bắt buộc và trực tiếp với thực vật đang phát triển. Trong đó đặc điểm cấu tạo kim hút chuyên hóa là khác biệt quan trọng nhất [5].
Lịch sử nghiên cứu tuyến trùng
Con người biết đến tuyến trùng từ thời khai sinh các nền văn minh Trung Hoa và Ai Cập trước đây 5000 năm. Lúc đó, người ta chỉ nghĩ tuyến trùng như là một loại giun tròn ký sinh ở người và động vật, do chúng có ý nghĩa thực tiễn gắn với đời sống con người và cũng do có kích thước lớn mà chúng được phát hiện sớm hơn. Ngược lại, các loài tuyến trùng thực vật, tuyến trùng ký sinh gây bệnh côn trùng, sống tự do trong đất, nước và đặc biệt là tuyến trùng sống ở biển được biết đến muộn hơn. Cho đến sau khi O.Leewenhoek chế tạo ra kính hiển vi vào năm 1650, các phát hiện cũng chủ yếu trên các triệu chứng mắc bệnh ở người và động vật có liên quan đến loài giun tròn ký sinh ở người và động vật. Vào năm 1667, Robert Hooke thông báo về một loại giun lươn trên bột nhão (Panagrellus redivius), tác giả F.Redi (1684) đã soạn thảo các báo cáo về giun tròn ở các động vật có xương sống, trong đó có một số động vật mới như sư tử và cá. Mặc dù có một lịch sử khá lâu đời nhưng các nghiên cứu về tuyến trùng thực sư chín mùi từ năm 1743 khi một giáo sĩ có khuynh hướng khoa học tên là Needham đã bóc một hạt lúa mỳ bị dị tật, teo lại đưa vào một giọt nước và kiểm tra dưới kính hiển vi. Ông thực sự bất ngờ khi phát hiện ra vô số các động vật dạng sợi đang chuyển động xoắn vặn trong nước mà ông cho rằng chúng là những động vật nước và chúng có thể được gọi là giun hoặc lươn giống như những con lươn giấm được quan sát khoảng 90 năm trước đó. Phát hiện của ông đã được công bố vào năm 1745 và cũng chính phát hiện này đã giúp cho con người biết đến tuyến trùng như là một loài động vật đa dạng nhất trên hành tinh. Chúng có mặt trong hầu hết môi trường sống. Từ năm 1985 đến nay, tuyến trùng học truyền thống với đặc trưng là nghiên cứu hình thái và sinh thái học đã và đang chuyển sang các lĩnh vực nghiên cứu sâu hơn ở mức độ tế bào và phân tử với các công cụ hiện đại như kính hiển vi điện tử, kỹ thuật phân tử DNA (PCR, sequencing). Nhưng cũng do sự đa dạng về chủng loài và số lượng cá thể, môi trường sinh sống mà việc nghiên cứu tuyến trùng luôn luôn là điều mới mẻ cho khoa học nói chung và cho ngành tuyến trùng học nói riêng. Hàng loạt các phát hiện loài mới, các đặc tính của tuyến trùng đã góp phần phong phú thêm cho ngành tuyến trùng học trên toàn thế giới [5].
1.2.2 Phân loại tuyến trùng ký sinh thực vật
Theo động vật chí Việt Nam, dựa vào các đặc điểm cấu tạo hình thái, giải phẫu và tính chất ký sinh ở thực vật thì tuyến trùng ký sinh thực vật gồm có 4 nhóm liên quan đến 4 bộ tuyến trùng:
- Nhóm tylench bao gồm phần lớn các loài tuyến trùng của bộ Tylenchida (chỉ trừ một số loài tuyến trùng họ Tylenchidae);
- Nhóm aphelen bao gồm một số loài thuộc họ Aphelenchoidae bộ Aphelenchida;
- Nhóm longidorid bao gồm các loài thuộc họ Longidoridae bộ Dorylaimida;
- Nhóm trichodorid bao gồm các loài thuộc họ Trichodoridae của bộ Triplonchida.
Trong các nhóm trên thì tylench là nhóm tuyến trùng ký sinh đông đảo nhất và có tầm quan trọng nhất trên phạm vi toàn thế giới
Ngoài ra, một số nhóm tuyến trùng khác như Aphelenchus, Paraphelenchus là các nhóm tuyến trùng có liên quan đến thực vật nhưng vai trò ký sinh của chúng chưa được xác định rõ [6].
1.2.3 Tuyến trùng ký sinh thực vật (plant-parasitic nematodes)
Tuyến trùng ký sinh ở thực vật chủ yếu sống trong đất và có quan hệ chặt chẽ với thực vật (vật chủ) đang phát triển. Chúng ký sinh và sống ở tất cả các phần của thực vật như rễ, thân, lá, và các hoa của thực vật đang phát triển. Chúng có những tập quán dinh dưỡng rất khác nhau: dinh dưỡng trên bề mặt những mô ngoài của thực vật hoặc thâm nhập vào bên trong để ký sinh cây chủ tạo ra những nguồn dinh dưỡng phù hợp tại nơi chúng ký sinh. Chúng có thể gây ra nhiều biến đổi về cơ học cũng như về sinh lý, sinh hóa bất lợi đối với thực vật chủ. Do quá trình châm chích, di chuyển và dinh dưỡng trên cơ thể thực vật tuyến trùng ký sinh thường gây ra tổn thương cơ học như phá hủy mô, tạo ra các vết thương bề mặt và bên trong thân và rễ thực vật. Các quá trình sinh lý của thực vật như hút các chất khoáng trong đất, vận chuyển chất dinh dưỡng và khả năng quang hợp bị biến đổi hoặc bị phá hủy. Các biến đổi về sinh hóa thực vật do tuyến trùng ký sinh tiết ra các men tiêu hóa làm thay đổi các quá trình sinh hóa bình thường của cây. Ngoài tác hại trực tiếp như trên, tuyến trùng còn tạo điều kiện hoặc liên kết, tương hỗ với các tác nhân gây bệnh khác như nấm, vi khuẩn và virus, gây nên các bệnh khác nhau cho thực vật. Triệu chứng gây hại của một số tuyến trùng có thể dễ dàng quan sát được ở rễ, thân cây hoặc ở các phần trên mặt đất khác như lá và hoa.
Tuyến trùng bướu rễ là một đại diện cho nhóm tuyến trùng ký sinh thực vật. Tuyến trùng bướu rễ hay còn gọi tuyến trùng nốt sưng rễ (Meloidogyne sp.) được xem là loài gây hại phổ biến trên nhiều loài cây trồng. Quá trình ký sinh và gây bệnh của nhóm tuyến trùng này chỉ xảy ra trong bộ rễ của cây trồng. Tuyến trùng bướu rễ thường tạo từng bướu riêng lẽ hoặc từng chuỗi, làm giảm chiều cao cây, chiều dài rễ, cây có thể bị suy yếu và có thể bị chết ở thời kỳ cây con. Tuyến trùng bướu rễ giữ vai trò chủ đạo tạo ra vết thương cơ giới để mở đường thuận lợi hơn cho nấm và vi khuẩn xâm nhiễm tiếp theo và làm cây chết nhanh chóng với những triệu chứng hỗn hợp. Tuyến trùng bướu rễ giữ vai trò lan truyền cho các bệnh do vi sinh vật gây ra nhất là vào thời điểm cây lớn. Thực tế khi điều tra trên đồng ruộng thường bắt gặp cả hai triệu chứng bệnh hại cùng một lúc: một, rễ có bướu do tuyến trùng bướu rễ M.incognita; hai, do nấm gây bệnh như: Phytophthora parasitica var. nicotiana gây bệnh đen thân thuốc lá hoặc nấm Fusarium oxysporum gây bệnh héo vàng hoặc vi khuẩn Pseudomonas solanacearum gây bệnh héo xanh.
Hình thái và cấu tạo tuyến trùng thực vật
Về hình thái
Tuyến trùng thực vật có kích thước thân nhỏ bé: 0,5-5mm, nhỏ nhất là loài Greeffiella minutum, cơ thể dài 82 µm, đa số dưới 2mm. Hầu hết tuyến trùng khi thân cắt ngang bao giờ cũng có hình tròn không chia đốt, có dạng sợi chỉ hay hình thoi, không có phần phụ nào để di chuyển. Các loại tuyến trùng ít hoạt động có hình cầu và quả lê, những nhóm này ít hơn nhiều.
Tylenchulus (hình quả lê) Helicotylenchus (dạng giun/xoắn)
Pratylenchus (dạng giun) Heterodera (hình quả chanh)
Hirschmanniella (hình giun/dài) Meloidogyne (hình cầu/bầu)
Hình 1.4 Một số hình ảnh về tuyến trùng
Về cấu tạo
Thân thể tuyến trùng được chia làm ba phần:
- Phần đầu: có đầu và yết hầu.
- Phần giữa: chứa ruột giữa và các tuyến sinh dục.
- Phần đuôi: bắt đầu từ hậu môn. Hình dáng của đuôi là một đặc điểm quan trọng để phân loại tuyến trùng.
Vách thân tuyến trùng gồm 3 lớp: lớp cutin tương đối bền vững và có thể co giãn, trên vỏ cutin có các lỗ của hệ tiêu hóa, sinh dục, bài tiết, một số các lỗ khác của các cơ quan tiết hoặc thụ cảm khác nhau. Phía bên trong gắn với vỏ cutin là hạ bì và hệ cơ soma.
Bên trong thành cơ thể là xoang cơ thể chứa các tế bào khác nhau như hệ tiêu hóa và hệ sinh sản, mà thực chất là giả xoang, không được bao bọc bằng cấu trúc biểu mô và nó được tạo áp lực thường xuyên làm cho cơ thể tuyến trùng luôn ở trạng thái căng phồng lên nhờ áp lực này làm giảm tác động lên cơ soma và cho phép tuyến trùng di chuyển được.
Hệ thống thần kinh trung ương cũng liên quan rất chặt chẽ với vách thân. Hệ thần kinh của tuyến trùng gồm các bó thần kinh chạy dọc theo thân và được các vòng dây thần kinh nối liền với nhau.
Bộ máy tiêu hóa của tuyến trùng thực vật gồm ống ruột, bắt đầu từ miệng và kết thúc ở hậu môn nằm về phía bụng.
Tuyến trùng hại cây là những động vật phân giới rất rõ rệt. Bộ phận sinh dục của con cái và đực rất khác nhau. Hiện tượng lưỡng tính rất ít gặp. Bộ phận sinh dục của tuyến trùng gồm 2 ống cùng một lỗ dẫn chung ra ngoài. Con cái có lỗ sinh dục ở giữa thân, con đực ở ruột dưới.
Hình 1.5 Hình ảnh cấu tạo tuyến trùng đực và cái.
Chu kỳ sống của tuyến trùng
Tuyến trùng phát triển qua các giai đoạn sau: trứng (egg), ấu trùng (juvenile), trong đó ấu trùng được chia làm 4 dạng ( ấu trùng tuổi 1,2,3, và ấu trùng tuổi 4) và tuyến trùng trưởng thành (adult nematodes). Các giai đoạn phát triển của ấu trùng có khác nhau với một số loài tuyến trùng khác nhau. Ngoài ra chúng cũng chịu ảnh hưởng cơ bản của nhiệt độ và chất lượng chất nền trong môi trường như một nguồn cung cấp thức ăn cho tuyến trùng. Ở Adenophorea ấu trùng tuổi 1 nở ra từ trứng, còn ở Secernentea, các loài ký sinh thực vật thuộc bộ Tylenchida, ấu trùng tuổi 1 phát triển trong trứng và khi nở ra ngoài là ấu trùng tuổi 2. Cơ chế nở của tuyến trùng và vai trò của các chất kích thích khác nhau cũng như cơ chế giảm hoạt động của các quá trình sống. Ở hầu hết tuyến trùng, nhất là các nhóm ký sinh thực vật, quá trình nở trứng thường có liên quan chặt chẽ đến các chất tiết ra từ thực vật. Khi tạo ra sự thay đổi độ thấm của vỏ trứng, sự nở có thể xảy ra bằng một quá trình vật lý hoặc sinh hóa.
Quá trình nở trứng đến giai đoạn ấu trùng:
Mỗi một giai đoạn sinh trưởng trong chu kì phát triển của tuyến trùng bướu rễ tiến hành tuần tự kế tiếp nhau theo một trình tự nhất định.Trứng kết phôi và hình thành ấu trùng tuổi 1 ngay trong vỏ trứng, túi trứng tụt ra ngoài cơ thể con cái và nằm trên bề mặt của bướu rễ trong khi đó con cái vẫn nằm bên trong mô rễ. Phần đầu của ấu trùng tuổi 1 phát triển mạnh nhất, tiếp đó đến phần giữa thân và sau cùng là phần nữa thân sau và các cơ quan bên trong bắt đầu phát triển. Ấu trùng chui ra ngoài
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7.TONG QUAN TAI LIEU.doc