Khóa luận Cán cân vãng lai của Việt Nam những năm gần đây- Thực trạng và các biện pháp cải thiện

Mục lục

Lời nói đầu

Chương 1: Nội dung cán cân vãng lai của Việt Nam .

 1.1 Cán cân vãng lai .1

 1.2 Các cán cân bộ phận của cán cân vãng lai .2

 1.3 Nguyên tắc thiết lập cán cân vãng lai . 7

 1.4 Phân tích cán cân vãng lai . 7

 1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân vãng lai .13

Chương 2: Thực trạng cán cân vãng lai của Việt Nam trong những năm gần đây.

 2.1 Những khó khăn trong việc thiết lập và thu thập số liệu về

 cán cân vãng lai của Việt Nam .30

 2.2 Tổng quát về cán cân vãng lai của Việt Nam trong những năm qua .32

 2.3 Thực trạng cán cân vãng lai của Việt Nam .36

 2.4 Thâm hụt cán cân vãng lai và chênh lệch giữa tiết kiệm và

 đầu tư ở Việt Nam .56

Chương 3: Các biện pháp hữu hiệu nhằm đIều chỉnh cán cân vãng lai của Việt Nam hiện nay.

 3.1 Phương hướng mục tiêu điều chỉnh .66

 3.2 Các biện pháp hữu hiệu điều chỉnh cán cân vãng lai của

 Việt Nam .67

 3.2.1 Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu .67

 3.2.2 Các biện pháp hạn chế nhập khẩu .73

 3.2.3 Biện pháp điều chỉnh tỷ giá .76

 3.2.4 Các biện pháp thu hút tiết kiệm .79

 3.2.5 Các biện pháp thu hút chuyển tiền nước ngoài .81

3.2.6 Các biện pháp thu hút vốn nước ngoài .83

3.2.7 Các biện pháp điều chỉnh chi tiêu .87

 Kết Luận .94

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc95 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1808 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cán cân vãng lai của Việt Nam những năm gần đây- Thực trạng và các biện pháp cải thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nó mới được coi là giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, phát triển ngành này vẫn được Chính phủ quan tâm vì nó có khả năng thu hút một số lượng lớn lao động để giải quyết vấn đề thất nghiệp ở Việt Nam. Ngoài những mặt hàng xuất khẩu chính ở trên, những mặt hàng khác như cao su, cà phê, hạt điều…đã tăng một cách chắc chắn và một số đóng vai trò quan trọng trên thị trường thế giới. Năm 1995, với 2% thị trường thế giới Việt Nam đã tham gia vào Hiệp Hội các nước sản xuất cao su. Năm 1996, Việt Nam là quốc gia đứng thứ ba trên thế giới về xuất khẩu hạt điều và thứ sáu về xuất khẩu cà phê. Năm 2000, trong khi giá trị xuất khẩu của gạo và cà phê có giảm nhẹ từ 667 triệu USD xuống 501 triệu USD, thì giá trị xuất khẩu của các ngành thuỷ sản lại đang gia tăng từ 285 triệu USD lên 1497 triệu USD năm 2000. Sang năm 2001 và 2002, mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP có cao nhưng xuất khẩu lại tăng trưởng chậm. Kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực đều không tăng hoặc tăng thấp: dệt may tăng 5,7%; giày dép tăng 3,8%; gạo giảm 10%; hạt điều giảm 14%; máy tính linh kiện gảim 28%… Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự tăng trưởng thấp này đó là: Do khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam thấp, khả năng tiếp cận thị trường vốn và công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Các doanh nghiệp chưa tạo được chiến lược makerting, chưa tiếp cận và tìm hiểu thị trường thế giới tốt. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tăng về khối lượng nhưng lại giảm về giá trị: Cụ thể, trong năm 2001: cà phê, khối lượng xuất khẩu đạt 910 000 tấn, tăng 29% nhưng kim ngạch chỉ đạt 380triệu USD, giảm 20%; gạo xuất khẩu tăng hơn 50 000 tấn so với năm trước, nhưng kim ngạch lại chỉ có 460 triệu USD, bằng 90% so với năm 2000; hạt điều xuất khẩu cũng tăng hơn 50% nhưng kim ngạch lại giảm trên 19%…Ngành dệt may do giá gia công hàng xuất khẩu giảm mạnh nên mức giảm bình quân của các mặt hàng xuất khẩu là từ 15% - 20%. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu trong các năm qua đang giảm, nhưng phải công nhận một điều là xuất khẩu đã đóng góp rất nhiều vào sự phát triển của quốc gia, cụ thể: Tăng trưởng xuất khẩu cao và liên tục. Sự tham gia của các ngành, các thành phần kinh tế trong đó có đóng góp tích cực của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thị trường xuất khẩu mở rộng. Cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp chế biến. Một số mặt hàng chủ lực, đóng góp lớn cho tăng trưởng xuất khẩu dần dần được khẳng định. Nguyên nhân đạt được các kết quả trên là: Sự tăng trưởng của các ngành sản xuất là tiền đề quan trọng cho xuất khẩu, mà trước hết là các ngành nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp. Môi trường pháp lý từng bước được hoàn thiện đã khuyến khích các ngành, các thành phần kinh tế , trong đó có khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài yên tâm làm ăn. Nhà nước từng bước thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm tạo thông thoáng cho hoạt động xuất khẩu; trước hết là chính sách giá cả, chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách thuế… Cải cách về chính sách giá cả đã giúp cho sản xuất gắn bó với thị trường, người sản xuất đã có trách nhiệm với sản phẩm của mình, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm và cạnh tranh lành mạnh. Việc thống nhất tỷ giá bám sát với giá thị trường góp phần kích thích xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ, hạn chế tiêu cực trong kinh doanh… Việc xoá bỏ độc quyền của Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương đã tạo điều kiện cho nhiều thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu, trong đó có khu vực tư nhân. Do đó, số lượng các đơn vị xuất khẩu tăng lên nhanh chóng. Quyết định bãi bỏ giấy phép xuất nhập khẩu chuyến (Nghị định 89/CP ngày 15/12/1995) thể hiện quyết tâm thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu của Nhà nước. Các chính sách khác như hỗ trợ vốn tín dụng cho người xuất khẩu, giao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm cho nhà sản xuất, phận bổ hạn ngạch, quo-ta cho một số mặt hàng chủ lực gồm gạo, hàng dệt may, giầy dép …cũng tác động tích cực tới các hoạt động xuất khẩu. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế và khu vực không những đã mở rộng được thị trường xuất khẩu mà còn làm cho chính sách thương mại được tiến hành theo tiến trình minh bạch và nhất quán, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thông qua lịch trình giảm thuế. Những biến động thị trường và giá cả thế giới cũng có lợi cho xuất khẩu hàng hoá nước ta. Tuy mang tính khách quan nhưng yếu tố này không kém phần quan trọng vì nó tác động tới 2 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta là gạo và dầu thô. Bên cạnh đó vẫn còn có những hạn chế cần khắc phục như sau: Qui mô xuất khẩu còn nhỏ bé. Nếu so với một số nước ASEAN như Thái Lan, Philipin. Singapore thì mức xuất khẩu của ta còn thua tương đối xa. Trong tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thì sự đóng góp của khu vực kinh tế trong nước thấp hơn khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy cơ cấu hàng xuất khẩu đã thay đổi nhưng tỷ trọng hàng chế biến vẫn còn thấp. Do đó, khối lượng hàng xuất khẩu dù nhiều nhưng trị giá thấp, dễ gặp rủi ro. Thị trường tuy được mở rộng sang EU, Bắc Mỹ nhưng tỷ trọng hàng xuất khẩu vào khu vực này còn thấp, phần lớn là hàng nông sản và hàng gia công. Tuy Chính phủ và các cấp, các ngành đã quan tâm, điều hành có hiệu quả chính sách xuất khẩu trong giai đoạn 1990 đến nay, nhưng còn chưa đồng bộ và linh hoạt. Hoạt động Nhập khẩu: Tốc độ giảm kim ngạch nhập khẩu 15% vào năm 1991 đã được phục hồi vào năm 1992 với tốc độ tăng là 21,2% và nhanh chóng tăng lên tới 64,18% do chính sách mở cửa hướng về thị trường Châu á. Với tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1991-1996 là 38%, kim ngạch nhập khẩu cả thời kỳ đạt 34 tỷ USD. Thị phần nhập khẩu từ Châu á của Việt Nam tăng từ 37% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 1990 lên 61% vào năm 1991, thậm chí là 77% năm 1995 và năm 1996. Năm 1996, thị phần nhập khẩu từ ASEAN là 27%: các nước NICS Đông á trừ Singapore là 14%, Nhật Bản là 10%, Trung Quốc là 3%. Cơ cấu nhập khẩu thay đổi theo hướng tích cực. Mặc dù giá trị nhập khẩu ngày càng tăng, nhưng tỷ trọng hàng tiêu dùng lại giảm mạnh từ 14% năm 1991 xuống 12% năm 1995, và 10% năm 1996. Còn tỷ trọng nhập khẩu các mặt hàng phục vụ cho sản xuất tăng từ 86% năm 1991 lên 88% năm 1996. Trong đó, tỷ trọng nhập nguyên nhiên vật liệu cũng giảm dần từ 64% năm 1991 xuống 60% năm 1996, và tỷ trọng máy móc thiết bị cũng tăng dần đến giới hạn đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, từ 22% năm 1991 lên 28% năm 1996. (% GDP) Bảng 9: Tỷ lệ nhập khẩu của Việt Nam 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tỷ lệ nhập khẩu 64,18 26,0 43,84 38,94 -0,19 -1,09 1,1 34,4 2,3 Nguồn: số liệu Tạp chí Ngân hàng; số liệu của Ngân hàng thế giới Để tránh tình trạng nhập khẩu gia tăng như giai đoạn 1991-1995, từ tháng 5-1996, Chính phủ đã quy định giá trị nhập khẩu không được vượt quá 20% tổng giá trị xuất khẩu. Hơn nữa, nhập khẩu hàng tiêu dùng phải ký quỹ cao khi mở L/C (80% giá trị L/C). Với những hạn chế đó, hàng tiêu dùng so với tổng giá trị xuất khẩu giảm từ 25% xuống còn 11,27% trong năm 1997. Tuy nhiên, hàng tiêu dùng có thể có được giá trị thấp do hàng lậu đang phổ biến ở Việt Nam. Giải pháp mà Chính phủ đưa ra là quản lý chặt chẽ hàng lậu và bán sản phẩm sản xuất trong nước trên thị trường trong nước để tăng cầu kích thích sản xuất hàng hoá đó. Năm 1997, giá trị nhập khẩu của nước ta là 11,15 tỷ USD, không tăng so với năm 1996. Riêng giá trị nhập khẩu của hai năm 1997 và 1998 đã bằng giá trị nhập khẩu của cả thời kỳ 5 năm trước đó. Mức nhập siêu đã giảm từ 3,9 tỷ USD năm 1996 xuống 2,35 tỷ USD năm 1997. Nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2,9 tỷ USD, chiếm 26% tổng trị giá nhập khẩu. Nhập khẩu phục vụ gia công đạt 2,05 tỷ USD, chiếm 18,4% tổng giá trị nhập khẩu. Mặt hàng tiêu dùng nhập khẩu Nhà nước đạt 474,35 triệu USD chiếm 4,26% tổng giá trị nhập khẩu. Vàng và ngoại tệ nhập khẩu trị giá 299,8 triệu USD, trong đó vàng nhập khẩu 4,44 tấn trị giá 50,5 triệu USD. Sang năm 1998, tổng giá trị nhập khẩu cả Việt Nam giảm 1,1% so với 97, đạt 11,5 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các mặt hàng trên giảm, đặc biệt nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm đến hai con số (16%) chủ yếu là do suy giảm nguồn vốn FDI do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực. Trong các năm tiếp theo, nền kinh tế thế giới vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng xảy ra vào tháng 7-1997, đặc biệt là sau sự kiện Côxôvô, nên cung không tăng nhiều, cầu sản xuất và tiêu dùng lại giảm mạnh ở các nước gặp khủng hoảng, dẫn đến thương mại thế giới giảm. Nhập khẩu của Việt Nam cũng giảm mạnh -1,09% năm 1998 và 1,1% năm 1999. Tuy nhiên, do nhu cầu nhập khẩu trong các năm 2000, 2001 và 2002 tăng mạnh nên tỷ lệ nhập khẩu lại tăng vọt lên 30,78% làm giảm kim ngạch xuất nhập khẩu, dẫn đến cán cân vãng lai và cán cân thương mại bị suy giảm đi. Nguyên nhân là do tốc độ tăng trưởng kinh tế đang dần phục hồi, nên nhu cầu nhập khẩu hàng hoá cũng tăng theo, đặc biệt là đáp ứng nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất. Đáng lưu ý là nhập siêu trong 11 tháng đầu năm 2002, lên đến 2.304 triệu USD, gấp 2 lần số nhập siêu 2000, 2001, và tỷ lệ nhập siêu lên đến 15,4%. Nhìn lại những năm qua, cùng với những kết quả đạt được của hoạt động xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu cũng đạt được một số kết quả khả quan sau: Nhập khẩu đã hướng vào mục tiêu chủ yếu là phục vụ chiến lược phát triển xuất khẩu và đáp ứng yêu cầu thiết yếu của sản xuất, tiêu dùng trong nước. Cơ cấu nhập khẩu thay đổi theo hướng tăng nhập khẩu tư liệu sản xuất, giảm nhập khẩu hàng tiêu dùng. Thị trường nhập khẩu mở rộng, chất lượng hàng nhập khẩu được nâng cao, góp phần đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. Sở dĩ hoạt động nhập khẩu đạt được những kết quả trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau: Chính sách quản lý ngoại hối của Nhà nước đã tập trung vào quản lý nguồn ngoại tệ cho yêu cầu nhập khẩu phục vụ và các cân đối lớn của nền kinh tế, kiểm soát nhập khẩu hàng tiêu dùng và ổn định thị trường ngoại tệ trong nước. Chính sách thuế đã góp phần tích cực trong việc khuyến khích, bảo hộ sản xuất trong nước và kiểm soát nhập khẩu theo định hướng của Nhà nước. Chính sách phi thuế cũng đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát nhập khẩu. Để hỗ trợ kiểm soát nhập khẩu thông qua thuế, Chính phủ đã áp dụng các biện pháp như phân bổ hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu các mặt hàng trong nước đã sản xuất được, qui định danh mục hàng tiêu dùng cần được nhập khẩu, nâng cao tiền đặt cọc L/C…. B. Quan hệ thương mại với các quốc gia và vùng lãnh thổ: Một sự thay đổi quan trọng đối với Việt Nam đó là cơ cấu các bạn hàng của Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều thay đổi. Các mối quan hệ đã được mở rộng ra không chỉ dừng lại ở các nước xã hội chủ nghĩa như trước đây, mà bây giờ đã thiết lập mối quan hệ với tất cả các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Pháp, Anh, Canađa… Việc tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, ASEAN…đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội thuận lợi, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế. Kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và các nước đã tăng lên rõ rệt. Trong giai đoạn 1991-1994, chính sách mở cửa của Việt Nam sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã là hướng về thị trường Châu á: tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường này tăng từ 43% năm 1991 lên 72% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1995, và luôn dao động ở mức này trong suốt thời kỳ 1992-1996 (Nhật Bản 13%; ASEAN: 34%; Trung Quốc: 5%). Riêng xuất khẩu sang thị trường ASEAN: tăng từ 15% năm 1990 lên 24% năm1996, và là 33% năm 2000. Trong khi đó vẫn ngày càng gia tăng tỷ trọng xuất khẩu sang các thị trường Châu Âu mà chủ yếu là các thị trường Tây Âu, Châu Mỹ và Châu úc. Thị trường nhập khẩu của Việt Nam từ Châu á, đặc biệt là ASEAN tăng lên rất nhanh từ 37% năm 1990 lên 77% tổng giá trị nhập khẩu năm1996. Trong các năm 1999, năm 2000 và năm 2001 tỷ lệ xuất khẩu của Việt Nam vào các khu vực khác vẫn gia tăng, tuy nhiên mức độ gia tăng thấp. Bảng 10: Cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam đối với thế giới (Đv :%) 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng xuất khẩu Châu á (ASEAN) Châu âu Châu Mỹ Châu Phi Châu úc Tổng nhập khẩu Châu á (ASEAN) Châu âu Châu Mỹ Châu Phi Châu úc 100 74 22 15 1 1 1 100 65 38 17 1 0 1 100 73 22 14 3 0 1 100 69 34 18 1 0 1 100 72 22 14 3 0 1 100 67 29 18 1 0 1 100 72 20 18 4 1 1 100 77 29 13 2 0 1 100 72 24 16 4 0 1 100 77 27 15 3 0 1 100 48 26 42 3 0 1 100 75 27 26 4 0 2 100 59 25 28 6 0 5 100 79 32 16 3 0 2 100 61 28 29 7 1 2 100 81 39 16 1 1 1 100 66 33 29 3 0 2 100 83 41 15 1 0 1 Nguồn: số liệu Tổng cục thống kê; số liệu Hải Quan Trong những năm qua, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là nông sản và sản phẩm khoáng sản. Những hàng hoá này có một số đặc điểm: thứ nhất, hàng nông nghiệp và tự nhiên là các sản phẩm thô có hệ số co dãn theo giá thấp trên thị trường. Thứ hai, các sản phẩm công nghiệp nhẹ như các sản phẩm giầy dép và quần áo yêu cầu giá trị lớn nguyên liệu đầu vào. Hơn nữa, như đã phân tích ở trên, các bạn hàng chủ yếu của Việt Nam là các nước Châu á. Trong phạm vi liên kết khu vực trong những năm tới, thuế quan và hàng rào phi thuế quan sẽ được dỡ bỏ, do đó, các nhà xây dựng chính sách phải tìm ra các biện pháp khác để mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu chú ý đến các thị trường như Hoa Kỳ, Tây Âu và Nhật Bản nhằm tăng thêm nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia, bù đắp thâm hụt cán cân thương mại. 2.3.2 Cán cân dịch vụ 2.3.2.1 Hiện trạng phát triển: Những năm gần đây, các ngành dịch vụ nói chung và bưu chính viễn thông, vận tải, tài chính ngân hàng nói riêng đã có những bước phát triển nhanh và mạnh. Mạng lưới viễn thông của Việt Nam đã được số hoá 100%, với trình độ công nghệ cao, đảm bảo cung cấp kịp thời các dịch vụ truyền thống và các dịch vụ mới. Ngoài doanh nghiệp chủ đạo là Tổng công ty Bưu chính viễn thông (VNPT), trên thị trường viễn thông của ta đã có thêm một số nhà khai thác mới như: Công ty phát triển đầu tư công nghệ (SPT); Công ty viễn thông quân đội (Vietel); Công ty điện toán và truyền số liệu (VDC)… Hàng không Việt Nam đã vận chuyển được gần 13 triệu khách hàng và cung cấp gần 215 000 tấn hàng hoá. Sản lượng vận tải biển tăng liên tục từ gần 4,9 triệu tấn (năm 1996) lên hơn 9 triệu tấn (năm 1999) cho thấy năng lực vận tải của đội tàu trong nước đã ngày càng tăng. Nhưng nếu xét trên tổng giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu trong thời gian qua thì thị phần của doanh nghiệp nước ta còn nhỏ. Dịch vụ tài chính - ngân hàng, trước hết là dịch vụ bảo hiểm, mặc dù đã đạt những kết quả khả quan, nhưng phạm vi và qui mô còn nhỏ. Tổng doanh thu phí bảo hiểm năm 2000, chỉ đạt 0,86% GDP. Dịch vụ ngân hàng trong thời gian qua cũng rất phát triển, hoạt động của hệ thống ngân hàng phong phú cả về nội dung, hình thức đã góp phần không nhỏ vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tính đến năm 2000, vốn huy động tăng gấp hơn 1000 lần so với năm 1986, tuy vậy đây vẫn là con số khiêm tốn so với yêu cầu mà nền kinh tế đặt ra đối với ngành ngân hàng. Vai trò của hệ thống ngân hàng chưa thực sự trở thành huyết mạch đối với nền kinh tế. Tổng số tài sản của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam chỉ tương đương 38% GDP, tổng dư nợ tín dụng là 22%GDP và tổng số tiền gửi chiếm khoảng 20% GDP (năm 2000). Điều này cho thấy mức độ tiền tệ hoá của thệ thống tài chính nước ta còn thấp. Do vậy, trong tương lai chúng ta cần đưa ra các giải pháp giúp cải thiện các hoạt động dịch vụ nhằm tăng thu cho ngân sách, đồng thời cũng là biện pháp cải thiện cán cân vãng lai. 2.3.2.2 Các giải pháp thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ: Cơ chế quản lý Nhà nước về thương mại dịch vụ là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của ngành này. Nhà nước cần quản lý hoạt động dịch vụ bằng pháp luật theo nguyên tắc tuân thủ pháp luật Việt Nam và các qui định của Nhà nước về quản lý kinh tế; Các Bộ, ngành phải tiến hành xây dựng định hướng chiến lược phát triển dịch vụ của các ngành mình ổn định lâu dài và phù hợp với định hướng phát triển kinh tế chung. Trong quá trình hoàn thiện các cơ chế, thể chế phải đặc biệt quan tâm đến các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn, có giá trị ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển dịch vụ trong cả nước. Cụ thể: Đối với dịch vụ bưu chính viễn thông, sớm hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về bưu chính viễn thông. Chú trọng công tác định hướng với dự báo; thiết lập các tiền đề cần thiết cho bưu chính viễn thông; tin học trong quá trình Việt Nam tham gia AFTA, APEC, WTO… Sắp xếp lại các doanh nghiệp trên cơ sở phân định lại hình doanh nghiệp, thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp viễn thông tin học theo lộ trình cụ thể. Cần xác định các biện pháp cơ bản của ngành nhằm vào các mục tiêu chiến lược xuất khẩu, nhập khẩu tạo, cơ sở hạ tầng thiết thực cho hoạt động kinh doanh phục vụ xuất khẩu của các doanh nghiệp. Xây dựng chính sách thương quyền về bưu chính viễn thông đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Đối với vận tải hàng không, thực hiện chính sách điều tiết mở cửa thị trường, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế về vận tải hàng không theo hướng tự do hoá một cách liên tục phù hợp với lộ trình phát triển của lực lượng hàng không Việt Nam, giảm dần sự bảo hộ và can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào quá trình cạnh tranh… Khuyến khích các hãng hàng không nước ngoài khai thác các chuyến bay quốc tế đến Việt Nam để tăng thu ngoại tệ cho quốc gia. Đối với dịch vụ vận tải biển, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ giá cước vận tải hàng hoá xuất khẩu bằng đường biển trong thời gian đầu nhằm giảm khó khăn và nâng cao sức cạnh tranh của ngành vận tải biển trong nước trong thời gian tới. Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp mua tàu của nước ngoài , có chính sách miễn giảm một số loại thuế và phí cho việc vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu của đội tàu biển Việt Nam nhằm nâng cao sức cạnh tranh với các đội tàu nước ngoài. Đối với dịch vụ bảo hiểm, tiếp tục ban hành các văn bản pháp quy thi hành luật kinh doanh bảo hiểm, chú ý đến việc mở rộng điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp trong việc tạo ra những dịch vụ bảo hiểm mới, tạo điều kiện để các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sử dụng vốn có hiệu quả, mở rộng sự tham gia của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, trong đó ấn định rõ những tiêu chuẩn cao như mức vốn, uy tín, kinh nghiệm để lựa chọn những doanh nghiệp có đủ tầm cỡ hay uy tín tham gia thị trường bảo hiểm Việt Nam. Đối với dịch vụ ngân hàng, cũng phải tiếp tục hoàn thiện bộ máy và cơ chế quản lý của ngân hàng Nhà nước; sửa đổi cơ chế quản lý ngoại tệ và cơ chế điều chỉnh tỷ giá hối đoái, từng bước làm cho đồng tiền Việt Nam tự do chuyển đổi; từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất và tỷ giá hối đoái để thực hiện sự kiểm soát gián tiếp của Nhà nước thông qua các công cụ chính sách tiền tệ; hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ngân hàng, của các tổ chức khác như cho vay, thu hồi nợ của hệ thống kho bạc Nhà nước, các chương trình cho vay theo các dự án… Mở rộng sự tham gia của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng nước ngoài nhất là những lĩnh vực chúng ta cần mạnh dạn khuyến khích như cho vay, thuê mua tài chính, phát triển các loại dịch vụ mới như thẻ tín dụng… 2.3.3 Cán cân thu nhập : Theo nguyên tắc kế toán được IMF đưa ra, các khoản thu nhập của người lao động như tiền lương, tiền thưởng… và thu nhập đầu tư được coi như thu nhập và lợi nhuận của các yếu tố. Nhưng do thiếu sót thống kê, các số liệu về thu nhập lao động không có sẵn. Do đó, trong cán cân vãng lai của Việt Nam khoản thu nhập yếu tố chỉ bao gồm thu nhập đầu tư. Thu nhập đầu tư của Việt Nam chủ yếu là tiền lãi của các khoản tiền gửi của những người cư trú Việt Nam ở các ngân hàng nước ngoài (không cư trú). Tuy nhiên, những khoản đó rất bé do tài sản ở nước ngoài của Việt Nam không nhiều. Trái lại, những khoản phải trả cho thu nhập đầu tư ngày càng tăng lên do phải trả lãi cho các khoản nợ nước ngoài. Những khoản nợ này rất lớn, hàng năm Việt Nam phải trả lãi khoảng mấy trăm triệu USD. Thêm vào đó, những khoản chuyển lợi nhuận đầu tư cũng tăng lên trong những năm gần đây khi các dự án FDI đưa vào hoạt động sau vài năm . Do cả tăng trong tiền lãi và chuyển lợi nhuận làm cho thu nhập đầu tư bị thiếu hụt từ 300 triệu USD đến 400 triệu USD mỗi năm trong giai đoạn 1990-199, và lên hơn 600 triệu năm 1997-1998. 2.3.4 Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều : Số lượng thiếu hụt cán cân vãng lai đã giảm đi do thặng dư trong chuyển giao vãng lai một chiều. Trong đó, chuyển tiền tư nhân là luồng vốn quan trọng. Về bản chất trong chuyển giao của Việt Nam không phải là tiền lương của người Việt Nam làm việc ở các nước Đông Âu. Mà hiện nay chủ yếu là chuyển tiền của người Việt Nam sống ở nước ngoài (kiều hối). Do bỏ thuế chuển tiền từ năm1995, từ một thặng dư nhỏ 90 triệu USD năm 1991 đã nhảy vọt lên 1200 triệu USD năm 1996 và 1122 triệu USD năm 1998 và ngày càng tăng. Do có một khoản thặng dư lớn nên chuyển giao đã trở thành một nguồn tài trợ quan trọng cho thâm hụt cán cân thương mại. Do nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn kiều hối, Chính phủ đã có những biện pháp thích hợp để thu hút thêm kiều hối. Từ chỗ người nhận kiều hối ở trong nước bắt buộc phải bán ngoại tệ cho ngân hàng theo tỷ giá qui định, chỉ được nhận nội tệ, đã thay đổi bằng việc tự họ được nhận ngoại tệ hay bán cho ngân hàng lấy tiền đồng Việt Nam. Đây cũng là nghiệp vụ được các ngân hàng thương mại tích cực mở rộng để tăng nguồn thu, đẩy mạnh cạnh tranh với tư nhân trong việc chuyển kiều hối. Cũng từ tháng 9 năm 2002, Ngân hàng Nhà nước đã sửa đổi Thông tư số 02/2000 về việc khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước cho phép các tổ chức tín dụng làm đại lý cho các tổ chức kinh tế và tổ chức tín dụng khác được nhận chi trả ngoại tệ, không phải xin phép Ngân hàng, mà chỉ cần gửi bản sao hợp đồng đại lý cho chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố. Như vậy, có thể thấy, cơ chế quản lý ngoại hối, điều hành tỷ giá và mở rộng dịch vụ ngân hàng đã có tác động rất tích cực đến việc thu hút kiều hối về Việt Nam. Trong năm 2000, lượng kiều hối chuyển qua ngân hàng đạt 950 triệu USD, chiếm 54,6%; qua các doanh nghiệp 165 triệu USD, chiếm 9,3%; hải quan 610 triệu USD, chiếm 34,7%; qua bưu điện 32 triệu USD, chiếm 1,82%. Trong năm 2001, mặc dù bị ảnh hưởng bởi sự kiện 11/9/2001 tại nước Mỹ, nhưng ước tính tổng lượng kiều hối chuyển về nước cũng đạt 1.809 triệu USD; trong đó chuyển qua ngân hàng chiếm khoảng 60%. Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, lượng kiều hối chuyển về nước trong năm 2002 ước đạt 2,4 tỷ USD, tăng hơn 14% so với năm ngoài. Riêng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, lượng kiều hối chuyển về qua các ngân hàng trong năm 2002 ước đạt 1,4 tỷ USD. Mặt khác, chính sự tiện ích và mức độ an toàn cao của dịch vụ chuyển tiền qua ngân hàng đã tạo sức hút mạnh. Trong khi vận chuyển tiền bằng con đường khác có thể phải chịu phí đến 4-5% thì chuyển tiền qua ngân hàng phí rất thấp, chỉ bằng 1-1,5% tổng số tiền. Thậm chí có ngân hàng không thu phí nếu người nhận bán lại ngoại tệ cho ngân hàng. Điều đáng mừng là phần lớn lượng kiều hối chuyển về nước thông qua hệ thống ngân hàng. Hiện nay chỉ có một số ít kiều bào thiếu thông tin về hệ thống dịch vụ kiều hối của các ngân hàng trong nước mới chuyển kiều hối qua con đường không chính thức. Đồng thời, nhờ chênh lệch tỷ giá và thị trường tự do không đáng kể nên phần lớn người nhận kiều hối đã bán lại ngoại tệ cho các ngân hàng. Tuy nhiên, một số ngân hàng thương mại cho rằng, lượng kiều hối chuyển về nước sẽ còn cao hơn nũa nếu một số vướng mắc hiện nay được khắc phục, chẳng hạn: qui định kiều hối chuyển về bằng ngoại tệ nào thì ngân hàng phải chi trả cho người nhận loại ngoại tệ đó mà không được qui đổi theo yêu cầu.., chú trọng hơn nữa vào việc quảng bá các dịch vụ chuyển tiền. Kiều hối hiện đang là một trong những nguồn cung qua trọng, giúo cung cầu ngoại tệ ổn định dù nhập siêu trong cả nước năm 2002 là rất lớn. ở trên, chúng ta đã phân tích toàn bộ cán cân vãng lai trong giai đoạn 1990-2002. Và nhận thấy rằng thâm hụt cán cân vãng lai không phải chỉ do thiếu hụt cán cân thương mại mà còn phụ thuộc vào các khoản dịch vụ cũng như các chuyển giao vãng lai một chiều. 2.4 Thâm hụt cán cân vãng lai và chêch lệch giữa tiết kiệm và đầu tư ở Việt Nam. Cán cân vãng lai được đo bằng chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư của toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, cán cân vãng lai có thể biểu diễn như sau: CA = Y - C - I (do Y = C + I + CA) hay CA = S - I Trong đó: Y là thu nhập quốc dân; C là tiêu dùng quốc gia. I là đầu tư quốc gia. S là tiết kiệm quốc gia. Nếu tách tổng tiết kiệm (S) và đầu tư (I) của toàn bộ nền kinh tế thành các phần thuộc về khu vực Chính phủ và tư nhân. Ta có: CA = (Sp + Sg) - (Ip + Ig) CA = (Sp - Ip) + (Sg - Ig) Hay có thể nói cách khác, cán cân vãng lai bằng chênh lệch tiết kiệm đầu tư khu vực tư nhân cộng với chênh lệch đầu tư khu vực Chín

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan tot nghiep.DOC
  • docBia.doc
  • docLoi noi dau.doc
  • docMuc luc.doc
  • doctµi liÖu tham kh¶o.doc
Tài liệu liên quan