MỞ ĐẦU.1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN.3
1.1. Tổng quan về nước rỉ rác.3
1.1.1. Sự hình thành nước rỉ rác .3
1.1.2. Đặc điểm nước rỉ rác .5
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thành phần, tính chất nước rỉ rác .10
1.1.4. Ảnh hưởng của nước rỉ rác tới môi trường và sức khỏe con người.13
1.1.5. Đặc điểm bãi rác Nam Sơn .14
1.1.6. Các công trình nghiên cứu về xử lí nước rỉ rác .15
1.2. Tổng quan về chất rắn lơ lửng (TSS) và độ màu.17
1.2.1. Khái niệm .17
1.2.2. Ảnh hưởng của TSS và độ màu .18
1.2.3. Các công trình nghiên cứu xử lí TSS và độ màu.19
1.3. Tổng quan về phương pháp lọc sinh học.22
1.3.1. Phân loại phương pháp lọc sinh học.22
1.3.2. Phương pháp lọc sinh học với lớp vật liệu ngập trong nước.24
1.3.3. Ứng dụng của lọc sinh học trong xử lý môi trường .29
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ NỘI DUNG NGHIÊN
CỨU .32
2.1. Đối tượng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu.32
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu.32
2.1.2. Mục tiêu nghiên cứu .32
2.2. Phương pháp nghiên cứu .32
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu .32
2.2.2. Phương pháp phân tích .32
2.2.3. Phương pháp thực nghiệm .33
2.3. Nội dung nghiên cứu.36
62 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 14/02/2022 | Lượt xem: 460 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiên cứu xử lý tss và độ màu trong nước rỉ rác bằng phương pháp lọc sinh học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
măng và đá xây dựng.
Bảng 1.5. Đặc tính nước rỉ rác Nam Sơn
Chỉ tiêu Đơn vị Giá trị
pH - 8,31
COD mg/L 6.400
NH4+ mg/L 1.613
PO4- mg/L 17,4
Ca2+ mg/L 25,6
Mg2+ mg/L 65,7
TN mg/L 354
TP mg/L 22
(Nguồn Nguyễn Mạnh Khải và cộng sự, 2012)
Bãi rác có hệ thống thu gom nước rỉ rác từ các giếng khoan và hệ thống thu
và xả vào các hồ sinh học, mỗi ngày hồ chứa tiếp nhận gần 2000 m3 nước rỉ. Tuy
nhiên, công suất xử lý của nhà máy chỉ khoảng 1500 m3/ngày. Chính vì vậy, nhà
máy xử lý nước rỉ rác Nam Sơn trở nên quá tải. Mặt khác, bãi rác xây dựng gần khu
dân cư nên ảnh hưởng tới sinh hoạt của người dân.
1.1.6. Các công trình nghiên cứu về xử lí nước rỉ rác
1.1.6.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Tô Thị Hải Yến và các cộng sự [9] với công trình “Thúc đẩy nhanh quá trình
phân hủy vi sinh rác và nước rỉ rác bằng thay đổi chế độ vận hành và môi trường
hóa học trong bãi chôn lấp” đã cho thấy, khi chôn lấp rác thải sinh hoạt có thành
phần lignin tới 15,2% trọng lượng khô làm phát thải khí metan không có lợi về kinh
tế và môi trường. Với việc bổ sung thêm môi trường sunfat nhằm tạo điều kiện để
phân hủy thành phần hữu cơ thể rắn trong rác chuyển sang dạng lỏng trong nước rỉ
rác, vô cơ hóa thành phần chất hữu cơ khó phân hủy sinh học trong nước rỉ rác.
Trong môi trường sunfat, hệ thống chỉ thực sự phát huy tác dụng từ ngày thứ 95 của
16
chu trình chôn lấp rác. Ngoài ra nhóm tác giả cũng đã cho thấy rằng việc tuần hoàn
nước rỉ rác tạo khả năng oxy hóa – khử mạnh hơn cho môi trường phân hủy vi sinh
các chất hữu cơ trong rác ở thể rắn và vô cơ hóa chất hữu cơ ở thể lỏng.
Quý Tùng và cộng sự [12]đã nghiên cứu “Xử lý nước rỉ rác bãi rác Thùy
Phương (Huế) bằng tác nhân UV - FENTON trong thiết bị gián đoạn”. Tính phân
hủy sinh học của nước thải sau quá trình xử lý tăng lên đáng kể, tỷ lệ BOD5/COD
tăng từ 0,15 đến 0,46. Kết quả khả quan với hiệu suất xử lý COD đạt 71% và màu
nước rỉ rác đạt 90% ở điều kiện tối ưu: pH = 3, nồng độ H2O2 = 125 mg/L, nồng độ
Fe2+ = 50 mg/L sau thời gian lưu 2 giờ.
Trần Mạnh Trí [10] đã áp dụng quá trình oxy hóa nâng cao (AOPs) để xử lý
nước rỉ rác đã qua xử lý sinh học ở nhà máy xử lý nước rỉ rác Gò Cát. Tác giả đã sử
dụng quá trình Keo tụ - Tạo phức - Fenton - Perozon để xử lý nước rỉ rác sau phân
hủy sinh học kỵ khí trong bể UASB (COD = 5424 mg/L) ở hệ thống xử lý nước rỉ
rác Gò Cát. Quá trình keo tụ/Fenton được thực hiện bằng cách bổ sung polyferic
sunphat (300 mg Fe3+/L) và sau khuấy nhanh bổ sung tiếp 500 mg H2O2/L vào và
khuấy chậm 120 phút. Với quá trình xử lý này, hiệu suất xử lý COD rất cao (đạt
76%). Sau quá trình Keo tụ - Tạo phức - Fenton, nước rỉ rác tiếp tục được xử lý
bằng Perozon đã xử lý được 97% các chất hữu cơ trong nước rỉ rác.
1.1.6.2. Các công trình nghiên cứu trên thế giới
Top và cộng sự [23] đã nghiên cứu xử lý nước rỉ rác của một nhà máy tại
Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) bằng phương pháp keo tụ điện hóa kết hợp với lọc màng
nano. Nồng độ trung bình của COD, nitơ tổng và amoni trong nước rỉ rác ban đầu
có giá trị lần lượt là 6200; 587,5 và 110 mg/L. Kết quả nghiên cứu cho thấy cường
độ dòng điện hợp lý là 15,9 mA/cm2 và thời gian xử lý hợp lý là 30 phút sẽ làm
giảm tối đa COD, màu sắc, và loại bỏ phốtpho tương ứng là 45%, 60% và 91,8%.
Tizaoui cùng cộng sự [21] đã nghiên cứu sử dụng phương pháp ozon hóa và
ozone kết hợp với hydrogen peroxide để xử lí nước rỉ rác tại Tunisia, được đặc
trưng bởi COD cao, khả năng bị phân hủy sinh học thấp và màu sắc tối. Kết quả thu
được cho thấy rằng hiệu quả ozon hóa đã gần như tăng gấp đôi khi kết hợp với
17
hydrogen peroxide khi nồng độ H2O2 là 2 g/L, nhưng khi nồng độ H2O2 cao hơn
2g/L lại cho hiệu quả thấp. pH có thể thay đổi không đáng kể do tác dụng của đệm
bicarbonate. Nồng độ sulphate cũng giảm nhẹ. Ngược lại, nồng độ chloride ban đầu
thì giảm, nhưng sau một thời gian thí nghiệm lại tăng lên để đạt được giá trị ban đầu
của nó. Kết quả so sánh chi phí vận hành của 2 phương pháp cho thấy các hệ thống
H2O2/O3 tại H2O2 nồng độ 2 g/L cho chi phí thấp nhất khoảng ~2.3 USD/kg COD
được loại bỏ.
Hệ thống xử lý nước rỉ rác được nghiên cứu bởi Ushikoshi cùng cộng sự [24]
đã được lắp đặt tại Yachiyo Town ở quận Kanto của Nhật Bản, được đưa vào phục vụ
vào tháng Tư năm 1999. Hệ thống này được trang bị module màng thẩm thấu ngược
(RO) dạng đĩa - ống được gọi là DT - Module, đã hoạt động một cách hiệu quả trong
nhiều năm qua, nước sau xử lý đạt chất lượng rất cao. Mặt khác tại Nhật Bản, vấn đề
dioxin đã trở nên ngày càng nghiêm trọng, có mặt rất phổ biến trong các nước rỉ rác
và hệ thống DT - Module cho thấy hiệu suất rất cao trong việc loại bỏ dioxin từ nước
rỉ rác. Bằng cách áp dụng hệ thống DT - Module cùng với hệ thống lò thiêu kết đã tạo
ra một hệ thống xử lý nước rỉ rác hoàn chỉnh: dioxin trong bùn từ các bể lắng và muối
khô trong pha đặc của hệ thống RO được tiêu hủy trong lò thiêu kết với tỷ lệ loại bỏ
dioxin bởi hệ thống DT - Module kết hợp lò thiêu kết là trên 99,9%.
1.2. Tổng quan về chất rắn lơ lửng (TSS) và độ màu
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm về TSS
Chất rắn lơ lửng (các chất huyền phù) là các hạt nhỏ (hữu cơ hoặc vô cơ)
không tan trong nước. Khi vận tốc của dòng chảy bị giảm xuống (do nó chảy vào
các hồ chứa lớn) phần lớn các chất rắn lơ lửng sẽ bị bị lắng xuống đáy hồ, những
hạt không lắng được sẽ tạo thành độ đục (turbidity) của nước. Các chất lơ lửng hữu
cơ sẽ tiêu thụ oxy để phân hủy làm giảm DO của nguồn nước. Các cặn lắng sẽ làm
đầy các bể chứa làm giảm thể tích hữu dụng của các bể này (Lê Hoàng Việt, 2003).
TSS được sử dụng như là một chỉ số về chất lượng nước. Trong TSS có thể
chứa các độc chất như là axit sunphat đồng, oxit đồng, những độc chất thuộc clor,
chất hữu cơ photpho, oxit nhôm, oxit sắt
18
1.2.1.2. Khái niệm về độ màu
Màu của nước chủ yếu là do chất mùn, các chất hòa tan, keo hoặc do các sản
phẩm từ sự pân hủy các chất hữu cơ tạo nên. Bên cạnh đó, sự có mặt của một số ion
kim loại có màu ( Fe,Mn...), một số loài thủy sinh (tảo, rêu...) hay nước thải sinh
hoạt và các chất thải công nghiệp khác cũng làm cho nước có màu.
Độ màu trong nước biểu thị giá trị cảm quan về độ sạch của nước, nước cấp
sạch thì thường không có màu. Riêng với nước thải, độ màu còn là chỉ tiêu đánh giá
phần nào mức độ ô nhiễm nguồn nước.
1.2.2. Ảnh hưởng của TSS và độ màu
1.2.2.1. Ảnh hưởng của TSS
TSS cao có thể chặn ánh sáng từ thực vật ngập nước, khi số lượng ánh sáng
truyền qua nước bị giảm đến quá trình quang hợp giảm, điều này dẫn đến ít oxy hòa
tan được đưa vào nước. Nếu ánh sáng hoàn toàn bị chặn, thực vật sống trong nước
ngừng sản xuất oxy và sẽ chết. Khi cây đang phân hủy, vi khuẩn sẽ sử dụng oxy
nhiều hơn từ nước. Oxy hòa tan có thể dẫn đến chết cá.
TSS cao cũng có thể gây ra sự gia tăng nhiệt độ nước bề mặt, vì các hạt lơ
lửng hấp thụ nhiệt từ ánh sáng mặt trời. Điều này có thể gây ra nồng độ oxy hòa tan
giảm hơn nửa và có thể gây tổn hại cho đời sống thủy sinh.
TSS cao có thể ảnh hưởng đến khả năng nhìn của cá trong tìm kiếm thực
phẩm. Phù sa lơ lửng cũng có thể làm tắc nghẽn mang cá, làm giảm tốc độ tăng
trưởng, giảm sức đề kháng với bệnh tật và ngăn chặn trứng và ấu trùng phát triển.
TSS cao có thể là nồng độ cao hơn của vi khuẩn, các chất dinh dưỡng, thuốc
trừ sâu và các kim loại trong nước. TSS cao có thể gây ra các trở ngại cho công
nghiệp, nó có thể gây tắc nghẽn thiết bị, làm giảm chất lượng sản phẩm.
1.2.2.2. Ảnh hưởng của độ màu
Độ màu cao cũng sẽ gây ảnh hưởng đến sự truyền và hấp thụ ánh sáng của
nước, làm ảnh hưởng đến quá trình quang hợp, sinh trưởng và phát triển của các
loài thực vật ngập nước giống như TSS.
Bên cạnh đó, độ màu của nước còn gây ra sự khó chịu về mặt cảm quan.
19
1.2.3. Các công trình nghiên cứu xử lí TSS và độ màu
1.2.3.1. Các công trình nghiên cứu xử lý TSS và độ màu trên thế giới
MuhammadIrfan cùng cộng sự [19] đã có bài: “Nghiên cứu loại bỏ COD,
TSS và màu sắc trong nước thải nhà máy giấy theo quy trình đông kết - flocculation
ở pH tối ưu”. Quá trình đông kết, kết tụ được thực hiện để tìm ra hiệu quả của chất
flocculants và chất kết tụ khác nhau như phèn, sắt clorua, clorua nhôm, sulfat sắt,
poly clorua nhôm (PAC) Tác động của tỷ lệ liều, thời gian giải quyết và pH được
kiểm tra để giảm COD, TSS và màu sắc. Kết quả hiệu quả nhất thu được khi sử
dụng kết hợp cation và anion polyacrylamide với clorua sắt và clorua nhôm và giảm
76% COD, 95% TSS và 95% màu ở pH < 3.
Aziz và cộng sự (2012) [16] đã tiến hành: “Kết hợp Ozon và enton
(O3/H2O2/Fe2+) trong cùng một thí nghiệm để xử lý nước rỉ rác (Bãi chôn lấp Pulau
Burung, Malaysia)”. Các tác giả đã đánh giá tỉ lệ phân tử gam, nồng độ H2O2 và
Fe2+ của hệ Fenton, giá trị pH, thời gian phản ứng. Hiêụ suất xử lý COD, độ màu,
NH4+ tối ưu xác định được từ nghiên cứu này tương ứng là 65%, 98% và 12% sau
90, 31 phút phản ứng, tỉ lệ phân tử gam H2O2/Fe2+: 1 ở nồng độ 0,05 mol/l (1.700
mg/l) H2O2 và 0,05 mol/l (2.800 mg/l) Fe2+ ở pH= 7. Hiêụ suất xử lý NH3-N cao
nhất đạt được là 19% sau 150 phút phản ứng. Hàm lượng O3 cần để xử lý được xác
đinh là 0,63 kg O3/kg COD.
Abu Amr và cộng sự (2013) [15] có bài nghiên cứu: “Kết hơp ozon và
pesunphat (O3/S2O82-) để xử lý nước rỉ rác (bãi chôn lấp Pulau Burung, Malaysia)”.
Điều kiện tối ưu cho xử lý đạt được là: thời gian phản ứng 120 phút, tỉ lệ O3/ S2O82-
1g/7g, pH 10. Ở điều kiện này, hiêụ suất xử lý COD, độ màu lần lượt đạt được là
72% và 93%, tỉ lệ BOD5/COD tăng từ 0,05 lên 0,29. Lượng O3 tiêu tốn là 0,76 kg
O3/kg COD.
Jamali và công sự (2009) [17] đã: “Nghiên cứu xử lý nước rỉ rác (bãi chôn
lấp Tehran, Iran) với kết hợp keo tụ và ozon”. COD nước rỉ rác trước xử lý 130.000
mg/l. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiêụ suất xử lý COD và độ màu tương ứng là
41% và 81%, tỉ lệ BOD5/COD tăng từ 0,36 lên 0,45; hiệu suất xử lý độ màu đạt cao
nhất là 81% ở mức hàm lượng O3 là 180g O3/l nước rỉ rác.
20
1.2.3.2. Các công trình nghiên cứu xử lý TSS và độ màu tại Việt Nam
Ngô Thụy Diễm Trang [6] đã nghiên cứu: “Hiệu suất xử lý nước thải sinh
hoạt của hệ thống đất ngập nước kiến tạo nền cát vận hành với mức tái nạp thủy lực
cao”. Hệ thống được vận hành với hai mức tải nạp thủy lực (HLRs) là 31 và 62
mm/ngày. Khả năng xử lý TSS, lân hòa tan (PO4-P) và lân tổng (TP) là rất hiệu quả
và không đổi cho cả hai mức HLRs với hiệu suất xử lý trung bình tương ứng
khoảng 94, 99 và 99%, trong khi đó hiệu suất xử lý nhu cầu oxy sinh học (BOD5),
nhu cầu oxy hóa học (COD), tổng đạm Kjeldahl (TKN) và đạm amôn (NH4-N)
giảm khi HLR tăng, và có giá trị trung bình nằm trong khoảng tương ứng là 47-
71%, 68-84%, 63-87% và 69- 91%. Kết quả cho thấy bằng cách sử dụng HSSF
CWs trong việc xử lý nước thải sinh hoạt là phương pháp khả thi. Chất lượng nước
thải đầu ra của hệ thống ở mức HLR cao 62 mm/ngày (tương đương 1200 L/ngày)
đạt tiêu chuẩn Việt Nam cho phép xả thải vào nguồn nước mặt.
Nguyễn Minh Kì và các cộng sự [5] đã: “Nghiên cứu xử lý nước thải dân cư
bằng công nghệ màng lọc sinh học MBR (Membrane bioreactor)”. Mục đích của
nghiên cứu nhằm đánh giá khả năng xử lý nước thải dân cư bằng công nghệ màng
lọc sinh học (MBR). Bể phản ứng được thiết kế với dung tích hữu ích 36 lít
(L*W*H = 24*20*75 cm) và sử dụng module màng nhúng chìm có kích thước lỗ
lọc tương đương 0,4 µm. Mô hình thí nghiệm MBR là sự kết hợp giữa hai quá trình
phân hủy sinh học chất hữu cơ và kỹ thuật tách sinh khối vi sinh bằng màng.
Nghiên cứu bố trí thí nghiệm, đánh giá hiệu quả xử lý nước thải dân cư trong thời
gian 121 ngày với tải lượng chất hữu cơ dao động từ 1,7 đến 6,8 kgCOD/m3/ngày.
Nhờ nồng độ sinh khối cao, MBR gia tăng hiệu quả xử lý nước thải so với phương
pháp truyền thống. Hiệu quả xử lý trung bình TSS, BOD5, COD, TN, TP tương ứng
lần lượt 89,4; 94,6; 92,6; 64,6 và 79,2%. Nhìn chung, công nghệ màng lọc có thể áp
dụng để xử lý nguồn nước thải có tải lượng chất hữu cơ cao và là giải pháp hữu hiệu
bảo vệ môi trường bền vững.
Văn Hữu Tập cùng các cộng sự (2012) [13] tiến hành nghiên cứu: “Xử lý các
chất hữu cơ trong NRR bãi chôn lấp chất thải rắn bằng UV/O3”. Để quá trình oxy
21
hóa các chất hữu cơ bằng ozon và perozon có hiệu quả cần thực hiện ở điều kiện tối
ưu sau: pH 8 – 9; hàm lượng H2O2 (hệ Perozon) là 2.000mg/l; thời gian phản ứng
đối với hệ Ozon đơn là 100 phút và hệ Perozon là 80 phút. Ở điều kiện này, kết quả
thực nghiệm đã cho thấy hiệu suất xử lý độ màu, COD và TOC đạt được trung bình
tương ứng 84%, 43% và 30% (hệ Ozon) và 81%, 51% và 31% (hệ Perozon).
Hoàng Ngọc Minh [10] đã nghiên cứu: “Xử lý nước rỉ rác bãi chôn lấp chất thải
rắn Nam Sơn – Sóc Sơn bằng quá trình Ozon và Perozon”, nghiên cứu sử dụng nguồn
O3 với máy phát công suất 4,5 g O3/giờ, nồng độ H2O2 mà 1.000 - 3.000 mg/l. Với
nước rỉ rác có COD và độ màu đầu vào tương ứng là 455 mg/l và 397 mgPt-Co/l, sau
60 phút xử lý bằng Perozon, hiệu suất đạt tương ứng 41% và 58%. Theo nghiên cứu
của tác giả thì pH thích hợp cho quá trình ozon hóa nước rỉ rác khoảng 8 - 9,5.
Trương Quý Tùng và cộng sự (2009) [11] đã có bài nghiên cứu: “Xử lý nước
rỉ rác phát sinh từ BCL Thủy Tiên - Thừa Thiên Huế bằng tác nhân UV/Fenton”.
Nước rỉ rác có tỷ lệ BOD5/COD = 0,16 ± 0,2. Tác giả đã xử lý nước rỉ rác này bằng
tác nhân Fenton với sự hỗ trợ của đèn UV (200 – 275 nm, 40W) được bố trí ngập
vào trong thiết bị phản ứng để sử dụng tối đa năng lượng của đèn. Kết quả cho thấy,
quá trình này có thể loại bỏ được 71% COD và 90% độ màu nước rỉ rác ở pH ~ 3,
nồng độ H2O2 là 125 mg/l, nồng độ Fe2+ là 50 mg/l, sau thời gian phản ứng là 2 giờ.
Ngoài ra, khả năng phân huỷ sinh học của nước rỉ rác sau xử lý đã tăng đáng kể, tỉ
lê BOD5/COD tăng từ 0,15 lên 0,46.
Hoàng Thị Thu Hiền (2012) [3] đã: “Nghiên cứu sử dụng UV/Ozon để xử
nước rỉ rác”. Kết quả thí nghiệm trong điều kiện phòng thí nghiệm xử lý nước rác từ
bãi chôn lấp Nam Sơn. Từ kết quả thực nghiệm xử lý nước rỉ rác sau keo tụ, tác giả
đã xác định được điều kiện tối ưu đạt được tại pH = 7,5 và thời gian phản ứng là
100 phút; hiệu suất xử lý COD và độ màu nước rỉ rác đạt tương ứng là 26% và 64%
với hệ Ozon đơn và 35%, 82% với hệ UV/O3.
Dư Thị Huyền Thanh (2012) [1] đã: “Nghiên cứu kết hơp Perozon và UV để
xử lý nước rỉ rác”. Từ kết quả xử lý nước rỉ rác sau giai đoạn keo tụ, tác giả đã xác
định được các điều kiện tốt nhất cho quá trình xử lý cho cả hệ O3/H2O2 và
22
O3/H2O2/UV là: pH = 7,5; tỉ lệ mol H2O2/O3 = 0,7; thời gian phản ứng là 80 phút.
Với điều kiện tốt nhất 39 trên thì hiệu suất xử lý độ màu và COD đạt được tương
ứng là 40% và 75% (hệ O3/H2O2); 90% và 64% (hệ O3/H2O2/UV).
1.3. Tổng quan về phương pháp lọc sinh học
1.3.1. Phân loại phương pháp lọc sinh học
Dựa vào nguyên tắc hoạt động, phương pháp lọc sinh học được chia thành 3
loại là phương pháp sinh học sinh trưởng bám dính ngập nước, phương pháp sinh
học sinh trưởng bám dính không ngập nước (lọc sinh học nhỏ giọt) và đĩa quay sinh
học RBC.
1.3.1.1. Đĩa quay sinh học RBC (Rotating Biological Contactor)
RBC là một đĩa quay sinh học bao gồm một số đĩa lớn (disk) bằng nhựa PVC
hoặc PS, hình tròn được gắn cạnh nhau lắp trên cùng một trục (hub), các đĩa được
phân ra nhờ các vách ngăn (partition). Các đĩa được quay nhờ có sự chuyển động
bằng xích bánh lái (chain driving gear) và bánh xích (sprocket). Hệ được giữ cố
định nhờ ổ đỡ trục (pillow). Sự kết hợp hài hòa giữa ổ đỡ trục và sự chuyển động
của bằng xích và bánh xích giúp các đĩa này quay đồng tâm quanh trục truyền động
(shaft) với tốc độ ổn định.
Đây là thiết bị xử lý nước thải bằng kỹ thuật màng sinh học dựa trên sự dinh
trưởng gắn kết của vi sinh vật trên bề mặt của vật liệu đĩa. Vật liệu thường gặp ở
dạng đĩa, diện tích bề mặt khoảng 6 - 7,62 m2/m3, còn ở dạng lưới thì diện tích bề
mặt từ 9,1-10,6 m2/m3 [11].
Hình 1.4. Đĩa quay sinh học RBC
đĩa
vách ngăn
trục
Trục chuyển động ổ đỡ trục
bánh xích
bánh lái
23
Khi khối đĩa quay lên, các vi sinh vật lấy oxy để oxy hoá các chất hữu cơ và
giải phóng CO2. Tốc độ quay chỉ với vài vòng/ phút điều này cũng giúp điều chỉnh độ
dày màng có chứa vi sinh là từ 1 - 2mm. Khi khối đĩa quay xuống, vi sinh vật nhận
chất nền (chất dinh dưỡng) có trong nước. Trong quá trình luân chuyển, khoảng 40%
diện tích bề mặt môi trường được tiếp xúc với nước thải. Việc quay vòng liên tục
khiến vi sinh vật hiếu khí có điều kiện tốt để tiếp xúc với oxy, tạo môi trường thuận
lợi cho các sinh vật nhân lên và tạo thành một lớp sinh khối mỏng. Sự gia tăng nhanh
chóng của các vi sinh vật giúp khả năng tiêu thụ các chất trong chất thải tốt hơn, vì
đây là nguồn thức ăn dinh dưỡng mà chúng cần, điều đó sẽ khiến các chất hữu cơ
trong nước rỉ rác được giảm đi đáng kể. Khi lượng sinh khối tăng lên quá nhiều,
nhanh vượt quá mức khả năng chịu đựng của giá đỡ thì được di chuyển xuống bể
lắng của hệ thống RBC. Quá trình tiếp diễn như vậy cho đến khi hệ vi sinh vật sinh
trưởng và phát triển sử dụng hết các chất hữu cơ có trong nước thải [20].
1.3.1.2. Lọc sinh học có lớp vật liệu không ngập trong nước (lọc nhỏ giọt)
Vật liệu lọc: đá cuội, đá dăm, sỏi đá Nước thải được phân phối trên bề mặt
vật liệu lọc nhờ một hệ thống giàn quay phun nước (rotating influent distributer) tia
thành nhỏ giọt. Khi làm việc, vật liệu màng sinh học khi bị ngấm nước khiến chúng
nặng hơn, nên thông thường giá đỡ thường lấy giá trị an toàn là 500 kg/m3, khoảng
cách từ sàn phân phối đến đáy bể thường là 0,6 – 0,8 m.
Sàn đỡ và thu nước giúp thu gom các mảnh vỡ của màng sinh học bị bong
đồng thời phân bố khí (influent air) vào bể lọc để duy trì môi trường hiếu khí trong
các khe rỗng. Nước sau quá trình lọc được tiếp tục cho đi quay li tâm (clarifier) để
tách bùn cặn (sludge) và nước (treatment water), nước này lại tiếp tục quay trở lại
quá trình lọc nhờ bơm (pump) hút lên hệ thống giàn quay phun nước tia. Quá trình
nay được thực hiện đến khi nước thải đầu ra đạt tiêu chuẩn.
24
Hình 1.5. Cấu tạo của bể lọc nhỏ giọt
Nước được chảy từ trên xuống qua toàn vật liệu lọc. Khi nước truyền đến lớp
vật liệu thì sẽ được chia thành các dòng hoặc hạt nhỏ chảy thành lớp mỏng qua khe
hở của vật liệu, tiếp xúc với màng sinh học trên bề mặt vật liệu. Khi nước thải tiếp
xúc với lớp màng vi sinh trên bề mặt giá thể cũng là lúc chất hữu cơ được tiêu thụ.
Các chất hữu cơ phân hủy hiếu khí sinh ra CO2 và H2O, phân hủy kị khí sinh ra CH4
và CO2 làm bong màng ra khỏi giá thể, trên giá thể tiếp tục hình thành lớp màng mới.
1.3.1.3. Lọc sinh học với lớp vật liệu ngập trong nước
Cấu tạo tương tự như lọc sinh học với lớp vật liệu không ngập trong nước,
tuy nhiên vật liệu lọc được đặt ngập chìm trong nước.
1.3.2. Phương pháp lọc sinh học với lớp vật liệu ngập trong nước
1.3.2.1. Cấu tạo
Bao gồm vật liệu lọc, hệ thống phân phối nước, sàn đỡ và thu nước.
Hình dáng: Hệ lọc sinh học có cấu tạo là một hình hộp chữ nhật, ở trong có
phân bố 3 ngăn chính: ngăn thiếu khí, ngăn hiếu khí và ngăn lắng. Các ngăn này
không tách rời nhau mà được kết nối với nhau nhờ khe hở dưới đáy của các ngăn.
giàn quay phun nước
phân bố khí
bơm
bùn
quay li tâm
không khí
nước đã xử lý
mái vòm
lọc đầu ra
tái chế nước
25
Vật liệu lọc: giá thể vi sinh bám dính dạng tấm, vật liệu chế tạo bằng nhựa
PPE với diện tích bề mặt là 200 m2/m3, diện tích bề mặt tiếp xúc trên một đơn vị thể
tích lớn, độ bám dính vi sinh cao.
Hình 1.6. Giá thể vi sinh
Giá thể giúp vi sinh bám vào bề mặt của giá thể tạo thành lớp màng. Vi sinh
vật bắt đầu phát triển trên lớp màng và bắt đầu quá trình phân hủy sinh học. Khi vi
sinh đã phát triển, lớp màng đã dày lên, hiệu suất phân hủy sinh học đạt giá trị cao
nhất. Lượng cơ chất đưa vào phải đủ cho quá trình trao đổi chất, nếu không sẽ có sự
suy giảm sinh khối, lớp màng sẽ bị mỏng dần đi nhằm đạt tới cân bằng mới giữa cơ
chất và sinh khối. Sau khi phát triển đến độ dày nhất định, lớp màng không dày lên
nữa và trở nên ổn định, vi sinh vật bong ra khỏi bề mặt của giá thể. Sự trao đổi chất
diễn ra để phân hủy chất hữu cơ thành CO2 và nước. Lượng cơ chất phải đủ cho quá
trình trao đổi chất, nếu không vi sinh sẽ thiếu dinh dưỡng và bắt đầu phân hủy nội
bào để cân bằng với cơ chất và sinh khối, tức là nếu thiếu lượng thức ăn thì vi sinh
vật có thể sẽ bị chết.
Ngoài ra, hệ lọc sinh học còn có bộ phận sục khí (air stone), ống thu nước
đầu ra (outlet), ống thu bùn để xả cặn để rửa đáy bể lọc sinh học khi cần thiết.
26
Hình 1.7. Cấu tạo của bể lọc sinh học giá thể bám dính ngập nước
1.3.2.2. Nguyên tắc hoạt động
Nước thải sau khi đã được loại bỏ cặn lắng được dẫn vào bể, nước thải trong
bể được phân phối đều vào cả hai ngăn hiếu khí và thiếu khí nhờ ngăn trên cùng của
bể và khe hở dưới đáy bể.
Oxy được cung cấp nhờ máy thổi khí ở ngăn hiếu khí. Máy sục khí giúp
nước thải được trộn lẫn với bùn được dễ dàng hơn, tạo thành dòng nước tuần hoàn
trong bể từ ngăn hiếu khí sang ngăn thiếu khí, tạo thành dòng nước luân chuyển
trong bể, đồng thời cung cấp oxi cho vi sinh vật trong bể. Chính vì thế mà lượng vi
sinh vật có nhiều khả năng được tiếp xúc với nước thải hơn.
Lượng nước thải trong 3 ngăn thiếu khí, hiếu khí và ngăn lắng cân bằng với
nhau, khi lượng nước thải được thêm vào khiến ngăn hiếu khí và thiếu khí tăng lên
đồng thời nước ở ngăn lắng cũng nâng lên, lượng nước được dâng lên trong ngăn
lắng cũng chính là lượng nước đã qua xử lý ở trong bể. Phần nước trong ở trong
ngăn lắng sẽ được thoát ra ngoài nhờ van nhỏ được lắp bên cạnh ngăn lắng. Hỗn
hợp bùn được lắng dưới đáy ngăn sẽ được tuần hoàn trở lại khi hệ thống tiến hành
quá trình sục. Đây cũng là một ưu điểm của hệ thống do kết hợp cả lọc và xử lý sinh
học dùng chính khối bùn hoạt tính.
Bể lọc sinh học với giá thể dạng vật liệu ngập nước ngoài việc đóng vai trò là
giá thể hỗ trợ cho việc tăng trưởng sinh khối. Giá thể vi sinh có thể oxi hóa được tất
mực nước thải
bộ phận sục khí
nước đầu ra
nước đầu vào
dòng tuần hoàn
27
cả các chất hữu cơ dễ phân hủy trong nước thải, các thành phần sinh học có trong
nước làm cho vận tốc nước qua lọc chậm dần và quá trình lọc sẽ hiệu quả tốt hơn.
Tuy nhiên khi lớp màng quá dày tức là lúc đó lớp sinh khối trên giá thể dư thừa cần
định kỳ rửa ngược để giảm sự tắc nghẽn khi nước thải đi qua khối vật liệu lọc. Hiệu
quả xử lý giảm nhưng dần được hồi phục.
1.3.2.3. Cơ chế diễn ra trong hệ lọc sinh học
Trong quá trình lọc, nước thải được cho vào hệ thống lọc, các chất ô nhiễm
trong nước thải sẽ được các vi sinh vật trên giá thể xử lý bằng cách sử dụng nước
thải như là nguồn dinh dưỡng thiết yếu. Các chất gây ô nhiễm trong nước sẽ bị hấp
phụ bởi màng sinh học, tại đây diễn ra quá trình phân hủy chất ô nhiễm nhờ vi sinh
vật ở môi trường hiếu khí và thiếu khí.
Hình 1.8. Màng sinh học phát triển trên giá bám
Màng sinh học có thể oxy hóa được tất cả các hợp chất hữu cơ dễ phân hủy
có trong nước thải và các vi sinh vật sẽ phát triển dày trên giá thể làm cho vận tốc
nước chảy qua màng chậm hơn. Điều này cũng giúp cho giá thể có khả năng hấp
phụ, giữ lại các vi khuẩn cũng như tạp chất hóa học để oxy hóa và nước dần được
làm sạch.
28
Cơ chế hoạt động của màng sinh học được chia làm 2 giai đoạn chính:
• Quá trình tiêu thụ cơ chất làm sạch: nước thải trong hệ lọc tiếp xúc với giá
thể sau đó chuyển vào màng sinh học theo cơ chế khuếch tán phân tử. Trong màng
sinh học diễn ra quá trình tiêu thụ cơ chất và quá trình trao đổi chất của vi sinh vật
trong màng. Sản phẩm cuối cùng được đi ra khỏi màng và hòa lẫn với nước ở trong
hệ lọc.
• Quá trình sinh trưởng, phát triển và suy thoái của màng vi sinh vật: khi các
vi sinh vật bám dính trên bề mặt giá thể cũng phải trải qua nhiều giai đoạn:
+ Khi màng vi sinh vật còn mỏng, chưa có khả năng bao phủ hết được giá
thể thì khi đó chúng đều có điều kiện sinh trưởng giống nhau.
+ Tốc độ màng dày hơn, tuy nhiên ở giai đoạn này dường như sự phát triển
của chúng ổn định hơn. Lượng cơ chất hấp thụ chỉ dùng để duy trì sự trao
đổi chất của vi sinh vật và không có sự gia tăng sinh khối.
+ Bề dày của lớp màng trở lên ổn định, tốc độ phát triển màng cân bằng với
tốc độ suy giảm phân hủy nội bào, lúc này chúng dễ bị bong tróc ra khỏi
giá thể và giá thể lại tiếp tục nhận một lượng vi sinh vật mới.
Hệ lọc sinh học này hoạt động với chế độ thiếu – hiếu khí cơ chế hoạt động
khá đa dạng.
Khi hệ bắt đầu sục khí cũng là lúc hệ bắt đầu quá trình phân hủy hiếu khí:
phân tử oxy (O2) luôn có mặt và đóng vai trò quyết định cách phân hủy. Khi có mặt
oxy thì đây là chất oxy hóa duy nhất được sử dụng. Do đó, các sản phẩm hóa học
cuối cùng của quá trình phân hủy sẽ là cacbon đioxit, nước và tế bào mới. Các sản
phẩm cuối cùng là khí có m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoa_luan_nghien_cuu_xu_ly_tss_va_do_mau_trong_nuoc_ri_rac_b.pdf