LỜI CAM ĐOAN . i
MỤC LỤC . ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .v
DANH MỤC BẢNG . vi
DANH MỤC HÌNH . vii
LỜI MỞ ĐẦU . 1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP . 7
1.1. Cấu trúc sở hữu . 7
1.1.1. Cấu trúc sở hữu theo mức độ tập trung . 7
1.1.2. Cấu trúc sở hữu theo đặc tính cổ đông . 9
1.2. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp . 10
1.2.1. Quan điểm về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp . 10
1.2.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp . 12
1.3. Lý thuyết về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp . 18
1.3.1. Giả thiết tín hiệu . 18
1.3.2. Lý thuyết cạnh tranh . 19
1.3.3. Lý thuyết cấu trúc sở hữu nội sinh . 20
Kết luận Chương 1 . 20
CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU . 21
2.1. Tác động của cấu trúc sở hữu tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp . 21
2.1.1. Nghiên cứu theo mức độ tập trung . 21
2.1.2. Nghiên cứu theo đặc tính cổ đông . 25
2.2. Tác động qua lại giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp 36
2.3. Khoảng trống nghiên cứu . 37
Kết luận Chương 2 . 39
CHƯƠNG 3 CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP CÓ VỐN NHÀ NƯỚC ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM .41
3.1. Doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư tại Việt Nam . 41
3.1.1. Phân loại doanh nghiệp theo tiêu chí sở hữu . 41
150 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 341 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm 2017 phải thoái vốn ở 135
doanh nghiệp, năm 2018 thoái vốn ở 181 doanh nghiệp, năm 2019 thoái vốn ở 62
doanh nghiệp và năm 2020 thoái vốn ở 28 doanh nghiệp; trong 406 lượt doanh nghiệp
thoái vốn theo kế hoạch có tới 135 doanh nghiệp thoái trên 50% vốn điều lệ, 22 doanh
nghiệp thoái trên 90% vốn điều lệ.
Kế hoạch trên cho thấy Chính phủ đã kỳ vọng thay đổi cơ bản về cấu trúc vốn
chủ sở hữu. Mặc dù vậy, nghiên cứu chi tiết tiêu chí phân loại doanh nghiệp cho thấy
việc xác định tỷ lệ % vốn điều lệ Nhà nước nắm giữ khi CPH doanh nghiệp phụ thuộc
vào lĩnh vực, ngành nghề hoạt động của doanh nghiệp; cụ thể: Nhà nước tiếp tục nắm
giữ 100% vốn điều lệ của doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực quốc phòng, an
ninh; cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu; nắm giữ từ 65% tổng số cổ phần
trở lên đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực như quản lý khai
thác hạ tầng hàng không, dịch vụ thông tin dẫn đường, giám sát, dịch vụ khí tượng
hàng không; dầu khí và khoáng sản quy mô lớn, tài chính, ngân hàng; nắm giữ trên
62
50% đến dưới 65% tổng số cổ phần, hoạt động trong các ngành, lĩnh vực quan trọng,
đảm bảo cân đối lớn của nền kinh tế như sản xuất hóa chất cơ bản, dịch vụ viễn thông
có hạ tầng mạng; lương thực; xăng dầu; đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho hoạt động sản
xuất và đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng
xa, gắn với quốc phòng, an ninh Nhóm các doanh nghiệp còn lại ngoài các doanh
nghiệp thuộc ba nhóm trên khi sắp xếp, CPH, căn cứ tình hình cụ thể và khả năng thị
trường Nhà nước sẽ nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ đến không giữ cổ phần hoặc áp
dụng hình thức sắp xếp khác phù hợp như chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn
nhiều thành viên, bán, giải thể, phá sản.
Trên thực tế thực hiện, giai đoạn 2016 -2018 đã có 159 doanh nghiệp được cấp
có thẩm quyền phê duyệt phương án CPH với tổng giá trị doanh nghiệp là 442.275 tỷ
đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 206.024 tỷ đồng. Tổng vốn điều lệ theo phương
án được cấp có thẩm quyền phê duyệt là 210.915 tỷ đồng, trong đó Nhà nước nắm giữ
112.500 tỷ đồng (53%); bán cho cổ đông chiến lược 62.206 tỷ đồng (29%); đấu giá
công khai 34.464 tỷ đồng (16%), số còn lại bán cho người lao động là 1.695 tỷ đồng
(1%) và tổ chức công đoàn 47 tỷ đồng (0,02%).
So sánh cấu trúc sở hữu trong phương án CPH đã được phê duyệt giai đoạn
2016-2018 so với giai đoạn 2011-2015 có thể thấy đã có sự điều chỉnh: tỷ lệ Nhà nước
nắm giữ giảm (53% giai đoạn 2016-2018 so với 65% giai đoạn 2011-2015); bán cho
cổ đông chiến lược tăng (29% giai đoạn 2016-2018 so với 15,8% giai đoạn 2011-
2015); tỷ trọng đấu giá công khai, bán cho người lao động và tổ chức công đoàn cơ
bản không thay đổi nhiều. Mặc dù có sự điều chỉnh nhất định về cấu trúc sở hữu trong
phương án CPH, tuy nhiên vẫn chưa thực sự hấp dẫn được các nhà đầu tư, theo báo
cáo của Bộ Tài chính (2019), tỷ lệ cổ phần chào bán thành công giai đoạn 2016-2018
cũng chỉ đạt 54%.
3.2.2. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư
Thông qua cải cách, đổi mới doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư tại Việt
Nam thời gian qua, đặc biệt là qua CPH DNNN, hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp có vốn nhà nước đầu tư đã được cải thiện.
Qua nghiên cứu số liệu thống kê theo "Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm
2020" (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2020), hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn
nhà nước đầu tư được phản ánh qua một số chỉ tiêu hiệu quả hoạt động của khu vực
doanh nghiệp nhà nước (bao gồm DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 50%
vốn điều lệ) tại Bảng 3.4 như sau:
63
Bảng 3.4 Hiệu quả hoạt động khu vực doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011-2018
Bình quân
2011-2015
Bình quân
2016-2018
Chỉ số phát
triển %
Hiệu suất sử dụng lao động (lần)
Cả nước 15,5 14,9 96,1%
Khu vực doanh nghiệp nhà nước 17,8 18 101,1%
- Trong đó doanh nghiệp 100% vốn nhà nước 17,1 20,1 117,5%
Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 16,1 15,8 98,1%
Khu vực doanh nghiệp FDI 13,0 12,3 94,6%
Thu nhập người lao động (1.000đ/ tháng)
Cả nước 5.882 8.217 139,7%
Khu vực doanh nghiệp nhà nước 8.898 11.923 134,0%
- Trong đó doanh nghiệp 100% vốn nhà nước 9.311 11.536 123,9%
Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 4.928 7.234 146,8%
Khu vực doanh nghiệp FDI 6.560 9.111 138,9%
Chỉ số nợ (lần)
Cả nước 2,2 2,3
Khu vực doanh nghiệp nhà nước 3,0 3,6
- Trong đó doanh nghiệp 100% vốn nhà nước 2,8 2,6
Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 2,0 2,1
Khu vực doanh nghiệp FDI 1,6 1,6
Chỉ số quay vòng vốn (lần)
Cả nước 0,7 0,7
Khu vực doanh nghiệp nhà nước 0,5 0,4
- Trong đó doanh nghiệp 100% vốn nhà nước 0,5 0,5
Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 0,8 0,7
Khu vực doanh nghiệp FDI 0,9 1,0
Hiệu suất sinh lời (%)
ROE
Cả nước 8,2 8,7
Khu vực doanh nghiệp nhà nước 12,1 10,3
- Trong đó doanh nghiệp 100% vốn nhà nước 10,1 9,1
Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 3,4 4,9
Khu vực doanh nghiệp FDI 15,1 16,9
64
ROA
Cả nước 2,6 2,7
Khu vực doanh nghiệp nhà nước 3,0 2,3
- Trong đó doanh nghiệp 100% vốn nhà nước 2,7 2,6
Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 1,2 1,6
Khu vực doanh nghiệp FDI 5,8 6,5
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020)
(1) Hiệu quả hoạt động theo tiêu chí lao động
Khu vực doanh nghiệp nhà nước có hiệu suất sử dụng lao động cao nhất, đặc biệt
các DNNN, trong khi khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước có hiệu suất trung bình khá
(cao hơn bình quân chung), khu vực doanh nghiệp FDI lại có hiệu suất thấp nhất.
Khu vực doanh nghiệp nhà nước có mức thu nhập bình quân tháng một lao động
trong giai đoạn 2016-2018 đạt cao nhất với 11,9 triệu đồng, tăng 34% so với bình quân
giai đoạn 2011-2015 (trong đó DNNN đạt 11,5 triệu đồng, tăng 23,9%); khu vực doanh
nghiệp FDI đạt 9,1 triệu đồng, tăng 38,9%; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước lại là
khu vực có mức cải thiện thu nhập cho người lao động cao nhất, tăng 46,8% so với bình
quân giai đoạn 2011-2015 mặc dù mức thu nhập bình quân giai đoạn 2016-2018 vẫn
thấp nhất trong 3 loại hình doanh nghiệp với 7,2 triệu đồng.
(2) Chỉ số nợ
Chỉ số nợ (nợ phải trả/vốn chủ sở hữu) của các doanh nghiệp bình quân giai
đoạn 2016-2018 là 2,3 lần, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước là khu vực có chỉ
số nợ cao nhất là 3,6 lần, tăng so với giai đoạn trước (giai đoạn 2011-2015 là 3 lần),
trong khi doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp FDI có chỉ số thấp hơn, lần
lượt là 2,1 lần và 1,6 lần. Điều đó cho thấy hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà
nước phụ thuộc nhiều vào vốn vay; và phần nào cho thấy ưu thế trong việc vay vốn
của các doanh nghiệp thuộc khu vực doanh nghiệp nhà nước.
(3) Chỉ số quay vòng vốn
Chỉ số quay vòng vốn (doanh thu/nguồn vốn) của các doanh nghiệp bình quân
giai đoạn 2016-2018 là 0,7 lần, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước là khu vực có
chỉ số quay vòng vốn rất thấp 0,4 lần, thụt lùi so với giai đoạn trước (giai đoạn 2011-
2015 là 0,5 lần) cho thấy phần nào việc sử dụng nguồn vốn kém hiệu quả so với khu
vực doanh nghiệp ngoài nhà nước (0,7 lần) và đặc biệt là khu vực doanh nghiệp FDI
(1,0 lần).
65
(4) Hiệu suất sinh lời
- Hiệu suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (lợi nhuận trước thuế/vốn chủ sở hữu)
của các doanh nghiệp bình quân giai đoạn 2016-2018 đạt 8,7%, trong đó khu vực
doanh nghiệp nhà nước có tỷ suất sinh lời là 10,3%, cao hơn so với khu vực doanh
nghiệp ngoài nhà nước (khoảng 4,9%) song thấp hơn nhiều so với khu vực doanh
nghiệp FDI (16,9%). Việc hiệu suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu của khu vực doanh
nghiệp nhà nước cao hơn nhiều so với khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước trong khi
khu vực doanh nghiệp nhà nước lại có chỉ số nợ lớn, chỉ số quay vòng vốn thấp được
lý giải bởi mệnh đề 2 của lý thuyết M&M là chi phí vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
có vay nợ quan hệ đồng biến với tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu. Vì vậy có thể khẳng
định hiệu suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp nhà nước dựa
nhiều vào lợi thế trong việc vay vốn so với khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước.
- Hiệu suất sinh lời trên tài sản (lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản) của các doanh
nghiệp bình quân giai đoạn 2016-2018 đạt 2,7%, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà
nước có tỷ suất sinh lời là 2,3%, cao hơn so với khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước
(khoảng 1,6%) song thấp hơn nhiều so với khu vực doanh nghiệp FDI (6,5%).
* Đánh giá chung về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp:
Hiệu suất quả đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhà nước xét theo chỉ số tỷ lệ
đóng góp GDP trên tỷ trọng vốn đầu tư xã hội từng bước được cải thiện (Hình 3.1). Số
liệu thống kê bình quân giai đoạn 2016-2018 cho thấy cho thấy kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp khu vực nhà nước nếu chỉ xét theo quy mô doanh
thu, lợi nhuận trước thuế là cao hơn so với các khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và
doanh nghiệp FDI (Bảng 3.2), kết quả hoạt động về mặt xã hội trong việc giải quyết việc
làm và đảm bảo thu nhập người lao động cũng tốt hơn so với các doanh nghiệp các khu
vực khác.
Mặc dù vậy, hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước còn nhiều
hạn chế; thể hiện: Hiệu suất sinh lời thấp hơn nhiều so với khu vực doanh nghiệp FDI;
việc các chỉ số hiệu suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu cao hơn tương đối so với khu vực
doanh nghiệp ngoài nhà nước được lý giải bởi lợi thế đòn bẩy tài chính, song việc phụ
thuộc nhiều vào lợi thế đòn bẩy tài chính cũng có thể là một nguyên nhân dẫn tới chỉ
số nợ lớn. Đáng lưu ý khi so sánh chỉ số phát triển giai đoạn 2016-2018 với giai đoạn
2011-2015, mặc dù quy mô doanh thu thuần và lợi nhuận trước thuế của khu vực
doanh nghiệp nhà nước tăng nhưng tốc độ tăng trưởng doanh thu (38,7%) và lợi nhuận
trước thuế (44%) thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn (88%), các chỉ
66
tiêu hiệu suất sinh lời giảm (trong khi các khu vực doanh nghiệp khác đều tăng), chỉ số
nợ tăng trong khi chỉ số quay vòng vốn không được cải thiện. Như vậy, hiệu quả đầu
tư của khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng
trưởng thông qua nâng cao năng suất lao động, công nghệ và năng lực quản trị.
3.3. Yêu cầu đối với quá trình tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả hoạt động
DNNN khi Việt Nam tham gia hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam tham gia các
Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã đặt ra những cơ hội cũng như những thách
thức. Theo quan điểm truyền thống, Hiệp định thương mại tự do (FTA) là hiệp định
hợp tác kinh tế được ký kết giữa ít nhất hai quốc gia, nhằm cắt giảm các hàng rào
thương mại (thuế quan, quota nhập khẩu,...), thúc đẩy thương mại hàng hóa, dịch vụ
giữa các nước. FTA thế hệ mới là FTA có phạm vi toàn diện, khác biệt với FTA truyền
thống, vượt ra ngoài cam kết về thương mại, dịch vụ, bao gồm cả các thể chế, pháp lý
trong lĩnh vực môi trường, lao động, doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, mua sắm
công Tính đến tháng 02/2020, Việt Nam đã ký kết, đang thực thi 12 hiệp định, 1
hiệp định đã ký chưa có hiệu lực và 03 hiệp định đang đàm phán; trong đó một số FTA
thế hệ mới như: CPTPP (tiền thân là TPP), EVFTA (Việt Nam với EU) là 02 FTA đầu
tiên mà Việt Nam có cam kết liên quan đến DNNN.
(1) Cam kết về DNNN tại CPTPP
Theo Bộ Công thương (2018), các nghĩa vụ chính theo Hiệp định bao gồm: (i)
Các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) phải hoạt động theo cơ chế thị trường; (ii) Các
DNNN không được có hành vi phản cạnh tranh khi có vị trí độc quyền, gây ảnh hưởng
đến thương mại và đầu tư; (iii) Minh bạch hóa một số thông tin như tỷ lệ sở hữu của
Nhà nước, báo cáo tài chính đã được kiểm toán và được phép công bố; và (iv) Nhà
nước không trợ cấp quá mức, gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích của nước khác.
Việt Nam bảo lưu loại trừ khỏi việc thực thi các quy định về DNNN của Hiệp
định đối với tất cả các doanh nghiệp công ích, các hoạt động thực hiện các chương
trình có ý nghĩa quan trọng chiến lược và các doanh nghiệp có hoạt động liên quan tới
quốc phòng - an ninh. Riêng một vài doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng hoặc Bộ
Công an tham gia kinh doanh thông thường trên thị trường và có cạnh tranh với doanh
nghiệp thông thường của các nước CPTPP thì vẫn phải tuân thủ cam kết.
(2) Cam kết về DNNN tại EVFTA
67
Theo VCCI (2019), các cam kết về vấn đề này chủ yếu liên quan tới 02 nhóm
nghĩa vụ (i) nhóm nghĩa vụ áp dụng cho DNNN thuộc diện điều chỉnh và (ii) nhóm
nghĩa vụ áp dụng cho cơ quan Nhà nước khi có các biện pháp đối với các DNNN
thuộc diện điều chỉnh.
DNNN thuộc diện điều chỉnh của EVFTA phải tuân thủ các yêu cầu sau đây: (i)
Phải hoạt động dựa trên tính toán thương mại thuần túy: Trừ trường hợp DNNN thực
hiện nhiệm vụ công ích hoặc được Nhà nước chỉ định độc quyền trên một thị trường
nhất định, DNNN phải ra các quyết định kinh doanh dựa trên “tính toán thương mại”
(tức là phải dựa trên phân tích về giá cả, chất lượng, khả năng cung ứng, tiếp thị, vận
tải thông thường). (ii) Không được phân biệt đối xử khi mua bán hàng hóa, dịch vụ:
Khi mua bán hàng hóa dịch vụ, DNNN phải đối xử với hàng hóa, dịch vụ, doanh
nghiệp của Bên kia không kém thuận lợi hơn đối xử dành cho hàng hóa, dịch vụ,
doanh nghiệp của nước mình trong các điều kiện tương tự.
Các nguyên tắc áp dụng đối với cơ quan Nhà nước trong quản lý các DNNN
thuộc diện điều chỉnh của EVFTA: EVFTA yêu cầu Việt Nam và EU khi quản lý,
kiểm soát các DNNN thuộc diện điều chỉnh phải tuân thủ các nghĩa vụ sau: (i) Nỗ lực
để bảo đảm các DNNN này tuân thủ các tiêu chuẩn quản trị doanh nghiệp đã được
thừa nhận trên thế giới; (ii) Không để các DNNN trực thuộc các cơ quan có thẩm
quyền ban hành quy định pháp luật liên quan tới DNNN, qua đó bảo đảm tính hiệu quả
và khách quan của cơ quan này; (iii) Áp dụng thống nhất và không phân biệt đối xử
với các doanh nghiệp, không được ưu tiên DNNN; (iv) Cung cấp thông tin chi tiết về
DNNN thuộc diện điều chỉnh (thông tin về chủ sở hữu, về cơ cấu bỏ phiếu, cơ cấu tổ
chức) cho Cơ quan có thẩm quyền của Bên kia khi được yêu cầu.
Có thể thấy điểm chung của các cam kết tại hai hiệp định trên đó là các DNNN
phải hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế
khác, minh bạch hóa thông tin trong hoạt động. Đây cũng là những vấn đề đặt ra trong
quá trình tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả hoạt động DNNN tại Việt Nam hiện nay.
Kết luận Chương 3
Trải qua quá trình hơn 25 năm sắp xếp, đổi mới, khu vực doanh nghiệp có vốn
nhà nước đầu tư mặc dù dần thu hẹp về số lượng và lĩnh vực hoạt động, đặc biệt giảm
mạnh các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc nắm giữ cổ phần
chi phối; song vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, có tỷ trọng đóng góp cho
GDP luôn cao nhất so với các khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp
FDI. Qua sắp xếp, đổi mới, hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước đã
68
có nhiều cải thiện. Trong số các biện pháp, hình thức sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
có vốn nhà nước đầu tư đã thực hiện thời gian qua (như: CPH, giao, bán, chuyển giao,
sát nhập, hợp nhất, giải thể doanh nghiệp, cơ cấu lại nguồn vốn, tài sản), những biện
pháp có sự thay đổi về cấu trúc vốn chủ sở hữu như CPH, cơ cấu lại nguồn vốn, tài sản
là những biện pháp có tác động tích cực tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp xét
trên số liệu tổng hợp thống kê, đặc biệt là biện pháp CPH. Tuy nhiên, kết quả thực
hiện những biện pháp này thời gian qua còn hạn chế, CPH DNNN chưa làm thay đổi
cơ bản về cấu trúc vốn chủ sở hữu; tiến độ CPH, thoái vốn chậm; bên cạnh đó chưa có
tiêu chí cụ thể gắn với hiệu quả hoạt động của các DNNN khi thực hiện CPH, thoái
vốn mà chủ yếu căn cứ vào lĩnh vực, ngành nghề. Thực tế qua số liệu thống kê cho
thấy kết quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước còn dựa vào quy mô và
vốn vay song hiệu quả sử dụng vốn thấp; các chỉ tiêu hiệu suất sinh lời so sánh giữa
giai đoạn 2016-2018 và giai đoạn 2011-2015 giảm (trong khi các khu vực doanh
nghiệp khác đều tăng); hiệu quả đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa đáp
ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng thông qua nâng cao năng suất lao động,
công nghệ và năng lực quản trị. Vì vậy, trong thời gian tới, tiếp tục thực hiện các chủ
trương về tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp khu vực nhà
nước, những yêu cầu của các FTA thế hệ mới đối với DNNN về hoạt động theo cơ chế
thị trường, cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, minh bạch hóa thông
tin trong hoạt động sẽ là những vấn đề phải quan tâm.
69
CHƯƠNG 4
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Từ khoảng trống nghiên cứu đã phân tích tại Chương 2, Mô hình nghiên cứu
gắn với mục tiêu tổng quát lựa chọn là: (i) Kiểm định tác động đồng thời của các thành
phần sở hữu tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. (ii) Sử dụng kiểm định hai
phương trình để xem xét tác động qua lại giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp.
4.1.1. Các giả thuyết nghiên cứu
* Về tác động của các thành phần sở hữu tới hiệu quả hoạt động doanh nghiệp
H1: Sở hữu nhà nước có tác động tích cực tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
H2: Sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp do Nhà nước chi phối tác động tích
cực tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
H3: Sở hữu nhà nước có mối quan hệ hình chữ U với hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp.
H4: Sở hữu nước ngoài có tác động tích cực tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
H5: Sở hữu tư nhân trong nước là tổ chức tác động tích cực tới hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp.
H6: Sở hữu tư nhân trong nước là cá nhân tác động tích cực tới hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp.
Giả thuyết H1, H2 được dựa trên cơ sở lý thuyết giả thiết tín hiệu, với quan
điểm sự xuất hiện của cổ đông nhà nước cùng với mức độ sở hữu của nó trong một
doanh nghiệp tác động đến nhận thức của các nhà đầu tư về giá trị doanh nghiệp theo
chiều hướng tích cực. Các chỉ tiêu tài chính về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
gắn với giá trị thị trường của doanh nghiệp tương ứng sẽ tỉ lệ thuận với mức độ sở hữu
nhà nước tại doanh nghiệp. Ngoài ra, giả thuyết H1, H2 cũng được dựa trên cơ sở tổng
quan kết quả nghiên cứu về tác động của cấu trúc sở hữu tới hiệu quả doanh nghiệp
theo mức độ tập trung: Mức độ tập trung gắn với đặc tính cổ đông nhà nước (Khác với
các thành phần sở hữu khác có thể là tập trung hoặc phân tán, đối với sở hữu nhà nước
hầu hết là tập trung do vốn sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp thường được giao một
đại diện chủ sở hữu) tác động tích cực tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhờ
70
lợi thế có được từ Nhà nước. Vấn đề về lợi thế từ đặc thù sở hữu nhà nước đã được
nhiều nhà khoa học lập luận trong các nghiên cứu như Claessens và Djankov (1999),
Li và cộng sự (2009a), Yu (2013), Phung Duc Nam và Hoang Thi Phuong Thao
(2013). Giả thuyết H2 nhằm làm rõ tác động của sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp
nhà nước có cổ phần chi phối được nắm giữ bởi cổ đông nhà nước; điều này khác biệt
với giả thuyết H1 chỉ nhằm kiểm định về ảnh hưởng của sở hữu nhà nước tới hiệu quả
hoạt động ở các doanh nghiệp nói chung. Cơ sở cho việc giả thuyết về tác động tích
cực của sở hữu nhà nước cũng được dựa trên nhận định từ thực tiễn tại Chương 3 là
các doanh nghiệp có vốn nhà nước là các DNNN CPH với hiệu quả hoạt động được
cải thiện qua CPH, và tác động tích cực từ việc niêm yết trên TTCK.
Tuy nhiên, với kết quả nghiên cứu đa dạng về tác động của cấu trúc sở hữu tới
hiệu quả hoạt động, có thể là quan hệ tuyến tính, cũng có thể tồn tại mối quan hệ phi
tuyến tính, hoặc thậm chí không tồn tại mối quan hệ nào giữa sở hữu nhà nước và hiệu
quả hoạt động doanh nghiệp (theo lý thuyết cạnh tranh, hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp chủ yếu được quyết định bởi sự cạnh tranh trên thị trường hơn là quyền sở
hữu). Trong trường hợp này, giả thuyết H3 được đặt ra trên cơ sở lý thuyết giả thiết tín
hiệu nhưng với quan điểm sự xuất hiện của cổ đông nhà nước tác động đến nhận thức
của các nhà đầu tư về giá trị doanh nghiệp theo các chiều hướng đối ngược, phụ thuộc
vào mức độ sở hữu nhà nước tại điểm cực tiểu hình chữ U. Mối quan hệ hình chữ U
cũng đã được Yu (2013) lý giải trên cơ sở lập luận về mức độ tập trung sở hữu nhà
nước; và cũng là kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học khác về trường hợp
doanh nghiệp tại Trung Quốc như Wei và cộng sự (2005), Tian và Estrin (2008),
Gunasekarage và cộng sự (2007), Hess và cộng sự (2010).
Cơ sở để đưa ra giả thuyết H4, H5, H6 được dựa trên tổng quan kết quả nghiên
cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu theo đặc tính sở hữu (sở hữu tư nhân, sở hữu
nước ngoài) với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Không ít nhà khoa học trong và
ngoài Việt Nam đã chứng minh rằng sở hữu nước ngoài có tác động tích cực tới hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp như Claessens và Djankov (1999), Wei và cộng sự
(2005), Gurbuz và Aybars (2010), Lê Đức Hoàng (2015). Về tác động của sở hữu tư
nhân tới hiệu quả hoạt động, đa số kết quả nghiên cứu đã khẳng định vai trò tích cực
của thành phần sở hữu này, và thực tiễn quá trình CPH, sắp xếp lại DNNN tại Việt
Nam thời gian qua cũng ghi nhận điều đó. Tuy nhiên, do có thể có sự khác nhau liên
quan đến tính chất cổ đông là cá nhân hay tổ chức, đánh giá tác động của sở hữu tư
nhân trong nước được tách ra theo giả thuyết H5, H6. Nghiên cứu của McConnell và
Servaes (1990), Hartzell và Starks (2003) chỉ ra rằng sở hữu tổ chức có tác động tích
71
cực tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; lý do từ tính chuyên nghiệp trong đầu tư
của các tổ chức (McConnell và Servaes, 1990), cũng như vai trò giám sát của các tổ
chức trong việc giảm thiểu chi phí đại diện phát sinh giữa cổ đông và nhà quản lý
(McConnell và Servaes, 1990; Hartzell và Starks, 2003); trong khi đó, Duggal và Millar
(1999) lại nghi ngờ khả năng giám sát của các nhà đầu tư là tổ chức khi không tìm thấy
bằng chứng tác động của sở hữu tổ chức đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
* Về tác động của hiệu quả hoạt động doanh nghiệp tới sở hữu nhà nước
H7: Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tác động tới tỉ lệ sở hữu nhà nước tại
doanh nghiệp. Đây là giả thuyết nghiên cứu mới đặt ra tại Việt Nam nhằm xem xét vấn
đề nội sinh của cấu trúc sở hữu; và liệu có hay không ảnh hưởng của hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp tới quyết định duy trì, tăng đầu tư hay thoái vốn nhà nước đầu
tư tại các doanh nghiệp mà Nhà nước có cổ phần. Giả thuyết được đặt ra trên cơ sở lý
thuyết cấu trúc sở hữu nội sinh, cấu trúc sở hữu của một doanh nghiệp phản ánh ảnh
hưởng của các cổ đông và giao dịch trên thị trường cổ phiếu. Hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp sẽ tác động đến quyết định của các nhà đầu tư, bao gồm cả Nhà nước, từ
đó tác động tới cấu trúc sở hữu của doanh nghiệp. Mối quan hệ hai chiều giữa cấu trúc
vốn chủ sở hữu và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cũng đã được các công trình
nghiên cứu nước ngoài đề cập, như mục 2.2 đã tổng quan.
4.1.2. Mô hình nghiên cứu
Phương trình 1: Kiểm tra tác động từ cấu trúc sở hữu tới hiệu quả hoạt động
- Tác động tuyến tính của các thành phần sở hữu tới hiệu quả - Phương
trình 1.1:
- Tác động phi tuyến tính của các thành phần sở hữu tới hiệu quả hoạt động
với việc bổ sung biến SquareY (lần lượt là bình phương của từng thành phần sở hữu
được kiểm định tác động phi tuyến tính) – Phương trình 1.2:
Trong đó:
72
- Biến phụ thuộc: PFit để đo lường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp i
trong năm t. Thước đo hiệu quả hoạt động được dựa trên phần trăm thay đổi của tỷ
suất sinh lời (ROA, ROE), và Tobin-Q.
Việc sử dụng thước đo hiệu quả theo các chỉ số ROA (lợi nhuận trên tổng tài
sản) và ROE (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) phản ánh giá trị sổ sách về hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp thông qua chỉ tiêu “lợi nhuận”. Tùy thuộc vào mục tiêu nghiên
cứu, khai thác các khía cạnh liên quan đến chỉ tiêu “lợi nhuận”, thậm chí do vấn đề về
cơ sở dữ liệu nghiên cứu mà các nhà nghiên cứu có thể sử dụng các cách xác định
khác nhau: (i) Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (Earle và cộng sự, 2005; Hu và Izumida,
2008a; Gurbuz và Aybars, 2010; Le và Buck, 2011; Wang và Xiao, 2011); hoặc (ii)
Lợi nhuận thuần cộng với lãi vay (Shah và cộng sự, 2011; Thomsen và Pedersen,
2000), hay đơn giản chỉ là lợi nhuận thuần (Tian và Estrin, 2008; LI và cộng sự,
2009b). Tuy nhiên, hạn chế của chỉ số ROA, ROE là chỉ phản ánh hiệu quả quá khứ
(kết quả sản xuất kinh doanh và lợi nhuận doanh nghiệp đạt được trong kỳ kế toán đã
qua) (Hu và Izumida, 2008b).
Ngoài ra, đối với một số chỉ số cùng nhóm chỉ tiêu lợi nhuận như ROS hoặc
ROI cũng không đưa ra một góc nhìn dài hạn cho cổ đông và lãnh đạo doanh nghiệp
bởi đó là các thước đo quá khứ và ngắn hạn (Jenkins và cộng sự, 2011).
Vì vậy, h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_cau_truc_so_huu_va_hieu_qua_hoat_dong_cua_cac_doanh.pdf