MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 7
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 7
1.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài 17
1.3. Giả thuyết những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về chất lượng xét xử
các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay 23
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 30
2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò chất lượng xét xử các vụ án hành chính
của Tòa án nhân dân cấp tỉnh 30
2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử các vụ án hành chính của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh 49
2.3. Các điều kiện bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh 62
Chương 3: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ
CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 70
3.1. Thực trạng tổ chức và chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa hành
chính thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh 70
3.2. Thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân
dân cấp tỉnh 78
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG
XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 118
4.1. Quan điểm bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh 118
4.2. Các giải pháp bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay 127
KẾT LUẬN 157
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160
175 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 491 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay - Trần Quốc Hùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phán; sự tận tụy,
không chậm trễ là giá trị không thể thiếu đối với Thẩm phán, việc giải quyết nhanh
nhất các VAHC sẽ đáp ứng được yêu cầu ngăn cản công lý chậm chế, mà công lý
chậm trễ là công lý bất công.
Thẩm phán TAND cấp tỉnh đều là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, có
trình độ cao cấp chính trị trở lên. Đa số Thẩm phán có phẩm chất chính trị tốt, trung
thành với đảng, với tổ quốc. Qua số liệu về công tác quản lý cán bộ của ngành Tòa
án cho thấy chưa có trường hợp nào Thẩm phán có quan điểm phi chính trị hoặc có
hành vi gây tổn hại đến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
79
Thứ hai: Về sự tuân thủ pháp luật trong xét xử các VAHC của TAND
cấp tỉnh
Trong những năm gần đây, để đảm bảo chất lượng lượng xét xử các VAHC,
TANDTC đã quy định các tiêu chuẩn, tiêu chí, chuẩn mực cụ thể về việc tuân thủ
pháp luật, áp dụng pháp luật trong giải quyết án hành chính của TAND các cấp,
trong đó có các tiêu chí đối với TAND cấp tỉnh. Đánh giá về kết quả của việc tuân
thủ pháp luật trong giải quyết án hành chính, trong báo cáo tổng kết các năm 2016,
2017 TANDTC đều khẳng định: Trong quá trình giải quyết các VAHC, các Tòa
án đã chú trọng việc tổ chức đối thoại giữa người khởi kiện và người bị kiện, nên
nhiều vụ án sau khi đối thoại, các bên đã thống nhất cách thức giải quyết và người
khởi kiện đã rút đơn khởi kiện; đồng thời quan tâm làm tốt công tác phối hợp với
các cơ quan liên quan xây dựng hồ sơ vụ án, thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết
nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời. Mặc dù các loại
án hành chính là loại án rất phức tạp, nhưng nhìn chung công tác giải quyết, xét xử
loại án này trong thời gian qua tiếp tục được đảm bảo đúng pháp luật, góp phần
nâng cao hiệu quả QLHCNN. Một số Tòa án đã làm tốt công tác giải quyết, xét xử
các vụ án hành chính trong năm qua là: TANDcác tỉnh Nam Định, Quảng Ngãi,
Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang, Long An,
Tiền Giang [101].
Ví dụ: Kết quả giải quyết án hành chính năm 2016 cho thấy: Tòa án nhân
dân các cấp đã thụ lý 6.708 vụ, tăng 449 vụ so với cùng kỳ năm 2015; đã giải quyết,
xét xử được 5.358 vụ, đạt tỷ lệ 80%; trong đó, giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ
thẩm 4.011/4.933 vụ; theo thủ tục phúc thẩm 1.296/1.701 vụ và theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm 51/74 vụ. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 3,75% (do
nguyên nhân chủ quan 2,9% và do nguyên nhân khách quan 0,85%); bị sửa là
3,92% (do nguyên nhân chủ quan 3,34% và do nguyên nhân khách quan là 0,58%).
Tỷ lệ các bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là 42,4%;
tỷ lệ kháng nghị giám đốc thẩm là 1,4%; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy do lỗi
chủ quan giảm 0,13% so với cùng kỳ năm trước [101].
Thông qua kết quả xét xử các năm của Tòa án cho thấy hoạt động xét xử các
VAHC của TAND cấp tỉnh đều có liên quan đến hoạt động xét xử sơ thẩm của
80
TAND cấp huyện, vì TAND cấp tỉnh có chức năng xét xử phúc thẩm các bản án,
quyết định của TAND cấp huyện khi có kháng cáo hoặc kháng nghị. Liên quan đến
TAND cấp cao vì bản án, quyết định sơ thẩm của TAND cấp tỉnh xét xử khi có
kháng cáo, kháng nghị thì chức năng xét xử phúc thẩm thuộc TAND cấp cao.
Thông qua kết quả trên cho thấy việc áp dụng pháp luật trong giải quyết án của đội
ngũ Thẩm phán TAND cấp tỉnh đã có những bước được nâng cao.
Thứ ba: Về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng xét xử các vụ án hành chính
của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
- Về chuyên môn nghiệp vụ
Xét xử án hành chính là một trong những hoạt động khá mới của Tòa án, để
đánh giá chất lượng xét xử của Tòa án Lận án xin được nêu số liệu án hành chính
trong giai đoạn đầu mà Tòa án được giao nhiệm vụ xét xử các VAHC thì lượng án
chưa nhiều, càng về sau thì án hành chính có chiều hướng gia tăng về số lượng. Tuy
nhiên, so với số lượng các loại án khác như án: hình sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình, lao động thì tỷ lệ tăng của án hành chính là không đáng kể.
Về chất lượng xét xử các VAHC được giải quyết từng bước được nâng cao.
Tỷ lệ các bản án, quyết định trong VAHC bị hủy, bị cải sửa đã giảm đáng kể. Năm
2011 số án bị sửa là 146 vụ /624 vụ chiếm tỷ lệ: 23,4%; năm 2017 là 3,78%; Tỷ lệ
án bị hủy năm 2011 là: 44 vụ/624 vụ chiếm tỷ lệ: 7,05%. Đến năm 2017 tỷ lệ án bị
hủy là: 4,09% [101]. Như vậy, chất lượng xét xử các VAHC đã được cải thiện rõ
rệt. Có được kết quả này là do sự nỗ lực của các Tòa án, của Thẩm phán xét xử các
VAHC ở TAND cấp tỉnh. Mặt khác về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ
Thẩm phán đã được nâng cao, kinh nghiệm, kỹ năng xét xử án hành chính đã được
tăng cường đáng kể.
Mặc dù Luật TTHC năm 2015 có rất nhiều các quy định mới so với trước
đây và các VAHC thường phức tạp nhưng các Tòa án đã có nhiều cố gắng trong
việc giải quyết các VAHC bảo đảm đúng các quy định của pháp luật, hạn chế tối đa
các sai sót xảy ra. Trong quá trình giải quyết án hành chính các Thẩm phán TAND
cấp tỉnh đã chú trọng đến việc thu thập chứng cứ, xem xét, đánh giá, sử dụng chứng
cứ phù hợp với yêu cầu của LTTHC. Việc nhận diện, đánh giá tính hợp pháp của
QĐHC, HVHC của các Thẩm phán đã được nâng cao và bảo đảm tính chính xác
81
theo quy định của pháp luật. Nhiều vụ việc đã được giả quyết hợp lý ngay trong quá
trình đối thoại mà không cần phải mở phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa đảm
bảo tính thuyết phục ngay cả với người bị kiện được xem là “đương sự khó tính”
bậc nhất của tố tụng tư pháp (Công quyền). Kết quả giải quyết các VAHC của
TAND cấp tỉnh đã có tác động:
Góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLHCNN.
Kết quả giải quyết các KKHC của Tòa án các cấp đã khẳng định vai trò to
lớn của quá trình giải quyết KKHC bằng con đường tư pháp. Thông qua hoạt động
của THC các cấp, về phía người dân đã ngày càng tin tưởng hơn vào hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy nhà nước, công cuộc đổi mới pháp luật, cải cách tư pháp. Việc giải
quyết các KKHC tại Tòa án được xem là một bước phát triển của cải cách tư pháp
phục vụ công cuộc đổi mới của đất nước. Sau khi Tòa hành chính được thành lập
(1996) đến nay, quá trình giải quyết án hành chính, Tòa án đã chỉ ra những thiếu
sót, những bất cập của từng QĐHC, từng HVHC. Những vi phạm pháp luật trong
xử lý những quan hệ pháp luật hành chính cụ thể trong các lĩnh vực: quản lý đất đai,
nhà ở, lĩnh vực thuế, hải quan, xử lý vi phạm hành chính (VPHC) Qua đó đã
nâng cao nhận thức pháp luật, tinh thần trách nhiệm trong thi hành nhiệm vụ, công
vụ của các cơ quan HCNN, cán bộ, công chức nhà nước ở địa phương.
Với vai trò là cơ quan xét xử, phán quyết của Tòa án về tính hợp pháp của
QĐHC, HVHC bị khiếu kiện đảm bảo tính khách quan, đem lại lòng tin cho nhân
dân. Chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh được đảm bảo sẽ góp phần
quan trọng vào việc chấm dứt các khiếu kiện đông người, vượt cấp, ngăn ngừa tình
huống phát sinh “điểm nóng” về an ninh trật tự; góp phần giữ vững an ninh - chính
trị -trật tự an toàn xã hội. Đồng thời, khi xét xử công tâm, khách quan, vô tư, trung
thực chỉ tuân theo pháp luật thì phán quyết của Tòa án chắc chắn sẽ tạo được niềm
tin của dân chúng vào trước hết là cán cân công lý, vào pháp luật và lớn hơn là tin
tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của chính phủ, số lượng
án hành chính sẽ tăng nhanh, không trong tình trạng như hiện nay. Người dân quan
tâm và đánh giá cao tính công khai, minh bạch khi giải quyết các KKHC tại Tòa án.
Các quyết định của cơ quan hành chính được ban hành không đúng trình tự, thủ tục,
thẩm quyền và nội dung mà pháp luật quy định khi bị Tòa án tuyên xử hủy bỏ là
82
thực tế minh chứng cho sự cần thiết của phán quyết hành chính, góp phần bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Ngược lại, khi các yêu cầu khởi
kiện của cá nhân, tổ chức không được Tòa chấp nhận cũng giúp cho người khởi
kiện hiểu và nắm vững hơn pháp luật, thông suốt những quyết định của cơ quan
QLHCNN, từ đó tự nguyện thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình.
Sự nỗ lực của ngành Tòa án, hàng năm Tòa án các cấp đã giải quyết được
một số lượng nhất định các KKHC, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các cá nhân, tổ chức. Mặc dù so với số lượng các vụ án hình sự, dân sự, số lượng
các VAHC được giải quyết tại Tòa án là không lớn nhưng việc giải quyết các
VAHC có đặc điểm riêng, thường phức tạp, do một số các nguyên nhân chủ quan,
khách quan nên việc giải quyết cũng gặp một số khó khăn nhưng các Tòa án đã có
nhiều cố gắng trong việc phối hợp với các cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan xây
dựng hồ sơ vụ án, thu thập các chứng cứ cần thiết, cố gắng tuân thủ các quy định
của pháp luật.
Đối với TAND các địa phương đều có những cố gắng nhất định trong việc
giải quyết án hành chính, được xem như là một trong những loại án khó giải quyết.
Chẳng hạn đối với TAND tỉnh Đắk Lắk,về chất lượng xét xử của TAND cấp huyện
của tỉnh Đắk Lắk cho thấy: Trong tổng số các vụ án mà Tòa án cấp huyện thụ lý kết
quả xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm xử sửa án sơ thẩm 13 vụ và hủy án sơ thẩm
15 vụ. Đối với TAND tỉnh Đắk Lắk bị cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm xử sửa án sơ
thẩm 1 vụ và hủy án sơ thẩm 2 vụ [103]. Công tác thụ lý, giải quyết, xét xử các
VAHC của hai cấp TAND tỉnh Đắk Lắk đã đạt những thành tích cao, tỷ lệ án hủy,
sửa có xu hướng giảm dần, chất lượng xét xử ngày càng được tăng cường, góp phần
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, công dân, tổ chức. Đồng thời góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cũng
như nâng cao vị trí, vai trò của TAND.
Qua các số liệu thống kê các VAHC mà Tòa án xét xử trong những năm qua
cho thấy số lượng án hành chính mà TAND nói chung cũng như TAND cấp tỉnh
nói riêng thụ lý có xu hướng tăng lên năm sau cao hơn năm trước (Năm 2011: 504
vụ; năm 2013: 1.788 vụ; năm 2017: 1.952 vụ bao gồm cả xét xử sơ thẩm và phúc
thẩm. Tính riêng năm 2017 tổng số vụ án hành chính là 7.922 vụ, tăng 1.214 vụ so
83
với cùng kỳ năm 2016) [101]. Từ khi Luật TTHC có hiệu lực thi hành, số lượng các
KKHC được giải quyết tại Tòa án đã tăng lên đáng kể. Trong điều kiện các khiếu
nại hành chính ở các cơ quan hành chính nhà nước là rất lớn thì việc tăng số lượng
các KKHC được giải quyết tại Tòa án thể hiện Luật TTHC đã đi vào cuộc sống, thu
hút được sự quan tâm của các cá nhân, tổ chức trong xã hội, phát huy tác dụng trong
thực tiễn.
Trong điều kiện các khiếu nại hành chính ở các cơ quan HCNN là rất lớn thì
việc tăng số lượng các KKHC được giải quyết tại Tòa án thể hiện Luật TTHC đã đi
vào cuộc sống, thu hút được sự quan tâm của các cá nhân, tổ chức trong xã hội, phát
huy tác dụng trong thực tiễn. Vị thế của THC đã được khẳng định trong đời sống xã
hội và là công cụ không thể thiếu được trong công cuộc cải cách hành chính, cải
cách tư pháp. Kết quả giải quyết các VAHC của TAND cấp tỉnh đã khẳng định vai
trò to lớn của quá trình giải quyết khiếu kiện hành chính bằng con đường tư pháp.
- Về kỹ năng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh.
Trong những năm gần đây, kỹ năng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh
đã được nâng lên một bước đáng kể, góp phần tích cực vào hiệu lực và hiệu quả của
hoạt động giải quyết án hành chính. Một mặt đội ngũ công chức làm công tác xét xử
đã tích lũy được những kinh nghiệm nhất định về giải quyết án hành chính. Mặt
khác công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về kỹ năng xét xử các VAHC đã được
coi trọng và được quan tâm thỏa đáng. Phương pháp tiếp cận, cách thức giải quyết
án của đội ngũ Thẩm phán đã được nâng cao một bước và bảo đảm chuẩn mực hơn.
Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có hoạt động xét xử các
VAHC của TAND cấp tỉnh tuân thủ theo nguyên tắc tố tụng mới theo hướng chặt
chẽ hơn. Công tác giám sát hoạt động tư pháp của VKSND cấp tỉnh được tăng
cường nên đã góp phần quan trọng bổ sung, rút kinh nghiệm cho HĐXX, cho Thẩm
phán được kịp thời và chuẩn xác hơn.
Mặc dù các vụ án hành chính là loại án rất phức tạp, nhưng nhìn chung công
tác giải quyết, xét xử loại án này trong thời gian qua tiếp tục được đảm bảo. Kỹ
năng thu thập chứng cứ, thiết lập hồ sơ cần thiết đề giải quyết vụ án được chính xác
và đầy đủ hơn. Nhất là kỹ năng tổ chức, điều hành thủ tục đối thoại giữa người khởi
kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được chú trọng nên
84
nhiều vụ án đã được kết thúc ngay từ giai đoạn đối thoại mà không phải mở phiên
tòa do các bên đã thống nhất được phương án giải quyết, người khởi kiện rút đơn
khởi kiện.
Thứ tư: Về số lượng bản án, quyết định của Tòa án bị sử, hủy
Kết quả xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh trong 07 năm, từ năm 2011
đến năm 2017, theo báo cáo thống kê của TANDTC các năm thể hiện chất lượng
xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh như sau:
Bảng thống kê số liệu xét xử các vụ án hành chính các cấp Tòa án qua
các năm
Xét xử phúc thẩm
Năm Cấp Tòa án
Xét xử
Sơ thẩm Tổng cộng Y án Sửa án Hủy án
Xét xử
giám đốc
thẩm
Cấp huyện 525
Cấp tỉnh 96 408 218 146 44 2011
Cấp cao (Phúc thẩm cũ) 77 50 9 18
Cấp huyện 1254
Cấp tỉnh 276 665 432 120 113 2012
Cấp cao (Phúc thẩm cũ) 126 74 27 25
Cấp huyện 1720
Cấp tỉnh 399 1389 936 289 164 2013
Cấp cao (Phúc thẩm cũ) 270 189 27 54
Cấp huyện 1651
Cấp tỉnh 244 1361 925 246 190 2014
Cấp cao (Phúc thẩm cũ) 270 196 25 49
Cấp huyện 1345
Cấp tỉnh 324 1127 772 203 152 2015
Cấp cao 149 88 23 38 2
Cấp huyện 3.536
Cấp tỉnh 475 1.078 1.006 35 37
2016
Cấp cao 218 192 15 11 57
Cấp huyện 3.261
Cấp tỉnh 535 1.369 1.291 37 41 2017
Cấp cao 317 293 13 11 77
Nguồn: [101]; [102]; [104]; [105]; [106]; [107]; [109]
85
Việc thống kê tình hình và chất lượng xét xử của TAND ba cấp: huyện, tỉnh,
cấp cao để có cơ sở xem xét, đánh giá tổng thể chất lượng xét xử của TAND cấp tỉnh.
Bởi lẽ, với chức năng của TAND cấp tỉnh thì công tác giải quyết án của TAND cấp
huyện liên quan đến kết quả xét xử phúc thẩm của TAND cấp tỉnh; kết quả xét xử
phúc thẩm của Tòa án cấp cao ở các khu vực liên quan đến chất lượng xét xử sơ thẩm
các VAHC của TAND cấp tỉnh. Chính vì vậy, việc thống kê đầy đủ kết quả hoạt
động hàng năm của cả ba cấp Tòa án có ý nghĩa thiết thực đối với luận án.
Trong bẩy năm, tổng số án mà TAND cấp tỉnh xét xử là: 9.746 vụ (bao gồm
cả xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm). Trong đó, xét xử phúc thẩm: 7.397 vụ; xét
xử sơ thẩm: 2.349 vụ. Trong 2.349 vụ TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm thì có
1.427/2.349 = 60,7% số vụ có kháng cáo, kháng nghị. Trong 1.427 vụ có kháng cáo
thì TAND cấp cao xử phúc thẩm: y án 1.092/1.427 vụ = 76,5%; sửa án là 139
vụ/1.427 vụ = 9,74%; hủy án là 206 vụ/1.427 vụ = 14,4% [101].
Một trong những vấn đề cần phải được xác định để đánh giá chất lượng xét
xử các VAHC của TAND cấp tỉnh, đó là số lượng, tỷ lệ bán án, quyết định của Tòa
án bị kháng cáo, kháng nghị và bị sửa, hủy do xét xử phúc thẩm hoặc xét xử theo
trình tự giám đốc thẩm. Chỉ số về tỷ lệ kết quả xét xử các VAHC của TAND cấp
tỉnh không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm, tái
thẩm (không có sự phản đối của đương sự hoặc cơ quan có thẩm quyền) cần được
xem đó cũng là một tiêu chí quan trọng và cần thiết để đánh giá chất lượng xét xử
các VAHC của TAND cấp tỉnh. Bởi lẽ, kết quả đó phản ánh sự đồng thuận, sự hài
lòng của người khởi kiện, người bi kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan,
của những người có thẩm quyền kháng nghị trong các cơ quan VKSND, TAND.
Tuy nhiên, trong tổng số các VAHC mà TAND cấp tỉnh giải quyết, tỷ lệ án hoặc
quyết định của Tòa án bị cải sửa hoặc bị hủy là vấn đề cần được nghiên cứu, xem
xét, đánh giá cẩn trọng, nhất là số lượng án bị sửa, hủy do lỗi chủ quan của HĐXX.
Điều này phản ánh rõ nét nhất về chất lượng xét xử của Tòa án. Đồng thời thể hiện
cả về phương diện phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng xét xử và
thái độ, trách nhiệm của Thẩm phán khi giải quyết án hành chính.
Trong những năm qua, tỷ lệ án bị hủy có chiều hướng giảm dần hàng năm.
Năm 2014 tỷ lệ án bị hủy là 4,64% (trong đó do nguyên nhân chủ quan 3,77%, do
86
nguyên nhân khách quan là o,87%); tỷ lệ án bị sửa 4,3% (do nguyên nhân chủ quan
3,4%, do nguyên nhân khách quan 0,9%). Đến năm 2016 tỷ lệ án bị hủy và sửa đã
giảm đáng kể, án bị hủy là 3,75% (do lỗi chủ quan 2,9%, lỗi khách quan 0,85%); án
bị sửa 3,92% (do lỗi chủ quan 3,14%, nguyên nhân khách quan 0,58%). Tỷ lệ các
bản án quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là 42,4%; tỷ lệ
kháng nghị giám đốc thẩm là 1,4%; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ
quan giảm 0,13% so với cùng kỳ năm trước [101]. Điều này thể hiện chất lượng xét
xử các VAHC của TAND cấp tỉnh cũng đã được cải thiện đáng kể.
3.2.1.2. Nguyên nhân của kết quả, ưu điểm
Kết quả xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh trong thời gian qua là đáng
ghi nhận. Có được kết quả đó là do nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên
nhân cơ bản và chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: Nhóm nguyên nhân chủ quan
- Có sự nỗ lực, tích cực của đội ngũ Thẩm phán, của những người tham gia
giải quyết các VAHC thuộc TAND các cấp, trong đó có TAND cấp tỉnh với một
vai trò cực kỳ quan trọng trong xét xử các VAHC. Một mặt, vừa phấn đấu trong
công việc, khắc phục khó khăn, giữ vững niềm tin chuyên môn, bản lĩnh nghề
nghiệp trước những khó khăn, áp lực từ nhiều phía khi xét xử các VAHC. Mặt khác
đội ngũ cán bộ, công chức này nhất là Thẩm phán đã được đào tạo, bồi dưỡng khá
bài bản, chuyên nghiệp về nghề xét xử các VAHC tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
có uy tín ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Thông qua rèn luyện đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác này từng bước trưởng thành cả về phẩm chất chính trị, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh, kỹ năng nghề nghiệp cũng như kinh nghiệm
xét xử.
- Có sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo của lãnh đạo TANDTC, của Đảng ủy,
lãnh đạo TAND các tỉnh, thành phố trong việc chỉ đạo, điều hành hoạt động của
TAND cấp tỉnh, thành phố và vai trò kiểm tra, giám đốc án, kịp thời phát hiện, chấn
chỉnh, rút kinh nghiệm trong quá trình xét xử. Mặt khác TANDTC cũng đã tích cực
triển khai thực hiện các hoạt động bồi dưỡng tập huấn, tọa đàm nghiệp vụ cho đội
ngũ Thẩm phán hành chính thuộc TAND cấp tỉnh.
87
- Hoạt động giám đốc, kiểm tra, giám sát của TAND cấp tỉnh từng bước
được tăng cường. Thông qua kiểm tra, giám sát đã kịp thời chấn chỉnh những thiếu
sót trong quá trình thu thập, đánh giá tài liệu, thông tin, chứng cứ, quá trình áp dụng
và thực hiện các thủ tục tố tụng, áp dụng pháp nội dung, thủ tục đối thoại, kỹ năng
xây dựng, viết bản án của Thẩm phán, cho nên hiệu quả và hiệu lực xét xử các
VAHC của TAND cấp tỉnh được nâng cao.
Thứ hai: Nhóm nguyên nhân khách quan
- Có sự lãnh đạo sát sao của Đảng, Đảng đã có những chủ trương đúng đắn,
kịp thời như Nghị quyết số 48, 49 về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật và chiến lược cải cách tư pháp đến 2020. Nhất là sự lãnh đạo, chỉ đạo của các
tỉnh ủy, thành ủy, các cấp ủy đảng của TAND cấp tỉnh (Đảng ủy và các chi ủy) đối
với công tác tư pháp nói chung và công tác xét xử các VAHC nói riêng ở các địa
phương, nhất là đối với TAND cấp tỉnh.
- Sau khi đất nước ta đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã tiếp cận
được nhiều mô hình “tài phán hành chính” khác nhau từ các quốc gia phát triển và
đang phát triển. Qua đó cũng đã học tập, tham khảo những ưu việt của các mô hình
khác nhau để vận dụng vào hoàn cảnh nước ta một cách có chọn lọc. Đây cũng là
yếu tố quan trọng để chúng ta xây dựng một thể chế pháp lý cần và đủ cho một
hành lang pháp lý để xử lý các tranh chấp hành chính. Nhất là những kinh nghiệm
quý báu trong giải quyết, xét xử các VAHC thông qua con đường tư pháp còn non
trẻ ở nước ta.
- Về thể chế pháp lý liên quan đến xét xử các VAHC đã được kịp thời chỉnh
sửa, bổ sung hoặc ban hành mới khá đầy đủ như: Luật TTHC năm 2015; Luật Tổ
chức TAND năm 2014; Bộ luật dân sự năm 2013; luật đất đai năm 2013; Bộ án lệ
mẫu được Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành làm chuẩn mực cho các hoạt
động xét xử, trong đố có xét xử án hành chính; Nghị quyết 01/2015/HĐTP -
TANDTC hướng dẫn bổ bung Nghị quyết số 02 năm 2011 về thi hành luật
TTHC là những thiết chế pháp lý quan trọng để TAND triển khai thực hiện chức
năng xét xử đạt hiệu quả thiết thực.
88
3.2.2. Hạn chế trong xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh và nguyên nhân
3.2.2.1. Những hạn chế trong xét xử các vụ án hành chính của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh
Một là: Hạn chế về đạo đức trong hoạt động nghề Thẩm phán
Đạo đức nghề nghiệp xét xử có yêu cầu rất cao, vì xét xử luôn liên quan đến
con người. Một số VAHC được TAND cấp tỉnh xét xử chưa thực sự thuyết phục, số
lượng án có kháng cáo, kháng nghị vẫn còn nhiều, tỷ lệ án bị sửa bình quân trong
07 năm từ 2011 -2017 là 5,8% (trong đó năm 2011: 11,6%; năm 2012: 21,4%; năm
2013 10%; năm 2014:9,2%; năm 2015:15,4%; năm 2016: 3,92%; năm 2017:
3,87%). Tỷ lệ án bị hủy cũng đáng lo ngại, trong 07 năm, số lượng án hành chính
do TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị, bị TAND cấp cao xét
xử phúc thẩm hủy án bình quân là: 14,4%% (trong đó, năm 2011:23,4%; năm 2012:
20%; năm 2013:20%; năm 2014: 18,3%; năm 2015: 25,6%; năm 2016: 3,75%; năm
2017:4,09%) [101]; [102]; [104]; [105]; [106]; [107]; [109]. Lý do hủy án chủ yếu
thuộc về lỗi chủ quan của HĐXX. Một số lỗi như: vi phạm nghiêm trọng tố tụng;
nhận thức và áp dụng pháp luật để giải quyết án chưa đúng. Chẳng hạn như: xác
định thời hiệu không đúng; xá định sai đối tượng khởi kiện; sai người bị kiện; xác
định thẩm quyền xét xử chưa chính xác Một số trường hợp do Thẩm phán bị tác
động bởi “quyền lực” hoặc vật chất nên đã đưa ra những căn cứ, áp dụng những
tình tiết bất lợi cho người khởi kiện.
Mặt khác, về đạo đức nghề luật và bản lĩnh nghề nghiệp của một số người
làm công tác xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh còn bất cập. Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội
nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ giữa con
người với con người, giữa cá nhân và xã hội. Đạo đức tư pháp là tập hợp các quan
điểm, tư tưởng, nhận thức của một người, một tập thể, một dân tộc về hoạt động tư
pháp cũng như về một nền công lý xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc
tháng 2/1948: Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của Chính phủ, cho nên càng phải
có tinh thần đoàn kết, hợp tác chặt chẽ với các cơ quan khác, để tránh những mối
xích mích lẫn nhau, nó có thể vì lợi quyền nhỏ và riêng mà hại đến quyền lợi to và
89
chung cho cả tư pháp và hành chính. Đồng thời Người đã phát biểu: Xét xử đúng là
tốt nhưng nếu không phải xét xử thì tốt hơn. Tại Hội nghị học tập của cán bộ ngành
tư pháp năm 1950, Người cũng đã nói: Trong công tác xử án phải công bằng,
liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không thể chỉ hạn chế hoạt động của
mình trong khung Tòa án. (Hội nghị tư pháp năm 1949).
Nhìn chung, các Thẩm phán có phẩm chất, đạo đức tốt, trung thành với
Đảng, với Tổ quốc. Qua công tác quản lý cán bộ cho thấy chưa có trường hợp nào
có quan điểm “trái chiều” hoặc có hành vi gây tổn hại đến đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Nhiều người trưởng thành từ thực tiễn chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc, lao động xây dựng đất nước và nhiều đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của
đất nước nói chung và ngành Tòa án nói riêng.
Tuy nhiên, do tác động của nền kinh tế thị trường một bộ phận Thẩm phán
có biểu hiện mưu cầu lợi ích cá nhân, cá biệt có những trường hợp Thẩm phán vi
phạm nghiêm trọng về phẩm chất đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp bị xử lý về
hành chính hoặc vi phạm pháp luật đã bị truy tố, xét xử về tội ra bản án, quyết định
trái pháp luật, nhận hối lộ hoặc, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản... Nhất là tình trạng
“chạy án” trong đời sống xã hội, đời sống tư pháp lâu nay diễn ra khá phổ biến.
Tình trạng nhận hối lộ, dàn xếp án, cũng không chỉ ngành Tòa án mà phổ biến ở
hầu hết các khâu: điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Một số Thẩm phán kỹ
năng thao tác nghiệp vụ về thụ lý, xét xử, nhất là đối với án hành chính còn non
kém, bởi ngại va chạm, thậm chí còn “sợ” cơ quan hành chính cùng cấp, cho nên
còn nhiều tình trạng “né - tránh” hoặc đùn đẩy việc thụ lý hoặc có thụ lý thì việc
giải quyết vẫn nghiêng về cơ quan hành chính nhà nước.
Một trong những tiêu chuẩn mà Luật tổ chức Tòa án quy định đối với người
Thẩm phán là phải có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, gương mẫu
trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các
quy tắc sinh hoạt cộng đồng và có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN. Pháp
luật hiện hành chưa có quy định tiêu chuẩn bắt buộc đối với Thẩm phán về trình độ lý
luận chính trị. Đối với T
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_chat_luong_xet_xu_cac_vu_an_hanh_chinh_cua_toa_an_nh.pdf